Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Chính sách
Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
aa

Tóm tắt: Sự hỗ trợ nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội nhằm tăng cường năng lực, đặc biệt năng lực kinh tế là một yêu cầu quan trọng của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Khi nhóm đối tượng yếu thế vững vàng hơn về năng lực kinh tế thì không chỉ giải quyết bài toán về sự ổn định của nền kinh tế - xã hội quốc gia mà còn thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. Huy động vốn để cho nhóm đối tượng này vay là một trong những hoạt động quan trọng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, tăng cường năng lực tài chính. Bài viết nhằm làm rõ một số khía cạnh lý luận về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với đối tượng yếu thế; khảo cứu kinh nghiệm một số quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Bangladesh; từ đó có những gợi mở nhằm hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý dành cho NHCSXH.

Từ khóa: Lý luận, huy động vốn, thực hiện hoạt động cho vay, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh, NHCSXH, đối tượng yếu thế.

MOBILIZING CAPITAL FOR LENDING TO VULVERABLE GROUPS:
INTERNATIONAL EXPERIENCES AND RECOMANDATIONS ON IMPROVING
THE LEGAL FRAMEWORK FOR VIETNAM BANK FOR SOCIAL POLICIES

Abstract: Supporting vulnerable groups in society to enhance their capabilities - particularly economic capacity - is an important requirement for many countries worldwide, including Vietnam. Strengthening the economic resilience of these groups not only addresses the challenge of ensuring national socio-economic stability but also fosters overall national development. Mobilizing capital to provide loans for vulnerable groups, with the aim of promoting economic development and enhancing financial capacity, is one of the key measures to achieve this objective. This article focuses on clarifying certain theoretical issues related to capital mobilization for lending to vulnerable groups; examining the experiences of selected countries, including Thailand, Indonesia, Bangladesh; thereby, the article proposes recommendations on improving the legal framework for Vietnam Bank for Social Policies.

Keywords: Theory, capital mobilization, lending operations, Thailand, Indonesia, Bangladesh, Vietnam Bank for Social Policies, vulnerable groups.

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Đặt vấn đề

Lý luận về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay đối với nhóm đối tượng yếu thế giữ vai trò định hướng cho việc thiết kế và vận hành cơ chế tài chính đặc thù của NHCSXH. Việc làm rõ các khía cạnh lý luận, từ khái niệm, bản chất, vai trò đến các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động huy động vốn, không chỉ góp phần hệ thống hóa nền tảng khoa học của lĩnh vực này mà còn cung cấp luận cứ quan trọng cho quá trình hoàn thiện pháp luật. Trong bối cảnh nhu cầu vốn tín dụng chính sách ngày càng gia tăng và yêu cầu phát triển bền vững đặt ra những tiêu chuẩn mới, việc phân tích, bổ sung cơ sở lý luận giúp đảm bảo rằng khung pháp luật về huy động vốn vừa đáp ứng mục tiêu an sinh xã hội, vừa thích ứng linh hoạt với biến động kinh tế - tài chính. Bên cạnh đó, khảo cứu kinh nghiệm từ các quốc gia như Thái Lan, Indonesia và Bangladesh, nơi đã triển khai nhiều mô hình huy động vốn phục vụ cho vay đối tượng yếu thế mang lại những gợi mở thiết thực cho Việt Nam. Những kinh nghiệm này không chỉ cho thấy các phương thức huy động vốn đa dạng, hiệu quả, mà còn cung cấp bài học về quản trị, minh bạch và bền vững, từ đó giúp định hình các giải pháp pháp lý phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển của Việt Nam.

2. Một số vấn đề lý luận về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay người yếu thế và NHCSXH

2.1. Một số quan niệm về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay

Huy động vốn là thuật ngữ ra đời và gắn liền với nghiệp vụ của ngân hàng, thế nên, các quan niệm về huy động vốn thường được xem xét chi tiết gắn với các hoạt động cụ thể. Hoạt động huy động vốn thường được xem xét như một hoạt động chính của ngân hàng và gắn với hoạt động nhận tiền gửi. Theo Đại học Luật Hà Nội (2021), huy động vốn được đề cập đối với hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), trong đó liệt kê các hoạt động như nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, các loại tiền gửi khác; được phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài; được vay vốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật NHNN, được vay vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD), tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật1. Tương tự, huy động vốn tiếp tục được liệt kê gắn với hoạt động của công ty tài chính2, công ty cho thuê tài chính3, quỹ tín dụng nhân dân4, tổ chức tài chính vi mô5. Mặc dù không có định nghĩa khái quát nhưng các quan niệm này cho thấy điểm chung nổi bật của huy động vốn gồm: (i) Được thực hiện bởi chủ thể có chức năng nhất định và được pháp luật ghi nhận, cho phép; (ii) Mục đích của huy động vốn là tăng nguồn vốn cho chính tổ chức này nhằm hướng đến cung cấp vốn thực hiện các hoạt động phù hợp chức năng của chủ thể. Thực hiện hoạt động cho vay là một trong các mục tiêu của việc huy động vốn. Xem xét về nội hàm hoạt động cho vay, thực tế là xem xét bản chất cho vay. Theo Học viện Ngân hàng (2020), cho vay được quan niệm với những điểm đặc trưng gồm chủ thể thực hiện là ngân hàng, hoạt động của ngân hàng là sử dụng vốn của mình để cho khách hàng vay trong một thời hạn nhất định và tuân thủ nguyên tắc trả cả gốc và lãi6. Khoản 7, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024 quy định: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng thông qua việc bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định, trong một thời gian nhất định, theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi theo thỏa thuận cho bên cho vay”. Với các quan niệm nêu trên có thể thấy, điểm chung của hoạt động cho vay là hoạt động của một vài chủ thể nhất định trong xã hội (thường là các TCTD) được pháp luật ghi nhận, có cơ chế đảm bảo thực hiện; hoạt động cho vay được xác lập trên cơ sở một thỏa thuận giữa bên cho vay với bên vay, tức là bản chất một quan hệ hợp đồng; và hướng đến mục tiêu hỗ trợ nguồn vốn để bên vay thực hiện một hoặc một vài hoạt động nhất định được bên cho vay đồng ý.

2.2. Khái niệm người yếu thế

Khái niệm “người yếu thế” - trong tiếng Anh thường được gọi là "disadvantaged groups" hoặc "vuverable groups" - được sử dụng nhằm chỉ những nhóm xã hội đặc thù có hoàn cảnh sống khó khăn, vị thế xã hội thấp hơn so với các nhóm xã hội khác có điều kiện tương đồng7. Khái niệm này được ghi nhận rộng rãi trong nhiều văn kiện quốc tế cũng như trong các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền con người. Tuy nhiên, việc xác định ai là người yếu thế hoặc nhóm yếu thế lại phụ thuộc vào các tiêu chí và bối cảnh riêng của từng quốc gia, dẫn đến sự khác biệt về phạm vi và đối tượng được nhận diện là yếu thế giữa các nước. Trong cuốn Sách trắng về quyền con người “Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam” do Bộ Ngoại giao công bố năm 2018 đã liệt kê tám nhóm xã hội là những người dễ bị tổn thương và cũng là đối tượng được xem xét trong trong quan hệ tín dụng bao gồm: Người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người khuyết tật, người cao tuổi, người có HIV và người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện8. Như vậy, có thể khẳng định rằng, đối tượng được thực hiện hoạt động vay tại NHCSXH chính là những người yếu thế dưới lăng kính, góc nhìn của luật pháp cũng như thực tiễn của các quốc gia trên thế giới.

2.3. Khái niệm về NHCSXH và bản chất về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của NHCSXH

NHCSXH là một tổ chức ra đời trên cơ sở yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt bám sát mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và phát triển xã hội, chính vì thế, tại Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập NHCSXH đã ghi nhận những đặc điểm riêng biệt, nhận diện về NHCSXH tại Điều 1 của Quyết định này. Theo đó, NHCSXH có những đặc điểm nổi bật gồm: Thứ nhất, đây là một pháp nhân độc lập ra đời trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo. Do đó, NHCSXH có tên gọi, trụ sở, con dấu riêng… đảm bảo các điều kiện dành cho một pháp nhân được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự; Thứ hai, NHCSXH có mục tiêu rõ ràng là thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; Thứ ba, NHCSXH được ấn định vốn điều lệ ban đầu trong quy định pháp luật, cụ thể là 5 nghìn tỉ đồng; Thứ tư, hành lang pháp lý để NHCSXH hoạt động chính là dựa trên các nội dung quy định tại Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg cũng như Điều lệ của tổ chức này (Quyết định số 16/2003/QĐ-TTg ngày 22/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHCSXH).

Mặt khác, Luật Các TCTD năm 2024 quy định: “Ngân hàng là TCTD có thể được thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Các loại hình ngân hàng bao gồm NHTM, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” (khoản 21, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024)9. Ngoài ra, tại Chương II Luật Các TCTD năm 2024 (bao gồm các điều từ Điều 16 đến Điều 26), lần đầu tiên Luật đã thiết kế một Chương riêng quy định về loại hình Ngân hàng Chính sách với các nội dung riêng biệt. Ngân hàng Chính sách có vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp, được bổ sung từ ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính hợp pháp khác (khoản18, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024)10. Hiện nay, ở Việt Nam có hai ngân hàng chính sách là: NHCSXH (chuyên cung cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách xã hội) và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (cung cấp tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu theo nhiệm vụ của Nhà nước).

Từ các đặc điểm nêu trên có thể định nghĩa NHCSXH như sau: NHCSXH là một TCTD đặc biệt có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên quyết định riêng biệt của Nhà nước, theo đó sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn với các ưu đãi so với tín dụng thông thường, để phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội.

3. Kinh nghiệm một số quốc gia về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với người yếu thế

Một số quốc gia có nhiều điểm tương đồng Việt Nam như Thái Lan, Indonesia và Bangladesh đã triển khai nhiều mô hình và thành công đối với huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với người yếu thế. Nghiên cứu kinh nghiệm các quốc gia này sẽ có những gợi mở cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với đối tượng yếu thế nói riêng và về NHCSXH nói chung.

3.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Giống như Việt Nam, Thái Lan trải qua quá trình phát triển nhanh chóng từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang kinh tế thị trường định hướng công nghiệp hóa. Cả hai quốc gia đều phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững và thúc đẩy công bằng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển.

Về mặt thể chế, Thái Lan và Việt Nam đều có hệ thống chính quyền tập trung, nơi vai trò của nhà nước trong việc hoạch định chính sách, phát triển kinh tế - xã hội vẫn giữ vai trò trung tâm. Ngoài ra, cả hai quốc gia đều có sự phát triển mạnh của các thiết chế tài chính vi mô và chương trình tín dụng ưu đãi dành cho nhóm yếu thế trong xã hội.

Thông qua tài liệu như Microfinance Participation in Thailand - MDPI năm 202011 phân tích vai trò của các tổ chức tài chính vi mô (MFIs) trong việc hỗ trợ các hộ gia đình thu nhập thấp tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý, đặc biệt là thông qua các chương trình như Quỹ Làng (Village Funds) và Nhóm Tiết kiệm cho Sản xuất (Saving Groups for Production), bài viết Microfinance in Thailand: Navigating Challenges and Unlocking Opportunities12 của arXiv năm 2024 xem xét các thách thức và cơ hội trong lĩnh vực tài chính vi mô tại Thái Lan, bao gồm vai trò của các tổ chức tài chính chuyên biệt như Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã Nông nghiệp (BAAC). Báo cáo Community - based microfinacne của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) Thái Lan13 trình bày các mô hình tài chính vi mô dựa vào cộng đồng tại Thái Lan, nhấn mạnh vai trò của các nhóm tiết kiệm và tín dụng trong việc hỗ trợ người nghèo, thúc đẩy phát triển cộng đồng, và The Thailand Social Investment Fund: Providing Social Assistance and Building Social Capital của Ngân hàng Thế giới (WB) phân tích Quỹ Đầu tư xã hội Thái Lan (SIF), một sáng kiến nhằm cung cấp hỗ trợ xã hội và xây dựng vốn xã hội thông qua các dự án cộng đồng. Thông qua các bài viết, một số điểm nổi bật bao gồm:

Thứ nhất, huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay tại Thái Lan có các chủ thể điển hình với cơ chế triển khai như: (i) Village Fund: Được khởi xướng từ năm 2001 bởi Chính phủ Thái Lan, chương trình này cấp khoản vay trị giá 1 triệu baht (khoảng 30.000 USD) cho mỗi làng trên toàn quốc. Nguồn vốn ban đầu do Chính phủ tài trợ trực tiếp, sau đó được luân chuyển trong cộng đồng qua cơ chế tự quản lý và hoàn trả; (ii) BAAC: Là ngân hàng nhà nước chuyên biệt cung cấp tín dụng nông thôn, BAAC thực hiện nhiều chương trình tín dụng hỗ trợ hộ nghèo, nông dân nhỏ và các nhóm yếu thế khác; (iii) Các nhóm tiết kiệm và tín dụng cộng đồng tiến hành huy động vốn nội sinh từ cộng đồng để cho các thành viên vay, do chính người dân tổ chức và quản lý; (iv) Chương trình đầu tư xã hội được hỗ trợ bởi WB tiến hành hỗ trợ tài chính cho các sáng kiến cộng đồng hướng đến người dễ bị tổn thương như phụ nữ đơn thân, người già, người khuyết tật…

Thứ hai, đối tượng yếu thế ở Thái Lan thường là những hộ nghèo và cận nghèo ở khu vực nông thôn; phụ nữ đơn thân, người cao tuổi, người khuyết tật; nhóm dân tộc thiểu số và lao động phi chính thức không có khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính truyền thống. Điểm cần lưu ý, Chính phủ Thái Lan có cơ chế đánh giá nghèo đa chiều và hồ sơ dân cư để xác định rõ các nhóm cần hỗ trợ tín dụng.

Thứ ba, những kết quả đạt được thông qua huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay tại Thái Lan cho thấy những tác động tích cực của vấn đề này lên đời sống kinh tế - xã hội quốc gia Thái Lan. Thái Lan đã mở rộng đáng kể khả năng tiếp cận tài chính của nhóm yếu thế, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa; tăng cường năng lực tự quản lý tài chính trong cộng đồng, nhờ các quỹ tín dụng do người dân vận hành; kết hợp hiệu quả giữa tài chính và mục tiêu xã hội, thông qua mô hình đầu tư xã hội và ngân hàng chính sách chuyên biệt.

Một số bài học gợi mở cho Việt Nam như huy động vốn từ ngân sách nhà nước - tài trợ trực tiếp; huy động vốn từ hệ thống ngân hàng chính sách - đóng vai trò là nguồn vốn ưu đãi dài hạn. BAAC là một định chế tài chính công lớn của Thái Lan chuyên cung cấp tín dụng cho nông dân và các nhóm yếu thế ở nông thôn; huy động vốn từ năng lực cộng đồng - đóng vai trò tiết kiệm và quay vòng. Một điểm đặc sắc trong mô hình này ở Thái Lan là sự phát triển mạnh của các nhóm tiết kiệm và tín dụng dựa vào cộng đồng; huy động vốn từ khu vực tư nhân và viện trợ quốc tế. Một số chương trình thí điểm tại Thái Lan đã sử dụng mô hình tài chính hỗn hợp, trong đó kết hợp vốn tài trợ không hoàn lại từ các tổ chức quốc tế như WB, UNDP với vốn từ khu vực tư nhân và vốn bổ sung từ nguồn Chính phủ Thái Lan.

3.2. Kinh nghiệm của Indonesia

Indonesia - một quốc gia nằm ở Đông Nam Á có nhiều đặc điểm về kinh tế - xã hội tương đồng Việt Nam. Với lĩnh vực huy động vốn để thực hiện cho vay người yếu thế, Indonesia có các điểm nổi bật:

Thứ nhất, Indonesia đã xây dựng khung pháp lý và cơ chế điều tiết để thúc đẩy phát triển bền vững của MFIs, đặc biệt trong việc huy động vốn và mở rộng dịch vụ đến nhóm cư dân yếu thế. Trong tài liệu “Microfinance Policy and Strategy Indonesia” đã trình bày chi tiết về chính sách và chiến lược phát triển tài chính vi mô tại Indonesia14.

Thứ hai, Indonesia đã thực hiện mô hình cho vay nhóm và tác động đến những phụ nữ có thu nhập thấp15. Mô hình này có đặc điểm nổi bật: Nhóm vay từ 5 cho đến 10 người sinh sống cùng khu vực, biết rõ nhau; khoản vay được thực hiện dựa trên sự tin tưởng, ràng buộc trách nhiệm xã hội; khoản vay được giải ngân từng bước theo các khoản nhỏ ban đầu và tăng dần nếu như trả đúng hạn; nhóm đi vay thường xuyên gặp nhau và để thực hiện nộp tiền trả nợ, chia sẻ kinh nghiệm, theo dõi tiến độ cùng nhau; nhóm đi vay được huấn luyện kỹ năng tài chính, kinh doanh nhỏ, tiết kiệm. Khi thực hiện theo mô hình này, khả năng tiếp cận tài chính của phụ nữ nghèo tăng lên đáng kể, mang lại các hiệu quả cao16. Mô hình Mekaar chính là điển hình ở Indonesia về loại hình cho vay này.

Từ kinh nghiệm của Indonesia, có hai vấn đề gợi mở cho Việt Nam bao gồm: Mô hình cho vay với người yếu thế có thể được xem xét cho vay nhóm để có sự ràng buộc, phát huy trách nhiệm của từng thành viên với nhóm; và tăng cường vai trò của tài chính xã hội trong đó nhấn mạnh giữa sự kết hợp vốn công - tư - viện trợ để huy động nguồn vốn lớn hơn.

3.3. Kinh nghiệm của Bangladesh

Bangladesh là một quốc gia đang phát triển ở khu vực Nam Á, dân số quốc gia này phần lớn sinh sống ở khu vực nông thôn và sống bằng nghề nông. Trong nhiều thập niên qua, Bangladesh đã được quốc tế ghi nhận là một điển hình trong việc giảm nghèo thông qua các sáng kiến tài chính vi mô và hỗ trợ các nhóm yếu thế. Nổi bật nhất là sự ra đời và phát triển của mô hình Ngân hàng Grameen - một hình mẫu về tài chính vi mô được vinh danh bằng giải Nobel Hòa bình. Việt Nam và Bangladesh có nhiều điểm tương đồng trong cấu trúc xã hội và nhu cầu phát triển nên những kinh nghiệm của quốc gia này cũng sẽ gợi mở nhiều nội dung cho Việt Nam khi hoàn thiện pháp luật về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với người yếu thế. Từ các nguồn tài liệu như “Resource Mobilization by the MFIs in Bangladesh” của FinDev Gateway năm 2010, đánh giá quy mô hoạt động của MFIs như Ủy ban Tiến bộ Nông thôn Bangladesh (BRAC), Hiệp hội Thúc đẩy xã hội (ASA)… trong huy động vốn từ nhiều nguồn, bao gồm vốn vay từ các tổ chức lớn, viện trợ và tiền gửi thành viên17. Bài “Savings, Informal Borrowing, and Microfinance” trên JSTOR cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc huy động tiền gửi/tích lũy từ thành viên để đảm bảo tính bền vững của các chương trình tín dụng vi mô. Báo cáo của Microcredit Regulatory Authority (MRA) năm 202318 có những giới thiệu cơ cấu tài chính của MFIs tại Bangladesh, các loại khoản vay (nông nghiệp, cho nhóm siêu nghèo, hỗ trợ thiên tai...) và mức vay tối đa 50.000 BDT. Công trình “Microfinance in Bangladesh: Growth, Achievements, and Lessons” công bố trên FinDev Gateway đã cung cấp lịch sử hình thành mô hình cho vay vi mô tại Bangladesh, bắt đầu từ cuối thập niên 1970 và phát triển mạnh qua Grameen, BRAC, ASA… Báo cáo “The State of Digital Microfinance in Bangladesh”19 cho thấy đến năm 2017, MFIs đã giải ngân hơn 1.200 tỉ BDT (khoảng 14 tỉ USD) cho 33 triệu người vay, thể hiện quy mô lớn của hệ thống cho vay vi mô. Báo cáo “The Scaling-Up of Microfinance in Bangladesh”20 năm 2004 và “Dynamic Effects of Microcredit in Bangladesh”21 vào năm 2014 của WB cũng cho thấy quá trình mở rộng hệ thống cho vay vi mô, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của PKSF - trung tâm kết nối vốn từ viện trợ, NHTM sang MFIs, khẳng định sự kỳ diệu của cho vay vi mô tại Bangladesh, với trên 30 triệu thành viên nhận vốn vay trị giá 1,8 tỉ USD và tỉ lệ giải ngân tiếp tục tăng.

Các công trình nêu trên cho thấy những điểm nổi bật như sau:

Thứ nhất, thực hiện huy động và cho vay tại Bangladesh gồm MFIs như BRAC, ASA, Grameen Bank (chiếm hơn 90% thị phần). Chính phủ Bangladesh thông qua Palli Karma-Sahayak Foundation - một tổ chức trung gian được thành lập - để phân bổ và giám sát nguồn vốn vi mô. Các NHTM và tổ chức tài trợ quốc tế như WB, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… cung cấp nguồn vốn vay thương mại hoặc viện trợ.

Thứ hai, cơ chế huy động vốn ở Bangladesh đa dạng đến từ nhiều cách thức như tiền gửi của chính thành viên, vốn vay từ các tổ chức tài chính trung gian (PKSF), từ viện trợ ODA hoặc các khoản vay ưu đãi để cho MFIs vay lại, nguồn viện trợ/tài trợ không hoàn lại từ các tổ chức quốc tế, phát hành trái phiếu hoặc huy động vốn thương mại thông qua các ngân hàng hoặc quỹ đầu tư tác động, tái cấp vốn từ chính lợi nhuận hoạt động của MFIs, giúp đảm bảo tính bền vững tài chính dài hạn.

Thứ ba, đối tượng yếu thế được hỗ trợ vay tại Bangladesh bao gồm người nghèo, hộ nghèo và cận nghèo; phụ nữ đơn thân, phụ nữ nông thôn không có tài sản thế chấp; lao động phi chính thức, người khuyết tật; hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai hoặc dịch bệnh; người dân ở vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số.

Thứ tư, tính hiệu quả trong thực hiện tại Bangladesh. Bangladesh đã phát triển được một hệ sinh thái tài chính vi mô bền vững với hơn 33 triệu người vay vốn vi mô tính đến năm 2020.

Từ kinh nghiệm của Thái Lan, Indonesia và Bangladesh, một số vấn đề gợi mở cho Việt Nam khi hoàn thiện khung pháp lý cho việc huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay dành cho đối tượng yếu thế (do NHCSXH thực hiện) bao gồm:

Một là, sự kết hợp đa dạng giữa các nguồn vốn công và tư. Cả ba quốc gia đều không chỉ phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, mà còn có chiến lược đa dạng hóa nguồn tài chính, bao gồm: Vốn ngân sách hoặc tài trợ từ Chính phủ dùng làm vốn mồi, vốn bảo lãnh, hoặc cấp vốn cho các tổ chức trung gian (như BAAC ở Thái Lan, PKSF ở Bangladesh); vốn từ các tổ chức quốc tế (ODA, ngân hàng phát triển, các quỹ tài trợ) thường dùng để hỗ trợ kỹ thuật hoặc làm nguồn vốn quay vòng; vốn thương mại từ các ngân hàng thông qua hợp tác với MFIs hoặc ngân hàng chính sách để cho vay lại; vốn nội bộ hoặc tiết kiệm từ người vay đặc biệt nổi bật ở Bangladesh, nơi người nghèo vừa là người vay vừa là người gửi tiết kiệm; và phát hành trái phiếu xã hội hoặc trái phiếu chính phủ đặc biệt. Một hướng đi được Thái Lan và Indonesia nghiên cứu áp dụng trong các chương trình mục tiêu.

Hai là, xác định rõ vai trò của tổ chức trung gian điều phối và phân bổ vốn. Ba nước đều có một hoặc nhiều thiết chế trung gian làm nhiệm vụ điều phối và phân bổ nguồn vốn, đồng thời thực hiện giám sát, kiểm toán và đảm bảo hiệu quả sử dụng. Thái Lan có BAAC, ngoài việc tự huy động vốn, còn nhận ủy thác từ Chính phủ để cho vay nhóm yếu thế. Indonesia có các chương trình như PNPM (Chương trình Quốc gia Trao quyền Cộng đồng) và Tổ chức Bappenas đóng vai trò quản lý vốn hỗn hợp. Bangladesh có PKSF đóng vai trò như một ngân hàng trung gian chính sách - quản lý vốn từ Chính phủ và quốc tế để cho vay lại MFIs.

Ba là, lồng ghép cho vay với mục tiêu phát triển bền vững. Ở cả ba quốc gia, việc cho vay nhóm yếu thế không chỉ mang tính nhân đạo mà còn gắn với mục tiêu kinh tế - xã hội dài hạn, cụ thể: Giảm nghèo bền vững; tăng cường sinh kế cho phụ nữ và nông dân nhỏ; thúc đẩy tài chính toàn diện; thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp hoặc thích ứng biến đổi khí hậu…

Bốn là, áp dụng công nghệ và tài chính số để mở rộng khả năng huy động vốn và cho vay. Thái Lan và Indonesia đều đẩy mạnh các nền tảng tài chính số giúp mở rộng tiếp cận vốn cho người nghèo, người ở vùng sâu, vùng xa.

4. Một số vấn đề đặt ra và gợi mở cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của NHCSXH

Các nội dung được phân tích tại mục 1, 2 và 3 nêu trên gợi mở nhiều khía cạnh trong hoàn thiện pháp luật Việt Nam về huy động vốn để thực hiện cho vay của NHCSXH, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Việt Nam nên luật hóa thống nhất về NHCSXH để quy định cụ thể, chi tiết chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngân hàng này, trong đó đương nhiên có huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay với các đối tượng cụ thể xác định theo từng giai đoạn, nhiệm vụ chính trị.

Thứ hai, quy định chi tiết về huy động vốn. Cần phải quy định rõ ràng về các cơ chế huy động và sử dụng vốn của NHCSXH, bao gồm đảm bảo tỉ lệ tối thiểu nguồn vốn cấp từ ngân sách nhà nước, trách nhiệm xã hội của các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia đóng góp vào nguồn vốn cho vay tín dụng chính sách xã hội dưới dạng duy trì số dư tiền gửi theo tỉ lệ nhất định tại NHCSXH, vốn ủy thác từ ngân sách địa phương, vốn huy động từ cộng đồng dân cư, từ tư nhân và các nguồn lực khác như quỹ từ thiện hoặc viện trợ quốc tế. Cơ chế này đảm bảo tương đồng với nhiều quốc gia khác như Indonesia, Bangladesh.

Thứ ba, cần bổ sung quy định về ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) trong huy động vốn. Đây là yêu cầu phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Nếu khung pháp lý cho phép, NHCSXH phối hợp với tổ chức Fintech trong việc phát hành chứng chỉ, trái phiếu nhỏ lẻ qua nền tảng trực tuyến. Muốn thực hiện được vậy thì quy định pháp luật phải được cập nhật để phù hợp với xu hướng số hóa quản lý vốn vay - vốn huy động trong giai đoạn hiện nay.

5. Kết luận

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của NHCSXH là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Muốn hiệu quả thì trước hết khung pháp lý dành cho NHCSXH nói chung và với lĩnh vực huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay nói riêng phải được hoàn thiện. Sự hoàn thiện các quy định pháp luật phải dựa trên nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu liên quan đến làm rõ về mặt lý luận, khảo cứu kinh nghiệm của các quốc gia, các tổ chức quốc tế có những hoạt động tương tự và hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu kinh nghiệm các nước trong hoàn thiện pháp luật rất quan trọng và với lĩnh vực này cũng không là ngoại lệ. Khung pháp lý dành cho NHCSXH hoàn thiện sẽ giúp cho hoạt động của ngân hàng này hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1 Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, trang 115.

2 Sđd, trang 119.

3 Sđd, trang 121

4 Sđd, trang 123.

5 Sđd, trang 123.

6 Học viện Ngân hàng (2020), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nxb. Thống kê.

7 Học viện Ngân hàng (2022), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thúc đẩy khả năng tiếp cận tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam - Nhìn từ góc độ tài chính toàn diện”, trang 29.

8 Bộ Ngoại giao (2018), Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam, truy cập ngày 30/5/2025.

9 Quốc hội (2024), Luật số 32/2024/QH15 của Quốc hội: Luật Các TCTD

10 Tlđd.

11 https://www.academia.edu/57934016/Microfinance_Participation_in_Thailand?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

12 https://arxiv.org/pdf/2409.03157, ngày truy cập 30/5/2025.

13 https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/migration/th/Microfinancebook.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

14 https://imfea.or.id/wp-content/uploads/2023/07/Microfinance-Policy-and-Strategy-Indonesia.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

15 https://www.academia.edu/21392113/Microfinance_In_Indonesia_An_Assessment_of_Microfinance_Institutions_Banking_with_the_Poor?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

16https://bridges.monash.edu/articles/thesis/Group_Lending_Personal_Wellbeing_and_Business_Success_among_Low_Income_Women_in_Indonesia/14633691?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

17 https://www.findevgateway.org/sites/default/files/publications/files/mfg-en-paper-resource-mobilization-by-the-mfis-in-bangladesh-mar-2010.pdf?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

18 https://www.adb.org/sites/default/files/linked-documents/51269-003-ssa.pdf?utm_source=chatgpt.com, ngày truy cập 30/5/2025.

19 https://lightcastlepartners.com/wp-content/uploads/2020/06/The-State-of-Digital-Microfinance-in-Bangladesh.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

20 https://documents1.worldbank.org/curated/en/828461468768710356/pdf/

21 https://documents1.worldbank.org/curated/en/456521468209682097/pdf/WPS6821.pdf?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 30/5/2025.

Tài liệu tham khảo:

1. Academia.edu (n.d.) Microfinance Participation in Thailand. https://www.academia.edu/57934016/Microfinance_Participation_in_Thailand (Accessed: 30 May 2025)

2. Academia.edu (n.d.) Microfinance in Indonesia: An Assessment of Microfinance Institutions Banking with the Poor. https://www.academia.edu/21392113/Microfinance_In_Indonesia_An_Assessment_of_Microfinance_Institutions_Banking_with_the_Poor

3. ArXiv.org (2024), Paper ID: 2409.03157. https://arxiv.org/pdf/2409.03157.

4. Asian Development Bank (n.d.) Linked Document No. 51269-003-SSA. https://www.adb.org/sites/default/files/linked-documents/51269-003-ssa.pdf

5. Bộ Ngoại giao (2018), Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam.

6. Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân.

7. FinDev Gateway (2010), Resource Mobilization by the MFIs in Bangladesh. https://www.findevgateway.org/sites/default/files/publications/files/mfg-en-paper-resource-mobilization-by-the-mfis-in-bangladesh-mar-2010.pdf

8. Học viện Ngân hàng (2020), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nxb. Thống kê.

9. Học viện Ngân hàng (2022), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thúc đẩy khả năng tiếp cận tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam - Nhìn từ góc độ tài chính toàn diện”.

10. IMFEA Indonesia (2023), Microfinance Policy and Strategy - Indonesia. https://imfea.or.id/wp-content/uploads/2023/07/Microfinance-Policy-and-Strategy-Indonesia.pdf

11. LightCastle Partners (2020) The State of Digital Microfinance in Bangladesh. https://lightcastlepartners.com/wp-content/uploads/2020/06/The-State-of-Digital-Microfinance-in-Bangladesh.pdf

12. Monash University (n.d.) Group Lending, Personal Wellbeing and Business Success among Low-Income Women in Indonesia. https://bridges.monash.edu/articles/thesis/Group_Lending_Personal_Wellbeing_and_Business_Success_among_Low_Income_Women_in_Indonesia/14633691

13. Quốc hội (2024), Luật số 32/2024/QH15 của Quốc hội: Luật Các TCTD.

14. UNDP Thailand (n.d.) Microfinance Book. https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/migration/th/Microfinancebook.pdf

15. World Bank (2004) Policy Research Working Paper 3398. https://documents1.worldbank.org/curated/en/828461468768710356/pdf/wps3398.pdf

16. World Bank (2014) Policy Research Working Paper 6821. https://documents1.worldbank.org/curated/en/456521468209682097/pdf/WPS6821.pdf

TS. Trần Lan Phương
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Tin bài khác

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Xem thêm
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô