Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Chính sách
Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
aa

Tóm tắt: Sự hỗ trợ nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội nhằm tăng cường năng lực, đặc biệt năng lực kinh tế là một yêu cầu quan trọng của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Khi nhóm đối tượng yếu thế vững vàng hơn về năng lực kinh tế thì không chỉ giải quyết bài toán về sự ổn định của nền kinh tế - xã hội quốc gia mà còn thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. Huy động vốn để cho nhóm đối tượng này vay là một trong những hoạt động quan trọng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, tăng cường năng lực tài chính. Bài viết nhằm làm rõ một số khía cạnh lý luận về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với đối tượng yếu thế; khảo cứu kinh nghiệm một số quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Bangladesh; từ đó có những gợi mở nhằm hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý dành cho NHCSXH.

Từ khóa: Lý luận, huy động vốn, thực hiện hoạt động cho vay, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh, NHCSXH, đối tượng yếu thế.

MOBILIZING CAPITAL FOR LENDING TO VULVERABLE GROUPS:
INTERNATIONAL EXPERIENCES AND RECOMANDATIONS ON IMPROVING
THE LEGAL FRAMEWORK FOR VIETNAM BANK FOR SOCIAL POLICIES

Abstract: Supporting vulnerable groups in society to enhance their capabilities - particularly economic capacity - is an important requirement for many countries worldwide, including Vietnam. Strengthening the economic resilience of these groups not only addresses the challenge of ensuring national socio-economic stability but also fosters overall national development. Mobilizing capital to provide loans for vulnerable groups, with the aim of promoting economic development and enhancing financial capacity, is one of the key measures to achieve this objective. This article focuses on clarifying certain theoretical issues related to capital mobilization for lending to vulnerable groups; examining the experiences of selected countries, including Thailand, Indonesia, Bangladesh; thereby, the article proposes recommendations on improving the legal framework for Vietnam Bank for Social Policies.

Keywords: Theory, capital mobilization, lending operations, Thailand, Indonesia, Bangladesh, Vietnam Bank for Social Policies, vulnerable groups.

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Đặt vấn đề

Lý luận về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay đối với nhóm đối tượng yếu thế giữ vai trò định hướng cho việc thiết kế và vận hành cơ chế tài chính đặc thù của NHCSXH. Việc làm rõ các khía cạnh lý luận, từ khái niệm, bản chất, vai trò đến các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động huy động vốn, không chỉ góp phần hệ thống hóa nền tảng khoa học của lĩnh vực này mà còn cung cấp luận cứ quan trọng cho quá trình hoàn thiện pháp luật. Trong bối cảnh nhu cầu vốn tín dụng chính sách ngày càng gia tăng và yêu cầu phát triển bền vững đặt ra những tiêu chuẩn mới, việc phân tích, bổ sung cơ sở lý luận giúp đảm bảo rằng khung pháp luật về huy động vốn vừa đáp ứng mục tiêu an sinh xã hội, vừa thích ứng linh hoạt với biến động kinh tế - tài chính. Bên cạnh đó, khảo cứu kinh nghiệm từ các quốc gia như Thái Lan, Indonesia và Bangladesh, nơi đã triển khai nhiều mô hình huy động vốn phục vụ cho vay đối tượng yếu thế mang lại những gợi mở thiết thực cho Việt Nam. Những kinh nghiệm này không chỉ cho thấy các phương thức huy động vốn đa dạng, hiệu quả, mà còn cung cấp bài học về quản trị, minh bạch và bền vững, từ đó giúp định hình các giải pháp pháp lý phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển của Việt Nam.

2. Một số vấn đề lý luận về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay người yếu thế và NHCSXH

2.1. Một số quan niệm về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay

Huy động vốn là thuật ngữ ra đời và gắn liền với nghiệp vụ của ngân hàng, thế nên, các quan niệm về huy động vốn thường được xem xét chi tiết gắn với các hoạt động cụ thể. Hoạt động huy động vốn thường được xem xét như một hoạt động chính của ngân hàng và gắn với hoạt động nhận tiền gửi. Theo Đại học Luật Hà Nội (2021), huy động vốn được đề cập đối với hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), trong đó liệt kê các hoạt động như nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, các loại tiền gửi khác; được phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài; được vay vốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật NHNN, được vay vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD), tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật1. Tương tự, huy động vốn tiếp tục được liệt kê gắn với hoạt động của công ty tài chính2, công ty cho thuê tài chính3, quỹ tín dụng nhân dân4, tổ chức tài chính vi mô5. Mặc dù không có định nghĩa khái quát nhưng các quan niệm này cho thấy điểm chung nổi bật của huy động vốn gồm: (i) Được thực hiện bởi chủ thể có chức năng nhất định và được pháp luật ghi nhận, cho phép; (ii) Mục đích của huy động vốn là tăng nguồn vốn cho chính tổ chức này nhằm hướng đến cung cấp vốn thực hiện các hoạt động phù hợp chức năng của chủ thể. Thực hiện hoạt động cho vay là một trong các mục tiêu của việc huy động vốn. Xem xét về nội hàm hoạt động cho vay, thực tế là xem xét bản chất cho vay. Theo Học viện Ngân hàng (2020), cho vay được quan niệm với những điểm đặc trưng gồm chủ thể thực hiện là ngân hàng, hoạt động của ngân hàng là sử dụng vốn của mình để cho khách hàng vay trong một thời hạn nhất định và tuân thủ nguyên tắc trả cả gốc và lãi6. Khoản 7, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024 quy định: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng thông qua việc bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định, trong một thời gian nhất định, theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi theo thỏa thuận cho bên cho vay”. Với các quan niệm nêu trên có thể thấy, điểm chung của hoạt động cho vay là hoạt động của một vài chủ thể nhất định trong xã hội (thường là các TCTD) được pháp luật ghi nhận, có cơ chế đảm bảo thực hiện; hoạt động cho vay được xác lập trên cơ sở một thỏa thuận giữa bên cho vay với bên vay, tức là bản chất một quan hệ hợp đồng; và hướng đến mục tiêu hỗ trợ nguồn vốn để bên vay thực hiện một hoặc một vài hoạt động nhất định được bên cho vay đồng ý.

2.2. Khái niệm người yếu thế

Khái niệm “người yếu thế” - trong tiếng Anh thường được gọi là "disadvantaged groups" hoặc "vuverable groups" - được sử dụng nhằm chỉ những nhóm xã hội đặc thù có hoàn cảnh sống khó khăn, vị thế xã hội thấp hơn so với các nhóm xã hội khác có điều kiện tương đồng7. Khái niệm này được ghi nhận rộng rãi trong nhiều văn kiện quốc tế cũng như trong các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền con người. Tuy nhiên, việc xác định ai là người yếu thế hoặc nhóm yếu thế lại phụ thuộc vào các tiêu chí và bối cảnh riêng của từng quốc gia, dẫn đến sự khác biệt về phạm vi và đối tượng được nhận diện là yếu thế giữa các nước. Trong cuốn Sách trắng về quyền con người “Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam” do Bộ Ngoại giao công bố năm 2018 đã liệt kê tám nhóm xã hội là những người dễ bị tổn thương và cũng là đối tượng được xem xét trong trong quan hệ tín dụng bao gồm: Người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người khuyết tật, người cao tuổi, người có HIV và người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện8. Như vậy, có thể khẳng định rằng, đối tượng được thực hiện hoạt động vay tại NHCSXH chính là những người yếu thế dưới lăng kính, góc nhìn của luật pháp cũng như thực tiễn của các quốc gia trên thế giới.

2.3. Khái niệm về NHCSXH và bản chất về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của NHCSXH

NHCSXH là một tổ chức ra đời trên cơ sở yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt bám sát mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và phát triển xã hội, chính vì thế, tại Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập NHCSXH đã ghi nhận những đặc điểm riêng biệt, nhận diện về NHCSXH tại Điều 1 của Quyết định này. Theo đó, NHCSXH có những đặc điểm nổi bật gồm: Thứ nhất, đây là một pháp nhân độc lập ra đời trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo. Do đó, NHCSXH có tên gọi, trụ sở, con dấu riêng… đảm bảo các điều kiện dành cho một pháp nhân được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự; Thứ hai, NHCSXH có mục tiêu rõ ràng là thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; Thứ ba, NHCSXH được ấn định vốn điều lệ ban đầu trong quy định pháp luật, cụ thể là 5 nghìn tỉ đồng; Thứ tư, hành lang pháp lý để NHCSXH hoạt động chính là dựa trên các nội dung quy định tại Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg cũng như Điều lệ của tổ chức này (Quyết định số 16/2003/QĐ-TTg ngày 22/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHCSXH).

Mặt khác, Luật Các TCTD năm 2024 quy định: “Ngân hàng là TCTD có thể được thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Các loại hình ngân hàng bao gồm NHTM, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” (khoản 21, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024)9. Ngoài ra, tại Chương II Luật Các TCTD năm 2024 (bao gồm các điều từ Điều 16 đến Điều 26), lần đầu tiên Luật đã thiết kế một Chương riêng quy định về loại hình Ngân hàng Chính sách với các nội dung riêng biệt. Ngân hàng Chính sách có vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp, được bổ sung từ ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính hợp pháp khác (khoản18, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024)10. Hiện nay, ở Việt Nam có hai ngân hàng chính sách là: NHCSXH (chuyên cung cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách xã hội) và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (cung cấp tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu theo nhiệm vụ của Nhà nước).

Từ các đặc điểm nêu trên có thể định nghĩa NHCSXH như sau: NHCSXH là một TCTD đặc biệt có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên quyết định riêng biệt của Nhà nước, theo đó sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn với các ưu đãi so với tín dụng thông thường, để phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội.

3. Kinh nghiệm một số quốc gia về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với người yếu thế

Một số quốc gia có nhiều điểm tương đồng Việt Nam như Thái Lan, Indonesia và Bangladesh đã triển khai nhiều mô hình và thành công đối với huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với người yếu thế. Nghiên cứu kinh nghiệm các quốc gia này sẽ có những gợi mở cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với đối tượng yếu thế nói riêng và về NHCSXH nói chung.

3.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Giống như Việt Nam, Thái Lan trải qua quá trình phát triển nhanh chóng từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang kinh tế thị trường định hướng công nghiệp hóa. Cả hai quốc gia đều phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững và thúc đẩy công bằng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển.

Về mặt thể chế, Thái Lan và Việt Nam đều có hệ thống chính quyền tập trung, nơi vai trò của nhà nước trong việc hoạch định chính sách, phát triển kinh tế - xã hội vẫn giữ vai trò trung tâm. Ngoài ra, cả hai quốc gia đều có sự phát triển mạnh của các thiết chế tài chính vi mô và chương trình tín dụng ưu đãi dành cho nhóm yếu thế trong xã hội.

Thông qua tài liệu như Microfinance Participation in Thailand - MDPI năm 202011 phân tích vai trò của các tổ chức tài chính vi mô (MFIs) trong việc hỗ trợ các hộ gia đình thu nhập thấp tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý, đặc biệt là thông qua các chương trình như Quỹ Làng (Village Funds) và Nhóm Tiết kiệm cho Sản xuất (Saving Groups for Production), bài viết Microfinance in Thailand: Navigating Challenges and Unlocking Opportunities12 của arXiv năm 2024 xem xét các thách thức và cơ hội trong lĩnh vực tài chính vi mô tại Thái Lan, bao gồm vai trò của các tổ chức tài chính chuyên biệt như Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã Nông nghiệp (BAAC). Báo cáo Community - based microfinacne của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) Thái Lan13 trình bày các mô hình tài chính vi mô dựa vào cộng đồng tại Thái Lan, nhấn mạnh vai trò của các nhóm tiết kiệm và tín dụng trong việc hỗ trợ người nghèo, thúc đẩy phát triển cộng đồng, và The Thailand Social Investment Fund: Providing Social Assistance and Building Social Capital của Ngân hàng Thế giới (WB) phân tích Quỹ Đầu tư xã hội Thái Lan (SIF), một sáng kiến nhằm cung cấp hỗ trợ xã hội và xây dựng vốn xã hội thông qua các dự án cộng đồng. Thông qua các bài viết, một số điểm nổi bật bao gồm:

Thứ nhất, huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay tại Thái Lan có các chủ thể điển hình với cơ chế triển khai như: (i) Village Fund: Được khởi xướng từ năm 2001 bởi Chính phủ Thái Lan, chương trình này cấp khoản vay trị giá 1 triệu baht (khoảng 30.000 USD) cho mỗi làng trên toàn quốc. Nguồn vốn ban đầu do Chính phủ tài trợ trực tiếp, sau đó được luân chuyển trong cộng đồng qua cơ chế tự quản lý và hoàn trả; (ii) BAAC: Là ngân hàng nhà nước chuyên biệt cung cấp tín dụng nông thôn, BAAC thực hiện nhiều chương trình tín dụng hỗ trợ hộ nghèo, nông dân nhỏ và các nhóm yếu thế khác; (iii) Các nhóm tiết kiệm và tín dụng cộng đồng tiến hành huy động vốn nội sinh từ cộng đồng để cho các thành viên vay, do chính người dân tổ chức và quản lý; (iv) Chương trình đầu tư xã hội được hỗ trợ bởi WB tiến hành hỗ trợ tài chính cho các sáng kiến cộng đồng hướng đến người dễ bị tổn thương như phụ nữ đơn thân, người già, người khuyết tật…

Thứ hai, đối tượng yếu thế ở Thái Lan thường là những hộ nghèo và cận nghèo ở khu vực nông thôn; phụ nữ đơn thân, người cao tuổi, người khuyết tật; nhóm dân tộc thiểu số và lao động phi chính thức không có khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính truyền thống. Điểm cần lưu ý, Chính phủ Thái Lan có cơ chế đánh giá nghèo đa chiều và hồ sơ dân cư để xác định rõ các nhóm cần hỗ trợ tín dụng.

Thứ ba, những kết quả đạt được thông qua huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay tại Thái Lan cho thấy những tác động tích cực của vấn đề này lên đời sống kinh tế - xã hội quốc gia Thái Lan. Thái Lan đã mở rộng đáng kể khả năng tiếp cận tài chính của nhóm yếu thế, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa; tăng cường năng lực tự quản lý tài chính trong cộng đồng, nhờ các quỹ tín dụng do người dân vận hành; kết hợp hiệu quả giữa tài chính và mục tiêu xã hội, thông qua mô hình đầu tư xã hội và ngân hàng chính sách chuyên biệt.

Một số bài học gợi mở cho Việt Nam như huy động vốn từ ngân sách nhà nước - tài trợ trực tiếp; huy động vốn từ hệ thống ngân hàng chính sách - đóng vai trò là nguồn vốn ưu đãi dài hạn. BAAC là một định chế tài chính công lớn của Thái Lan chuyên cung cấp tín dụng cho nông dân và các nhóm yếu thế ở nông thôn; huy động vốn từ năng lực cộng đồng - đóng vai trò tiết kiệm và quay vòng. Một điểm đặc sắc trong mô hình này ở Thái Lan là sự phát triển mạnh của các nhóm tiết kiệm và tín dụng dựa vào cộng đồng; huy động vốn từ khu vực tư nhân và viện trợ quốc tế. Một số chương trình thí điểm tại Thái Lan đã sử dụng mô hình tài chính hỗn hợp, trong đó kết hợp vốn tài trợ không hoàn lại từ các tổ chức quốc tế như WB, UNDP với vốn từ khu vực tư nhân và vốn bổ sung từ nguồn Chính phủ Thái Lan.

3.2. Kinh nghiệm của Indonesia

Indonesia - một quốc gia nằm ở Đông Nam Á có nhiều đặc điểm về kinh tế - xã hội tương đồng Việt Nam. Với lĩnh vực huy động vốn để thực hiện cho vay người yếu thế, Indonesia có các điểm nổi bật:

Thứ nhất, Indonesia đã xây dựng khung pháp lý và cơ chế điều tiết để thúc đẩy phát triển bền vững của MFIs, đặc biệt trong việc huy động vốn và mở rộng dịch vụ đến nhóm cư dân yếu thế. Trong tài liệu “Microfinance Policy and Strategy Indonesia” đã trình bày chi tiết về chính sách và chiến lược phát triển tài chính vi mô tại Indonesia14.

Thứ hai, Indonesia đã thực hiện mô hình cho vay nhóm và tác động đến những phụ nữ có thu nhập thấp15. Mô hình này có đặc điểm nổi bật: Nhóm vay từ 5 cho đến 10 người sinh sống cùng khu vực, biết rõ nhau; khoản vay được thực hiện dựa trên sự tin tưởng, ràng buộc trách nhiệm xã hội; khoản vay được giải ngân từng bước theo các khoản nhỏ ban đầu và tăng dần nếu như trả đúng hạn; nhóm đi vay thường xuyên gặp nhau và để thực hiện nộp tiền trả nợ, chia sẻ kinh nghiệm, theo dõi tiến độ cùng nhau; nhóm đi vay được huấn luyện kỹ năng tài chính, kinh doanh nhỏ, tiết kiệm. Khi thực hiện theo mô hình này, khả năng tiếp cận tài chính của phụ nữ nghèo tăng lên đáng kể, mang lại các hiệu quả cao16. Mô hình Mekaar chính là điển hình ở Indonesia về loại hình cho vay này.

Từ kinh nghiệm của Indonesia, có hai vấn đề gợi mở cho Việt Nam bao gồm: Mô hình cho vay với người yếu thế có thể được xem xét cho vay nhóm để có sự ràng buộc, phát huy trách nhiệm của từng thành viên với nhóm; và tăng cường vai trò của tài chính xã hội trong đó nhấn mạnh giữa sự kết hợp vốn công - tư - viện trợ để huy động nguồn vốn lớn hơn.

3.3. Kinh nghiệm của Bangladesh

Bangladesh là một quốc gia đang phát triển ở khu vực Nam Á, dân số quốc gia này phần lớn sinh sống ở khu vực nông thôn và sống bằng nghề nông. Trong nhiều thập niên qua, Bangladesh đã được quốc tế ghi nhận là một điển hình trong việc giảm nghèo thông qua các sáng kiến tài chính vi mô và hỗ trợ các nhóm yếu thế. Nổi bật nhất là sự ra đời và phát triển của mô hình Ngân hàng Grameen - một hình mẫu về tài chính vi mô được vinh danh bằng giải Nobel Hòa bình. Việt Nam và Bangladesh có nhiều điểm tương đồng trong cấu trúc xã hội và nhu cầu phát triển nên những kinh nghiệm của quốc gia này cũng sẽ gợi mở nhiều nội dung cho Việt Nam khi hoàn thiện pháp luật về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với người yếu thế. Từ các nguồn tài liệu như “Resource Mobilization by the MFIs in Bangladesh” của FinDev Gateway năm 2010, đánh giá quy mô hoạt động của MFIs như Ủy ban Tiến bộ Nông thôn Bangladesh (BRAC), Hiệp hội Thúc đẩy xã hội (ASA)… trong huy động vốn từ nhiều nguồn, bao gồm vốn vay từ các tổ chức lớn, viện trợ và tiền gửi thành viên17. Bài “Savings, Informal Borrowing, and Microfinance” trên JSTOR cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc huy động tiền gửi/tích lũy từ thành viên để đảm bảo tính bền vững của các chương trình tín dụng vi mô. Báo cáo của Microcredit Regulatory Authority (MRA) năm 202318 có những giới thiệu cơ cấu tài chính của MFIs tại Bangladesh, các loại khoản vay (nông nghiệp, cho nhóm siêu nghèo, hỗ trợ thiên tai...) và mức vay tối đa 50.000 BDT. Công trình “Microfinance in Bangladesh: Growth, Achievements, and Lessons” công bố trên FinDev Gateway đã cung cấp lịch sử hình thành mô hình cho vay vi mô tại Bangladesh, bắt đầu từ cuối thập niên 1970 và phát triển mạnh qua Grameen, BRAC, ASA… Báo cáo “The State of Digital Microfinance in Bangladesh”19 cho thấy đến năm 2017, MFIs đã giải ngân hơn 1.200 tỉ BDT (khoảng 14 tỉ USD) cho 33 triệu người vay, thể hiện quy mô lớn của hệ thống cho vay vi mô. Báo cáo “The Scaling-Up of Microfinance in Bangladesh”20 năm 2004 và “Dynamic Effects of Microcredit in Bangladesh”21 vào năm 2014 của WB cũng cho thấy quá trình mở rộng hệ thống cho vay vi mô, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của PKSF - trung tâm kết nối vốn từ viện trợ, NHTM sang MFIs, khẳng định sự kỳ diệu của cho vay vi mô tại Bangladesh, với trên 30 triệu thành viên nhận vốn vay trị giá 1,8 tỉ USD và tỉ lệ giải ngân tiếp tục tăng.

Các công trình nêu trên cho thấy những điểm nổi bật như sau:

Thứ nhất, thực hiện huy động và cho vay tại Bangladesh gồm MFIs như BRAC, ASA, Grameen Bank (chiếm hơn 90% thị phần). Chính phủ Bangladesh thông qua Palli Karma-Sahayak Foundation - một tổ chức trung gian được thành lập - để phân bổ và giám sát nguồn vốn vi mô. Các NHTM và tổ chức tài trợ quốc tế như WB, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… cung cấp nguồn vốn vay thương mại hoặc viện trợ.

Thứ hai, cơ chế huy động vốn ở Bangladesh đa dạng đến từ nhiều cách thức như tiền gửi của chính thành viên, vốn vay từ các tổ chức tài chính trung gian (PKSF), từ viện trợ ODA hoặc các khoản vay ưu đãi để cho MFIs vay lại, nguồn viện trợ/tài trợ không hoàn lại từ các tổ chức quốc tế, phát hành trái phiếu hoặc huy động vốn thương mại thông qua các ngân hàng hoặc quỹ đầu tư tác động, tái cấp vốn từ chính lợi nhuận hoạt động của MFIs, giúp đảm bảo tính bền vững tài chính dài hạn.

Thứ ba, đối tượng yếu thế được hỗ trợ vay tại Bangladesh bao gồm người nghèo, hộ nghèo và cận nghèo; phụ nữ đơn thân, phụ nữ nông thôn không có tài sản thế chấp; lao động phi chính thức, người khuyết tật; hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai hoặc dịch bệnh; người dân ở vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số.

Thứ tư, tính hiệu quả trong thực hiện tại Bangladesh. Bangladesh đã phát triển được một hệ sinh thái tài chính vi mô bền vững với hơn 33 triệu người vay vốn vi mô tính đến năm 2020.

Từ kinh nghiệm của Thái Lan, Indonesia và Bangladesh, một số vấn đề gợi mở cho Việt Nam khi hoàn thiện khung pháp lý cho việc huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay dành cho đối tượng yếu thế (do NHCSXH thực hiện) bao gồm:

Một là, sự kết hợp đa dạng giữa các nguồn vốn công và tư. Cả ba quốc gia đều không chỉ phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, mà còn có chiến lược đa dạng hóa nguồn tài chính, bao gồm: Vốn ngân sách hoặc tài trợ từ Chính phủ dùng làm vốn mồi, vốn bảo lãnh, hoặc cấp vốn cho các tổ chức trung gian (như BAAC ở Thái Lan, PKSF ở Bangladesh); vốn từ các tổ chức quốc tế (ODA, ngân hàng phát triển, các quỹ tài trợ) thường dùng để hỗ trợ kỹ thuật hoặc làm nguồn vốn quay vòng; vốn thương mại từ các ngân hàng thông qua hợp tác với MFIs hoặc ngân hàng chính sách để cho vay lại; vốn nội bộ hoặc tiết kiệm từ người vay đặc biệt nổi bật ở Bangladesh, nơi người nghèo vừa là người vay vừa là người gửi tiết kiệm; và phát hành trái phiếu xã hội hoặc trái phiếu chính phủ đặc biệt. Một hướng đi được Thái Lan và Indonesia nghiên cứu áp dụng trong các chương trình mục tiêu.

Hai là, xác định rõ vai trò của tổ chức trung gian điều phối và phân bổ vốn. Ba nước đều có một hoặc nhiều thiết chế trung gian làm nhiệm vụ điều phối và phân bổ nguồn vốn, đồng thời thực hiện giám sát, kiểm toán và đảm bảo hiệu quả sử dụng. Thái Lan có BAAC, ngoài việc tự huy động vốn, còn nhận ủy thác từ Chính phủ để cho vay nhóm yếu thế. Indonesia có các chương trình như PNPM (Chương trình Quốc gia Trao quyền Cộng đồng) và Tổ chức Bappenas đóng vai trò quản lý vốn hỗn hợp. Bangladesh có PKSF đóng vai trò như một ngân hàng trung gian chính sách - quản lý vốn từ Chính phủ và quốc tế để cho vay lại MFIs.

Ba là, lồng ghép cho vay với mục tiêu phát triển bền vững. Ở cả ba quốc gia, việc cho vay nhóm yếu thế không chỉ mang tính nhân đạo mà còn gắn với mục tiêu kinh tế - xã hội dài hạn, cụ thể: Giảm nghèo bền vững; tăng cường sinh kế cho phụ nữ và nông dân nhỏ; thúc đẩy tài chính toàn diện; thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp hoặc thích ứng biến đổi khí hậu…

Bốn là, áp dụng công nghệ và tài chính số để mở rộng khả năng huy động vốn và cho vay. Thái Lan và Indonesia đều đẩy mạnh các nền tảng tài chính số giúp mở rộng tiếp cận vốn cho người nghèo, người ở vùng sâu, vùng xa.

4. Một số vấn đề đặt ra và gợi mở cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của NHCSXH

Các nội dung được phân tích tại mục 1, 2 và 3 nêu trên gợi mở nhiều khía cạnh trong hoàn thiện pháp luật Việt Nam về huy động vốn để thực hiện cho vay của NHCSXH, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Việt Nam nên luật hóa thống nhất về NHCSXH để quy định cụ thể, chi tiết chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngân hàng này, trong đó đương nhiên có huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với các đối tượng cụ thể xác định theo từng giai đoạn, nhiệm vụ chính trị.

Thứ hai, quy định chi tiết về huy động vốn. Cần phải quy định rõ ràng về các cơ chế huy động và sử dụng vốn của NHCSXH, bao gồm đảm bảo tỉ lệ tối thiểu nguồn vốn cấp từ ngân sách nhà nước, trách nhiệm xã hội của các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia đóng góp vào nguồn vốn cho vay tín dụng chính sách xã hội dưới dạng duy trì số dư tiền gửi theo tỉ lệ nhất định tại NHCSXH, vốn ủy thác từ ngân sách địa phương, vốn huy động từ cộng đồng dân cư, từ tư nhân và các nguồn lực khác như quỹ từ thiện hoặc viện trợ quốc tế. Cơ chế này đảm bảo tương đồng với nhiều quốc gia khác như Indonesia, Bangladesh.

Thứ ba, cần bổ sung quy định về ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) trong huy động vốn. Đây là yêu cầu phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Nếu khung pháp lý cho phép, NHCSXH phối hợp với tổ chức Fintech trong việc phát hành chứng chỉ, trái phiếu nhỏ lẻ qua nền tảng trực tuyến. Muốn thực hiện được vậy thì quy định pháp luật phải được cập nhật để phù hợp với xu hướng số hóa quản lý vốn vay - vốn huy động trong giai đoạn hiện nay.

5. Kết luận

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của NHCSXH là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Muốn hiệu quả thì trước hết khung pháp lý dành cho NHCSXH nói chung và với lĩnh vực huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay nói riêng phải được hoàn thiện. Sự hoàn thiện các quy định pháp luật phải dựa trên nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu liên quan đến làm rõ về mặt lý luận, khảo cứu kinh nghiệm của các quốc gia, các tổ chức quốc tế có những hoạt động tương tự và hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu kinh nghiệm các nước trong hoàn thiện pháp luật rất quan trọng và với lĩnh vực này cũng không là ngoại lệ. Khung pháp lý dành cho NHCSXH hoàn thiện sẽ giúp cho hoạt động của ngân hàng này hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1 Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, trang 115.

2 Sđd, trang 119.

3 Sđd, trang 121

4 Sđd, trang 123.

5 Sđd, trang 123.

6 Học viện Ngân hàng (2020), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nxb. Thống kê.

7 Học viện Ngân hàng (2022), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thúc đẩy khả năng tiếp cận tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam - Nhìn từ góc độ tài chính toàn diện”, trang 29.

8 Bộ Ngoại giao (2018), Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam, truy cập ngày 30/5/2025.

9 Quốc hội (2024), Luật số 32/2024/QH15 của Quốc hội: Luật Các TCTD

10 Tlđd.

11 https://www.academia.edu/57934016/Microfinance_Participation_in_Thailand?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

12 https://arxiv.org/pdf/2409.03157, ngày truy cập 30/5/2025.

13 https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/migration/th/Microfinancebook.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

14 https://imfea.or.id/wp-content/uploads/2023/07/Microfinance-Policy-and-Strategy-Indonesia.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

15 https://www.academia.edu/21392113/Microfinance_In_Indonesia_An_Assessment_of_Microfinance_Institutions_Banking_with_the_Poor?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

16https://bridges.monash.edu/articles/thesis/Group_Lending_Personal_Wellbeing_and_Business_Success_among_Low_Income_Women_in_Indonesia/14633691?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

17 https://www.findevgateway.org/sites/default/files/publications/files/mfg-en-paper-resource-mobilization-by-the-mfis-in-bangladesh-mar-2010.pdf?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

18 https://www.adb.org/sites/default/files/linked-documents/51269-003-ssa.pdf?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

19 https://lightcastlepartners.com/wp-content/uploads/2020/06/The-State-of-Digital-Microfinance-in-Bangladesh.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

20 https://documents1.worldbank.org/curated/en/828461468768710356/pdf/

21 https://documents1.worldbank.org/curated/en/456521468209682097/pdf/WPS6821.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

Tài liệu tham khảo:

1. Academia.edu (n.d.) Microfinance Participation in Thailand. https://www.academia.edu/57934016/Microfinance_Participation_in_Thailand (Accessed: 30 May 2025)

2. Academia.edu (n.d.) Microfinance in Indonesia: An Assessment of Microfinance Institutions Banking with the Poor. https://www.academia.edu/21392113/Microfinance_In_Indonesia_An_Assessment_of_Microfinance_Institutions_Banking_with_the_Poor

3. ArXiv.org (2024), Paper ID: 2409.03157. https://arxiv.org/pdf/2409.03157.

4. Asian Development Bank (n.d.) Linked Document No. 51269-003-SSA. https://www.adb.org/sites/default/files/linked-documents/51269-003-ssa.pdf

5. Bộ Ngoại giao (2018), Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam.

6. Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân.

7. FinDev Gateway (2010), Resource Mobilization by the MFIs in Bangladesh. https://www.findevgateway.org/sites/default/files/publications/files/mfg-en-paper-resource-mobilization-by-the-mfis-in-bangladesh-mar-2010.pdf

8. Học viện Ngân hàng (2020), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nxb. Thống kê.

9. Học viện Ngân hàng (2022), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thúc đẩy khả năng tiếp cận tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam - Nhìn từ góc độ tài chính toàn diện”.

10. IMFEA Indonesia (2023), Microfinance Policy and Strategy - Indonesia. https://imfea.or.id/wp-content/uploads/2023/07/Microfinance-Policy-and-Strategy-Indonesia.pdf

11. LightCastle Partners (2020) The State of Digital Microfinance in Bangladesh. https://lightcastlepartners.com/wp-content/uploads/2020/06/The-State-of-Digital-Microfinance-in-Bangladesh.pdf

12. Monash University (n.d.) Group Lending, Personal Wellbeing and Business Success among Low-Income Women in Indonesia. https://bridges.monash.edu/articles/thesis/Group_Lending_Personal_Wellbeing_and_Business_Success_among_Low_Income_Women_in_Indonesia/14633691

13. Quốc hội (2024), Luật số 32/2024/QH15 của Quốc hội: Luật Các TCTD.

14. UNDP Thailand (n.d.) Microfinance Book. https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/migration/th/Microfinancebook.pdf

15. World Bank (2004) Policy Research Working Paper 3398. https://documents1.worldbank.org/curated/en/828461468768710356/pdf/wps3398.pdf

16. World Bank (2014) Policy Research Working Paper 6821. https://documents1.worldbank.org/curated/en/456521468209682097/pdf/WPS6821.pdf

TS. Trần Lan Phương
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Tin bài khác

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Xem thêm
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng