Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Hoạt động ngân hàng
Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
aa

Phụ nữ thoát nghèo nhờ đồng vốn ưu đãi của Nhà nước

Chúng tôi đến thăm hộ gia đình chị Lê Thị Hạnh, thôn Cảnh Dương, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế, tận mắt đếm được 16 ô chuồng, trong đó có 4 con lợn nái và hơn 100 con lợn nhỡ, lợn con vừa tách mẹ, thăm khu trang trại nuôi gà, vịt đông đúc, với hơn 2.000 con mới cảm nhận được sự vất vả của gia đình chị nhường nào.

Chị Hạnh kể, trước đây, cuộc sống của gia đình chị vô cùng khó khăn. Chồng mất sớm khi chị mới 30 tuổi để lại một mình gồng gánh nuôi 3 con đang tuổi ăn, tuổi học. Chị Hạnh đã tìm mọi cách xoay sở kiếm sống, nghĩ nhiều phương án phát triển kinh tế nhưng không có vốn. Thông qua Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế, chị Hạnh được vay 50 triệu đồng nguồn vốn sản xuất, kinh doanh vùng khó khăn từ NHCSXH huyện Phú Lộc. Có vốn trong tay, chị Hạnh bắt tay vào việc đầu tư mua lợn giống, gà, vịt, đào ao thả cá, trồng thêm cây tràm để chiết xuất tinh dầu. Khu vườn trồng tràm để lấy nguyên liệu chiết xuất tinh dầu tràm của chị Hạnh bước đầu đã mang lại thu nhập cho gia đình.

Với bản tính kiên cường của người con quê hương Phú Lộc, lại cần cù, thông minh, ham học hỏi, chị Hạnh đã tích cực tham gia các lớp tập huấn do Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Vĩnh phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc và NHCSXH tổ chức, áp dụng khoa học kỹ thuật, các kiến thức mới vào chăn nuôi, trồng trọt. Nhờ vậy, đàn lợn, vịt, gà, ao cá… của chị Hạnh cứ thế sinh sôi, tăng đàn, tháng sau nhiều hơn tháng trước, năm sau nhiều hơn năm trước. Với khát vọng thoát nghèo, bằng sự nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân, đến nay, cuộc sống gia đình chị Hạnh đã ổn định với nguồn thu nhập rất tốt từ mô hình kinh tế mà chị dày công xây dựng. Chị Hạnh phấn khởi chia sẻ: "Nguồn thu nhập từ nuôi lợn, gà, vịt… khoảng 50 triệu đồng mỗi tháng sau khi trừ hết chi phí đã giúp gia đình tôi có cuộc sống no đủ". Đây cũng là nguồn thu đáng mơ ước của những hội viên phụ nữ phát triển kinh tế bằng đồng vốn tín dụng chính sách.

Mô hình làm kinh tế của gia đình chị Lê Thị Hạnh, thôn Cảnh Dương, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế
Mô hình làm kinh tế của gia đình chị Lê Thị Hạnh, thôn Cảnh Dương, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế

Không dừng lại ở đó, tháng 01/2025, chị Hạnh tiếp tục vay 100 triệu đồng từ NHCSXH để xây thêm 16 ô chuồng thực hiện kế hoạch mở rộng mô hình trang trại chăn nuôi lợn. Đồng thời, chị còn mạnh dạn thuê đất trồng tràm để lấy nguyên liệu chiết xuất tinh dầu tràm cung cấp cho một số cơ sở có nhu cầu. Tuy nhiên, sản lượng tinh dầu còn thấp nên doanh thu chỉ đủ bù đắp các chi phí sản xuất, chi tiêu trong gia đình và trang trải tiền thuê 4 nhân công lao động làm việc với mức lương 6 - 7 triệu đồng/tháng. Nhờ sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc của bản thân, chị Hạnh đã có được nguồn thu nhập ổn định. Đều đặn hằng tháng, chị đã có tiền gửi tiết kiệm qua Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV).

Có thể nói, chị Hạnh là một trong những hội viên phụ nữ tiên phong, gương mẫu, đi đầu tại địa phương về phát triển kinh tế từ nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ, vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng.

Một gương điển hình khác phải kể đến là chị Võ Thị Nhung Xuân ở thôn Bình An, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế. Nguyên là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Vĩnh, trong thời gian còn công tác, chị Xuân luôn quan tâm, bám sát chị em hội viên, hướng dẫn họ sử dụng đồng vốn tín dụng chính sách để phát triển kinh tế hiệu quả. Bên cạnh đó, với khát khao được làm giàu trên chính mảnh đất quê hương nơi mình sinh ra - vùng biển Bình An quanh năm sóng vỗ dịu êm như tên gọi của nó, chị Xuân đã từng bước gây dựng Cơ sở sản xuất, chế biến hải sản Xuân Anh. Để có vốn thu mua nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất các sản phẩm mắm ruốc, mắm cốt… chị Xuân đã đăng ký và được NHCSXH duyệt vay 50 triệu đồng từ nguồn vốn chương trình giải quyết việc làm để đầu tư mua con ruốc, cá, mực… chế biến thành các sản phẩm mắm tôm chua, nước mắm cốt cá cơm, ruốc khô, cá khô, mực một nắng… mang thương hiệu Xuân Anh.

Chị Võ Thị Nhung Xuân ở thôn Bình An, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế giới thiệu các sản phẩm của mình trên gian hàng gia đình
Chị Võ Thị Nhung Xuân ở thôn Bình An, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế giới thiệu các sản phẩm của mình trên gian hàng gia đình

Năm 2023, được Nhà nước cho nghỉ hưu theo chế độ lao động, chị Xuân đã tập trung toàn bộ thời gian cho việc nghiên cứu, phát triển sản phẩm. Chị mạnh dạn vay thêm vốn từ NHCSXH mở rộng cơ sở chế biến, tiếp tục phát triển nhiều loại sản phẩm làng nghề truyền thống. Với ba lần quay vòng vốn vay từ NHCSXH và tiết kiệm, tích lũy, lấy ngắn nuôi dài, kiên trì nghiên cứu sản xuất các sản phẩm sạch, chuẩn vị, hợp thị hiếu người tiêu dùng, song song đó là giới thiệu sản phẩm, phát triển thị trường, giờ đây, Cơ sở sản xuất, chế biến hải sản Xuân Anh đã khẳng định được chất lượng sản phẩm của mình. Đặc biệt, tháng 7/2023, Cơ sở sản xuất, chế biến hải sản Xuân Anh đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Phú Lộc tặng Giấy khen Giải Ba bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp huyện.

Chia sẻ về những thành quả đạt được nhờ nguồn vốn tín dụng ưu đãi, chị Xuân cho biết, các sản phẩm của Cơ sở sản xuất, chế biến hải sản Xuân Anh đã được cấp Chứng nhận an toàn thực phẩm số 0003/2024/NNPTNT-TTH, đạt chất lượng sản phẩm OCOP 3 sao và được bà con trong nước cũng như người Việt ở nước ngoài đặt hàng thường xuyên. Doanh thu từ các sản phẩm của Cơ sở đạt khoảng 200 triệu/năm sau khi đã trừ chi phí nhân công, nguyên vật liệu và các chi phí khác, ngoài ra còn giúp tạo việc làm thường xuyên cho 4 - 6 hội viên phụ nữ trong xã. Chị Xuân có mong muốn sẽ lưu giữ và phát triển nghề làm mắm truyền thống của quê hương, mang hương vị tới từng bữa ăn của gia đình người Việt cũng như người Việt ở nước ngoài và cả bạn bè quốc tế.

Nhận xét về nguồn vốn tín dụng chính sách, chị Xuân nhận thấy, nguồn vốn này rất hữu ích đối với người nghèo nói chung, chị em phụ nữ nói riêng để phát triển kinh tế, nâng cao quyền năng kinh tế của chị em, giúp họ thoát khỏi tự ti, mặc cảm về sự nghèo khó, tự tin tham gia phát triển kinh tế, qua đó hiểu biết và quản lý tài chính cá nhân, tài chính gia đình.

Đối với NHCSXH, chị tin tưởng ngân hàng luôn tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh; công tác quản lý của ngân hàng chặt chẽ, ứng dụng công nghệ vào quản lý vốn giúp việc giao dịch được nhanh chóng, thuận lợi, chính xác, tạo cho hộ vay nền nếp để trả tiền gốc, lãi đúng thời gian quy định. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng của NHCSXH thường xuyên đi thực tế, đến từng hộ dân, sâu sát với các hộ vay để kiểm tra hiệu quả vốn vay, do đó, nguồn vốn vay từ NHCSXH luôn được các hội viên sử dụng đúng mục đích, phát huy hiệu quả nguồn vốn.

Với việc sử dụng nguồn vốn vay từ NHCSXH để kinh doanh, buôn bán, chăm sóc cây trồng, chăn nuôi, sản xuất, phát triển làng nghề… có hiệu quả, nhiều gia đình hội viên, phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế thoát nghèo bền vững, cuộc sống ngày càng hạnh phúc, đủ đầy.

Chị Trần Thị Hương, Tổ trưởng Tổ TK&VV thôn Bình An, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế cho biết, Tổ chị Hương quản lý hiện có 55 tổ viên, dư nợ tính đến ngày 20/02/2025 đạt 2,7 tỉ đồng, không có nợ quá hạn, không có lãi tồn. 100% chị em trong Tổ chị Hương quản lý đều tham gia gửi tiền tiết kiệm. Hội viên tham gia đóng lãi và tiết kiệm đầy đủ, đúng hạn; mức đóng tiết kiệm trung bình từ 1 triệu

đồng đến 1,5 triệu đồng/hội viên/tháng. Việc thu lãi, gốc, tiết kiệm đều được chị Hương thực hiện trên App Quản lý tài chính cá nhân của NHCSXH, giúp chị nhập số liệu chính xác mà không phải tính toán trên sổ giấy như trước đây, nhờ đó rút ngắn các công đoạn, tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công sức.

Cầu nối tín dụng đến phụ nữ nghèo

Để chị em phụ nữ tự tin vay vốn, phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, hướng đến làm giàu, bên cạnh nguồn vốn tín dụng chính sách còn có sự trợ lực tích cực đến từ “cánh tay nối dài” là Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp. Qua đó, nhiều chị em đã mạnh dạn thay đổi nếp nghĩ, cách làm, đầu tư chuyển đổi hình thức sản xuất, kinh doanh; chú trọng trồng trọt, chăn nuôi, những cây, con mang lại giá trị kinh tế cao theo hướng phát triển các ngành, nghề truyền thống, xây dựng mô hình kinh tế trang trại… từng bước nâng cao thu nhập, có mức sống ổn định, đóng góp tích cực trong thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới của địa phương.

Chị Phan Thị Thanh Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, thành phố Huế cho biết, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Vĩnh đã thực hiện tốt công tác nhận ủy thác nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội. Hội đã giúp hơn 500 chị em hội viên phụ nữ trên địa bàn xã được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ NHCSXH, nhờ đó, chị em có vốn để phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao đời sống, thu nhập cho chị em hội viên, góp phần phát triển kinh tế xã Lộc Vĩnh. Tính đến cuối tháng 02/2025, tổng dư nợ của Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Vĩnh đạt 30 tỉ đồng với 580 hội viên còn dư nợ tại 13 tổ TK&VV. Thông qua nguồn vốn tín dụng chính sách, chị em phụ nữ trên địa bàn xã đã mạnh dạn vay vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh, xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả, qua đó, chị em trên địa bàn xã Lộc Vĩnh rất phấn khởi, mạnh dạn đầu tư hơn.

Bên cạnh đó, hằng năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Vĩnh đã rà soát các hội viên phụ nữ có sẵn mô hình kinh tế, qua đó phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể cấp trên tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật như chăn nuôi, hướng dẫn sản xuất, kinh doanh, đồng thời, triển khai nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho hội viên, phụ nữ trên địa bàn xã phát triển kinh tế. Khi có nguồn thu nhập, chị em luôn có ý thức hoàn trả vốn vay, đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống, từ đó tạo chuyển biến trong hoạt động của Hội, thu hút hội viên thêm gắn bó, tin tưởng vào hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ. Hội còn thường xuyên phối hợp với Phòng giao dịch NHCSXH huyện Phú Lộc kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của hội viên. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa Hội Liên hiệp Phụ nữ xã và Phòng giao dịch NHCSXH huyện, các tổ TK&VV đều nghiêm túc thực hiện, tuân thủ các quy trình, quy định của NHCSXH, đôn đốc hội viên trả lãi, gốc đúng hạn và gửi tiết kiệm đều đặn hằng tháng.

Chị Cái Diệu Trang, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc cho biết, hiện tại có 17 Hội Phụ nữ cấp xã nhận ủy thác từ Phòng giao dịch NHCSXH huyện với 131 tổ TK&VV. Thời gian qua, Hội Phụ nữ các cấp phối hợp NHCSXH tuyên truyền nội dung Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội; Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 10/8/2021 của Tỉnh ủy thành phố Huế, Công văn số 159/CV-HU ngày 24/8/2021 của Ban Thường vụ Huyện ủy Phú Lộc về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội đạt chất lượng và hiệu quả. Theo đó, phối hợp tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tín dụng chính sách; tuyên truyền các gương phụ nữ tiêu biểu đang vay vốn tại NHCSXH... dưới nhiều hình thức như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (Trang thông tin điện tử huyện, Đài truyền thanh huyện, Trang thông tin điện tử Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện...), các hội nghị giao ban giữa NHCSXH với các Hội Phụ nữ các cấp; các buổi tập huấn nghiệp vụ của Hội tại các điểm giao dịch xã. Từ đó đã giúp chính quyền địa phương và người dân hiểu và ý thức được trách nhiệm của mình trong việc tổ chức, triển khai thực hiện, quản lý, giám sát nguồn vốn tín dụng chính sách, góp phần bảo toàn vốn cho Nhà nước. Cùng với đó, các cấp Hội Phụ nữ, tổ TK&VV đã tuyên truyền, vận động tổ viên chấp hành quy ước hoạt động của tổ, thực hành tiết kiệm, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trong việc sử dụng vốn vay đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm đúng mục đích, có hiệu quả góp phần nâng cao đời sống hộ gia đình, có tích lũy để thực hiện trả nợ, trả lãi đúng kỳ hạn đã cam kết với Ngân hàng.

Bên cạnh đó, nhằm tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng chính sách, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc và cơ sở thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Phòng giao dịch NHCSXH huyện tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng, đồng thời thực hiện tốt công tác đôn đốc, thu hồi, xử lý, quản lý nợ, phòng ngừa phát sinh nợ quá hạn, nợ khoanh trong quá trình hoạt động; làm tốt công tác bình xét cho vay, công khai, dân chủ, đúng đối tượng, hướng dẫn cụ thể các thủ tục vay vốn, thường xuyên theo dõi, hướng dẫn hộ vay vốn sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, giúp hội viên phụ nữ nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống và vươn lên thoát nghèo bền vững; hướng dẫn Ban quản lý tổ TK&VV tăng cường sử dụng các ứng dụng số trong hoạt động như ứng dụng Quản lý tín dụng chính sách nhằm tiết giảm thời gian giao dịch, tăng cường công tác tuyên truyền đến với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác về ứng dụng Mobile Banking trong giao dịch chuyển tiền nhằm đa dạng các sản phẩm số, tiện ích do NHCSXH cung cấp.

Theo báo cáo của Phòng giao dịch NHCSXH huyện Phú Lộc, đến ngày 31/01/2025, tổng nguồn vốn đạt 964.385 triệu đồng, tăng 12.593 triệu đồng so với cuối năm 2024; tổng dư nợ các chương trình tín dụng đạt 958.374 triệu đồng với 17.788 khách hàng còn dư nợ. Nợ quá hạn chỉ chiếm 0,022%. Thời gian qua, Phòng giao dịch NHCSXH huyện Phú Lộc đã bám sát Nghị quyết của Hội đồng quản trị (HĐQT), Tổng Giám đốc NHCSXH, Giám đốc chi nhánh NHCSXH thành phố Huế tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Ban đại diện HĐQT huyện ban hành các văn bản chỉ đạo, triển khai, thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới; chỉ đạo thực hiện các chương tín dụng chính sách trên địa bàn theo định hướng chỉ đạo của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, HĐQT, Tổng Giám đốc NHCSXH; tham mưu cho UBND huyện bố trí nguồn ngân sách địa phương ủy thác sang Phòng giao dịch NHCSXH huyện để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác là 4.383 triệu đồng, đạt 107% kế hoạch, lũy kế đến ngày 31/01/2025 đạt 22.375 triệu đồng.

Nguồn vốn tín dụng chính sách đã kịp thời giải ngân đến các đối tượng thụ hưởng, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của các hộ gia đình, bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn huyện Phú Lộc. Trong đó, thực hiện công tác nhận ủy thác từ Phòng giao dịch NHCSXH huyện Phú Lộc, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp đã chủ động triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách kịp thời, góp phần phát huy tối đa hiệu quả nguồn lực của Nhà nước, qua đó đã hỗ trợ nhiều hội viên phụ nữ sử dụng vốn vay hiệu quả, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, góp phần thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm, giảm nạn tín dụng đen, thúc đẩy hội viên phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, có cơ hội tiếp cận làm chủ tài chính, thúc đẩy bình đẳng giới, góp phần phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới và bảo đảm an sinh xã hội địa phương.

Phương Hiền
(NHNN)

Tin bài khác

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Xem thêm
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô