Điểm nhấn kinh tế Việt Nam 10 tháng năm 2025

Sự kiện
Về tổng thể, trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam đã nỗ lực vượt bậc, đạt kết quả toàn diện, ấn tượng trên hầu hết các lĩnh vực, khẳng định sức chống chịu, khả năng thích ứng linh hoạt và hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô. Việt Nam đang đi đúng hướng với lạm phát được kiểm soát chặt chẽ; đầu tư công và xuất khẩu là hai động lực tăng trưởng then chốt...
aa
Điểm nhấn kinh tế Việt Nam 10 tháng năm 2025
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

1. Một số điểm nhấn về kinh tế trong 10 tháng năm 2025

1.1. Mức tăng trưởng GDP được dự báo cao nhất khu vực châu Á

Mức tăng trưởng GDP cao nhất châu Á năm 2025 là đánh giá chung của nhiều dự báo quốc tế về kinh tế Việt Nam: Theo Báo cáo Cập nhật Kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 07/10/2025, Việt Nam dẫn đầu khu vực với mức tăng trưởng 6,6% (giá thị trường cố định), tiếp theo là Mông Cổ (5,9%) và Philippines (5,3%). Trung Quốc, Campuchia và Indonesia dự kiến đều tăng trưởng ở mức 4,8%, trong khi các quốc đảo Thái Bình Dương dự kiến tăng 2,7% và Thái Lan 2,0%. Lạm phát dự kiến cả năm 2025 của Việt Nam là 3,8%.

Trước đó, nhiều dự báo khác của nước ngoài cũng khẳng định mức tăng trưởng ấn tượng của Việt Nam: Ngân hàng Standard Chartered đã nâng dự báo GDP Việt Nam năm 2025 lên 7,5%, năm 2026 lên 7,2%; lạm phát 3,4% (2025) và 3,7% (2026). Ngân hàng HSBC nhấn mạnh năm 2025 Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ASEAN, gần sát mục tiêu trên 8% và lạm phát là 3,3% năm 2025; mức tăng tương ứng năm 2026 là 6,7% và 3,5%. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng của Việt Nam là 6,7% nhưng hạ còn 6,0% cho năm 2026. Ngân hàng UOB của Singapore dự báo Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 7,7% trong năm 2025 và tiếp tục nằm trong nhóm kinh tế phát triển nhanh nhất ASEAN.

Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), đến hết quý III/2025, GDP tăng 7,85%, với quý sau cao hơn quý trước và tăng đều các khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (tăng 3,83%), công nghiệp và xây dựng (tăng 8,69%), dịch vụ (tăng 8,49%). Đặc biệt, tính chung 10 tháng năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,3%) và mức tăng được ghi nhận ở tất cả 34 địa phương.

Quy mô nền kinh tế năm 2025 ước tăng lên 510 tỉ USD (so với 346 tỉ USD năm 2020), xếp vị trí 32 thế giới (tăng 5 bậc so với năm 2020); GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 5.000 USD, gấp 1,4 lần năm 2020, vào nhóm thu nhập trung bình cao. Tính chung giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam đã đạt và vượt 22/26 chỉ tiêu chủ yếu, đặc biệt vượt toàn bộ các chỉ tiêu về xã hội và an sinh xã hội. Năm 2025, GDP dự kiến tăng trên 8% (bình quân giai đoạn 2021 - 2025 tăng 6,3%, cao hơn mức tăng 6,2% của nhiệm kỳ trước).

1.2. Duy trì các động lực tăng trưởng, nhất là xuất khẩu và đầu tư

Chính phủ đã chủ động điều hành bằng nhiều giải pháp: Miễn giảm, gia hạn thuế, phí cho doanh nghiệp; ưu tiên thanh khoản ngân hàng; mở rộng tín dụng cho sản xuất và doanh nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời kích cầu tiêu dùng nội địa để giảm phụ thuộc vào xuất khẩu.

Theo Cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng ước đạt 5.772,9 nghìn tỉ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,0% (cùng kỳ năm 2024 tăng 4,8%). Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 762,44 tỉ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 16,2%; nhập khẩu tăng 18,6%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 19,56 tỉ USD. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 126,2 tỉ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 150,9 tỉ USD. Số lượng cảnh báo từ EU đối với nông sản xuất khẩu của Việt Nam giảm khoảng 50% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh nỗ lực cải thiện chất lượng và tuân thủ quy định của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có ít sản phẩm bị kiểm soát biên giới, chỉ còn 4 sản phẩm nằm trong danh sách kiểm tra gồm: Sầu riêng (tần suất kiểm tra 20%); đậu bắp, ớt chuông (50% kèm chứng thư); thanh long (30%).

Tính chung 10 tháng năm 2025, cả nước có 255,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm trước; tổng số vốn đăng ký bổ sung là 5,2 triệu tỉ đồng, tăng 98,2% so với cùng kỳ năm 2024; trong đó, số vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động đạt gần 3,6 triệu tỉ đồng, tăng 175,6%; bình quân một tháng có 25,6 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động; có 19,1 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước ước đạt 640,2 nghìn tỉ đồng, bằng 63,1% kế hoạch năm và tăng 27,8% so với cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/10/2025 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,52 tỉ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước; FDI thực hiện ước đạt 21,3 tỉ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 1,1 tỉ USD, gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước. Tổng khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 17,2 triệu lượt người, tăng 21,5% so với cùng kỳ…

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, đến hết quý III/2025 đã giải ngân hơn 440 nghìn tỉ đồng, đạt khoảng 50% kế hoạch Thủ tướng giao đầu năm. Việc đẩy nhanh giải ngân không chỉ giúp thúc đẩy xây dựng, mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa cho doanh nghiệp sản xuất - vật liệu - logistics, góp phần cải thiện chuỗi giá trị và tăng năng suất sử dụng vốn. Trên cơ sở mục tiêu của Chính phủ về tăng trưởng kinh tế và các chỉ tiêu vĩ mô năm 2025, ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 khoảng 16% và có điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế1. Cũng theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến 28/10/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống tăng 14,77% so với cuối năm 20242.

1.3. Lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội được bảo đảm, môi trường đầu tư tiếp tục cải thiện

Theo Cục Thống kê, bình quân CPI 10 tháng tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,20%. Chỉ số giá vàng bình quân tăng 44,02% và chỉ số giá đô la Mỹ bình quân tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước.

Đặc biệt, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 2.182,7 nghìn tỉ đồng, bằng 111% dự toán năm và tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước; trong khi tổng chi ngân sách nhà nước lũy kế 10 tháng đạt 1.835,7 nghìn tỉ đồng, bằng 71,2% dự toán năm và tăng 32,1%. Giải ngân vốn đầu tư công từ đầu năm đến hết ngày 23/10/2025 là 464.828 tỉ đồng, bằng 51,7% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. 29 bộ, cơ quan trung ương và 16 địa phương có tỉ lệ giải ngân đạt dưới bình quân chung cả nước. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2025 của Việt Nam xếp hạng 44/139 quốc gia, vùng lãnh thổ. Hạ tầng số phát triển mạnh mẽ, rộng khắp... Nhiều dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm được xử lý quyết liệt, đạt kết quả tích cực, góp phần giải phóng nguồn lực cho phát triển. Đời sống của nhân dân được nâng lên.

Chính phủ sau khi sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy gồm 14 bộ, 3 cơ quan ngang bộ (giảm 5 bộ, cơ quan ngang bộ, 3 cơ quan thuộc Chính phủ. Biên chế tại các bộ, ngành giảm khoảng 22.000 người (đạt khoảng 20%). Biên chế khối hành chính nhà nước giảm 145.000 người; chi thường xuyên giảm 39.000 tỉ đồng/năm. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.

Về tổng thể, năm 2025, Việt Nam đã nỗ lực vượt bậc, đạt kết quả toàn diện, ấn tượng trên hầu hết các lĩnh vực, khẳng định sức chống chịu, khả năng thích ứng linh hoạt và hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô. Việt Nam đang đi đúng hướng với lạm phát được kiểm soát chặt chẽ; đầu tư công và xuất khẩu là hai động lực tăng trưởng then chốt.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn không ít hạn chế về năng lực điều hành ổn định kinh tế vĩ mô và hiệu quả khai thác nguồn lực từ con người, thiên nhiên, văn hóa và bảo vệ môi trường, phát triển và quản lý thị trường bất động sản, vàng, trái phiếu, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao. Thị trường vàng diễn biến phức tạp, làm hạn chế khả năng huy động vốn trung và dài hạn. Tiến độ giải ngân có thể bị ảnh hưởng bởi thủ tục hành chính, vốn ODA chậm; thị trường xuất khẩu có thể gặp khó nếu kinh tế thế giới đột ngột suy giảm; chi phí đầu vào - từ nguyên liệu, logistics - tiếp tục tăng, gây áp lực lên doanh nghiệp; việc “kích cầu” tiêu dùng nội địa cuối năm phụ thuộc nhiều vào thu nhập và tâm lý người dân. Tình hình an ninh trật tự tại một số địa bàn, tội phạm an ninh mạng, công nghệ cao còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp…

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm 2025 trên 8,4%, Chính phủ yêu cầu tăng tốc giải ngân đầu tư, đẩy vốn nhanh vào sản xuất - kinh doanh và thị trường nội địa; triển khai các gói hỗ trợ doanh nghiệp, mở rộng thị trường mới ở Trung Đông, Nam Á và châu Phi; nâng cao quản trị nợ xấu, bản lĩnh vượt khó và khát vọng phát triển bền vững.

Về điều hành chính sách tiền tệ, trong nội dung Công điện số 221/CĐ-TTg ngày 19/11/2025 của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về tập trung ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy xuất khẩu, Thủ tướng yêu cầu đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: "a) Thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; tăng cường hơn nữa về kiểm tra, thanh tra, kiểm soát chặt chẽ hướng dòng vốn tín dụng vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng, gắn với bảo đảm chất lượng tín dụng, kiểm soát nợ xấu; b) Điều hành tỉ giá, lãi suất phù hợp với tình hình thị trường, bảo đảm linh hoạt, hiệu quả, góp phần tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư".

2. Mục tiêu và triển vọng kinh tế năm 2026

Theo dự báo của WB công bố tháng 10/2025, tăng trưởng thực tế GDP của Việt Nam theo giá cố định sẽ chậm lại còn 6,1% năm 2026, sau đó phục hồi lên 6,5% năm 2027; lạm phát giảm dần còn 3,7% năm 2026 và 3,5% năm 2027; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,7% (nhập khẩu tăng 10,0%) vào năm 2026 và 8,9% (nhập khẩu tăng 9,6%) vào năm 2027 nhờ việc thương mại toàn cầu hồi phục và Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn dưới vai trò là một trung tâm công nghiệp cạnh tranh trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tỉ lệ nghèo theo chuẩn thu nhập trung bình thấp (4,2 USD/ngày, PPP 2021) dự kiến là 3,4% năm 2026 và chỉ còn 3,2% vào năm 2027.

Quốc hội và Chính phủ đã xác định mục tiêu năm 2026 là ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; ổn định tổ chức bộ máy, xây dựng nền hành chính hiện đại, thông minh, tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. GDP phấn đấu đạt 10% trở lên; GDP bình quân đầu người đạt 5.400 - 5.500 USD; CPI bình quân tăng khoảng 4,5%; tốc độ năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 8,5%; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm khoảng 1 - 1,5%; tăng thu ngân sách nhà nước ít nhất 10%; kế hoạch giai đoạn 2026 - 2030 tăng chi đầu tư phát triển lên 40%...

Năm 2026, mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam tiếp tục chịu nhiều sức ép từ xuất khẩu, tiêu dùng và đầu tư, cũng như chất lượng tăng trưởng; một số mặt hàng thiết yếu tăng cao, trực tiếp tác động đến đời sống người dân, đặc biệt nhóm thu nhập thấp. Việc điều hành tỉ giá gặp nhiều thách thức, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phục hồi, thị trường vàng diễn biến phức tạp, làm hạn chế khả năng huy động vốn trung và dài hạn.

WB cũng cảnh báo Việt Nam về triển vọng dòng vốn FDI và thặng dư thương mại năm 2026 có thể giảm sút; tăng trưởng tín dụng nhanh có nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đòi hỏi củng cố sức chống chịu của hệ thống ngân hàng bằng cách siết chặt giám sát, tăng cường thanh khoản và dự trữ vốn… Chính phủ cần tiếp tục tăng chính sách tài khóa hỗ trợ tăng trưởng trung hạn và củng cố khả năng chống chịu, do dư địa chính sách tiền tệ hạn chế bởi chênh lệch lãi suất và áp lực tỉ giá…

Thực tiễn đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững các cân đối lớn; điều hành linh hoạt, chủ động, thận trọng trong chính sách tài khóa, tiền tệ; quản lý hiệu quả thị trường vàng; củng cố năng lực nội sinh và sức chống chịu của nền kinh tế, nâng cao tỉ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong nước; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn và mới nổi; thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ, năng lượng sạch, xanh, nguyên tử, bán dẫn, không gian vũ trụ, lượng tử…; phát triển thực chất các vùng động lực; xây dựng, sớm đưa vào vận hành, phát huy hiệu quả Trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các khu thương mại tự do thế hệ mới tại một số địa phương. Đặc biệt, cần quyết liệt tháo gỡ vướng mắc về thể chế, pháp luật, nhất là trong đầu tư, kinh doanh để giải phóng sức sản xuất, huy động nguồn lực cho phát triển; kịp thời tháo gỡ vướng mắc, chồng chéo trong hoạt động của bộ máy, nhất là ở cấp cơ sở, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình chính quyền địa phương hai cấp…

1Thời báo Ngân hàng, https://thoibaonganhang.vn/tin-dung-9-thang-tang-1337-von-chu-yeu-chay-vao-san-xuat-kinh-doanh-171275.html

2Tạp chí Kinh tế - Tài chính, https://tapchikinhtetaichinh.vn/dong-von-tin-dung-tang-14-77-lai-suat-cho-vay-giam-them-0-38.html

Tài liệu tham khảo:

1. Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, WB: Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam dẫn đầu Đông Á - Thái Bình Dương năm 2025, https://thitruongtaichinhtiente.vn/wb-trien-vong-tang-truong-kinh-te-viet-nam-dan-dau-dong-a-thai-binh-duong-nam-2025-70964.html

2. VnEconomy, Nền tảng vững vàng và chặng về đích để tăng trưởng trên 8%, https://vneconomy.vn/nen-tang-vung-vang-va-chang-ve-dich-de-tang-truong-tren-8.htm

3. Tạp chí điện tử VIETTIMES, Thủ tướng: Gần 1.200 dự án được tháo gỡ, xử lý hàng loạt ngân hàng yếu kém và dự án thua lỗ, https://viettimes.vn/thu-tuong-gan-1200-du-an-duoc-thao-go-xu-ly-hang-loat-ngan-hang-yeu-kem-post190660.html.

4. Quy mô kinh tế Việt Nam đã tăng gần 106 lần, sẽ sớm vượt Thái Lan, https://soha.vn/quy-mo-kinh-te-viet-nam-da-tang-gan-106-lan-se-som-vuot-thai-lan-198250822165037323.htm

5. Cục Thống kê - Bộ Tài chính, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng Mười và 10 tháng năm 2025, https://www.nso.gov.vn/bai-top/2025/11/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-thang-muoi-va-10-thang-nam-2025/

6. Thời báo Ngân hàng, Tín dụng 9 tháng tăng 13,37%, vốn chủ yếu chảy vào sản xuất, kinh doanh, https://thoibaonganhang.vn/tin-dung-9-thang-tang-1337-von-chu-yeu-chay-vao-san-xuat-kinh-doanh-171275.html

7. Tạp chí Kinh tế - Tài chính, Dòng vốn tín dụng tăng 14,77%, lãi suất cho vay giảm thêm 0,38%, https://tapchikinhtetaichinh.vn/dong-von-tin-dung-tang-14-77-lai-suat-cho-vay-giam-them-0-38.html

TS. Nguyễn Minh Phong

Tin bài khác

Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tạp chí điện tử Ngân hàng xin trân trọng giới thiệu dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng để lấy ý kiến đóng góp của toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên AI: Con người vẫn là trung tâm của chuyển đổi số

Phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên AI: Con người vẫn là trung tâm của chuyển đổi số

Trong hai ngày 7 - 8/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng phối hợp với Học viện Ngân hàng tổ chức chuỗi Chương trình Chào tân sinh viên K28 với chủ đề “Phát triển nguồn nhân lực trong thời đại AI”. Chương trình hướng tới lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, thích ứng công nghệ và nâng cao nhận thức về vai trò của con người trong kỷ nguyên số khi công nghệ đang định hình lại mọi hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 13 Khóa XIII

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 13 Khóa XIII

Sáng nay, 8/10/2025, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bế mạc, hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề ra. Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu quan trọng tại phiên bế mạc Hội nghị. Trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 13 khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 13 khóa XIII

Sáng 6/10/2025, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm.
TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025).
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã dự và đọc Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025). Trân trọng giới thiệu Diễn văn của Tổng Bí thư.
80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), sáng 1/9, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thư chúc mừng Thời báo Ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thư chúc mừng Thời báo Ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Xem thêm
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô