Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
aa

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa với hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng và bài trừ chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức.

Tuy nhiên, trong bộ máy chính quyền và xã hội lúc bấy giờ bắt đầu xuất hiện những biểu hiện của tệ nạn tham ô, lãng phí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra và cảnh báo về mối nguy hại này. Người coi tham ô, lãng phí là “giặc nội xâm” - một thứ giặc nguy hiểm phá hoại từ bên trong, làm suy yếu công cuộc cách mạng và xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Chính phủ. Người dẫn lại lời của Stalin khi ví bọn tham ô như “những con lợn sục vào vườn rau của Nhà nước và ngoạm lấy ngoạm để một cách trơ trẽn”, coi đó là “cặn bã còn rớt lại của xã hội cũ - cái xã hội thối nát, trong đó bọn ăn cắp, bọn sống bám... lại được coi là những kẻ “khôn ngoan nhất đời”1.

Với bút danh C.K., Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Không để một khe hở”, đăng trên Báo Nhân dân ngày 11/02/1960, nhằm chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và hành động, chấn chỉnh tư tưởng, nâng cao đạo đức và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên. Bài viết thể hiện quyết tâm chống tham ô, lãng phí trong bộ máy chính quyền và xã hội, đáp ứng yêu cầu cách mạng. Đây là tác phẩm có giá trị đặc biệt, vừa mang tính lý luận, nguyên tắc, vừa có tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc, giúp xác định phương hướng, biện pháp đấu tranh với tham ô, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, gắn bó với Nhân dân và đủ năng lực lãnh đạo đất nước.

Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết được thể hiện cụ thể qua các nội dung sau:

Một là, tăng cường nhận thức và phát huy vai trò tự giác của Nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Mở đầu bài viết, Người biểu dương tinh thần tích cực đóng góp ý kiến của bạn đọc dành cho tờ báo. Đặc biệt, sự tham gia này đến từ nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau trong xã hội, thể hiện sự quan tâm rộng khắp của Nhân dân đối với các vấn đề chung. Trong số các thư góp ý, Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đáng chú ý nhất là loại thư phê bình những việc lãng phí của công và góp ý kiến về cách tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, tiền vốn của Nhà nước”2.

Điều này cho thấy, Nhân dân đã ý thức rõ ràng về tác hại của lãng phí đối với tài sản công, tài nguyên và “tiền vốn” của Nhà nước, thực chất là tài sản của toàn dân. Việc Nhân dân chủ động phát hiện và phản ánh các hành vi lãng phí không chỉ thể hiện trách nhiệm công dân mà còn là minh chứng cho nhận thức ngày càng cao về bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ tài sản quốc gia.

Người cũng chỉ rõ rằng: “Người viết những thư ấy là ai? Phần đông là những người lao động bình thường, những chiến sĩ trong quân đội, những cán bộ, nhân viên giữ chức vụ “không quan trọng lắm”...”3. Đây là một biểu hiện sinh động của tinh thần dân chủ trong chế độ mới, khi quần chúng nhân dân không chỉ có quyền mà còn biết phát huy quyền làm chủ của mình.

Thực tế khẳng định rằng công cuộc phòng, chống tham nhũng, lãng phí là trách nhiệm chung của toàn xã hội, không thể chỉ trông chờ vào các cơ quan chuyên trách của Đảng và Nhà nước. Muốn làm tốt điều này, cần tăng cường hơn nữa vai trò giám sát, phản biện và tham gia góp ý của Nhân dân, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị. Có thể nói, đây là cuộc đấu tranh giữa những kẻ thực hiện hành vi tham nhũng và lực lượng chống lại hành vi đó. Kết quả của cuộc đấu tranh này phụ thuộc vào sức mạnh và sự đoàn kết của lực lượng chính nghĩa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong thời gian qua, một bộ phận người dân tỏ ra thờ ơ, thiếu quan tâm đến cuộc chiến chống tham nhũng.

Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ đầu tiên và cấp thiết hiện nay là phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, vận động quần chúng nhân dân hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Phải làm cho Nhân dân nhận thức được rằng, tài sản Nhà nước bị thất thoát cũng chính là tài sản của bản thân và gia đình mình bị mất mát. Nhân dân cần thấy rõ mối liên hệ trực tiếp giữa tiền của Nhà nước và tiền thuế của dân - đó là nguồn lực do Nhân dân đóng góp, được Nhà nước quản lý để phát triển đất nước. Vì vậy, mọi hành vi tiêu cực như tham ô, lãng phí, thất thoát tài sản công là sự xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích chung, là có tội với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Do đó, cần khơi dậy tinh thần trách nhiệm và lòng tự giác của Nhân dân trong việc phát hiện, tố giác và đấu tranh với các hành vi tham nhũng. Chỉ khi nào người dân nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, cùng đồng hành với Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền, thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng mới có thể đi đến thành công.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Có người đi đường, thấy thóc rơi, gỗ mục mà không yên tâm. Có người cầm hộp diêm, nhìn tấm biển, thấy có chỗ còn tiết kiệm được hơn nữa, nên mới lên tiếng. Rõ ràng là không phải vì lợi ích riêng mà họ nói”4. Câu chuyện giản dị ấy thể hiện sâu sắc tư tưởng của Người: Không cần phải đợi đến khi quyền lợi cá nhân bị xâm hại thì mới lên tiếng, mà khi thấy lợi ích chung, tài sản tập thể bị xâm phạm, mỗi người dân cũng cần phải có thái độ trăn trở, dũng cảm đấu tranh, tố giác.

Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, tinh thần ấy chưa được phát huy đầy đủ. Một phần do lối sống cá nhân chủ nghĩa đang tồn tại trong xã hội, nhiều người cho rằng “không liên quan đến mình” thì không cần quan tâm. Thêm vào đó, vẫn còn thiếu những cơ chế hiệu quả để bảo vệ người tố cáo tham nhũng. Mặc dù tố cáo tham nhũng là quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhưng không phải ai cũng đủ can đảm để đứng ra tố cáo người có chức, có quyền, nhất là khi hành vi tham nhũng có thể đi kèm với sự trả thù, đe dọa hoặc cô lập.

Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là: Đảng và Nhà nước cần sớm xây dựng, hoàn thiện các cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng một cách hiệu quả và thực chất. Người dân cần được đảm bảo an toàn, không bị đơn độc hay chịu áp lực khi tham gia vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Đây không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan chức năng mà còn là biểu hiện của một xã hội dân chủ, pháp quyền, nơi công dân thực sự được bảo vệ khi thực hiện quyền và nghĩa vụ giám sát quyền lực.

Đồng thời, bên cạnh việc bảo vệ người tố cáo và gia đình họ, cũng cần có cơ chế xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng danh nghĩa chống tham nhũng để vu khống, bôi nhọ hoặc gây tổn hại cho người khác vì mục đích cá nhân. Chống tham nhũng phải đi liền với thượng tôn pháp luật, công bằng và chính trực, để giữ vững niềm tin của Nhân dân và đảm bảo sự lành mạnh của xã hội.

Hai là, xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ, có chế tài xử lý nghiêm khắc

Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn nhìn nhận rằng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Người viết: “Nhưng nhìn chung, thì trên mặt trận này, vòng vây của chúng ta chưa xiết chặt lắm! Vì vậy của cải dành dụm của chúng ta không những rơi vãi một phần vào cái hố lãng phí, mà còn bị bọn tham ô đục khoét mất một phần khác”5.

Câu nói “vòng vây của chúng ta chưa xiết chặt lắm” hàm ý chỉ ra hai vấn đề cốt lõi. Thứ nhất, hệ thống pháp luật khi đó vẫn còn lỏng lẻo, tồn tại nhiều kẽ hở khiến những kẻ có ý đồ xấu dễ dàng lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng, tham ô. Thứ hai, việc xử lý các hành vi vi phạm vẫn còn mang tính nương nhẹ, chưa đủ sức răn đe, từ đó khiến cho tệ nạn này tiếp tục tồn tại và lan rộng.

Tuy nhiên, không phải vì vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh không đưa ra các biện pháp mạnh mẽ để xử lý tình trạng này. Người khẳng định: “Làm thế nào để trừ cho hết những thứ ấy và không để một khe hở nào cho của cải dành dụm của chúng ta lọt ra ngoài? Bắt giam hết bọn ăn cắp ấy ư? Trừng phạt chúng thật nặng ư? Việc đó không phải chúng ta không làm”6. Điều đó cho thấy, Người không chỉ nhận diện đúng vấn đề mà còn chủ động tìm giải pháp căn cơ, quyết liệt để xử lý tận gốc.

Trên cương vị là Chủ tịch nước và Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng nhằm đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Chỉ hơn hai tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 23/11/1945, Người đã ký Sắc lệnh số 64-SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và một Tòa án đặc biệt để giám sát, xét xử các hành vi sai phạm từ cấp cơ sở đến cấp cao nhất trong chính quyền.

Tiếp đó, ngày 27/11/1945, Người ký Sắc lệnh quy định hình phạt nghiêm khắc đối với tội đưa và nhận hối lộ, mức phạt từ 5 - 20 năm khổ sai, kèm theo nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Không dừng lại ở đó, trong Quốc lệnh 10 điều thưởng và 10 điều phạt (ngày 26/01/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xếp tội tham ô ngang hàng với tội phản quốc, và cả hai đều thuộc khung hình phạt tử hình.

Điều này cho thấy rõ quyết tâm chính trị và tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một nền hành chính trong sạch, liêm chính, phục vụ Nhân dân.

Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (tháng 11/1946), một đại biểu Quốc hội đã chất vấn Chính phủ về vụ việc Chu Bá Phượng - Bộ trưởng Bộ Kinh tế trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến, đồng thời là đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng và thành viên đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau - bị nhà chức trách Pháp bắt vì mang vàng đi buôn. Đáp lại chất vấn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời thẳng thắn, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao và sự minh bạch trong quản lý cán bộ: “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh đến những người làm việc ở các ủy ban làng, đông lắm, phức tạp lắm. Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết”7. Lời khẳng định ấy cho thấy rõ quan điểm xuyên suốt của Người: Dù bất cứ ai, ở bất kỳ vị trí nào, nếu vi phạm pháp luật, đều phải bị xử lý nghiêm minh.

Tinh thần đó được thể hiện rõ nét hơn trong một sự việc khác. Tháng 9/1950, dù vô cùng đau lòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác đơn xin ân giảm án tử hình của Trần Dụ Châu, nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu, vì hành vi bớt xén phần cơm áo của bộ đội để sống trác táng, trụy lạc. Trước khi ký quyết định bác đơn, Người nói với ông Trần Đăng Ninh (Tổng cục trưởng Tổng cục Cung cấp khi đó): “Với loài sâu mọt đục khoét Nhân dân, nếu phải giết đi một con mà cứu được cả rừng cây, thì việc đó là cần thiết, hơn nữa là nhân đạo”8. Tư tưởng ấy thể hiện sâu sắc sự kết hợp hài hòa giữa “đức trị” và “pháp trị” trong quan điểm lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó, pháp luật không chỉ là công cụ quản lý nhà nước, mà còn là biểu hiện của công lý, đạo đức và trách nhiệm với Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng dẫn lại sự nghiêm khắc của Lê-nin đối với tệ nạn tham nhũng để nhấn mạnh vai trò không thể thỏa hiệp của pháp luật. Người kể: “Đối với tệ tham ô hủ hóa, Lê-nin rất nghiêm khắc. Có một lần, tòa án Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Lê-nin liền viết trong một bức thư: “Không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc xấu hổ cho những người cộng sản, những người cách mạng...””9.

Những câu chuyện trên là bài học có giá trị sâu sắc trong giai đoạn hiện nay: Việc xây dựng và thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng phải thực sự nghiêm minh, đủ sức răn đe và không có vùng cấm. Pháp luật chỉ phát huy tác dụng khi được thực thi một cách công bằng, minh bạch và nhất quán, không phân biệt người vi phạm là ai, ở cương vị nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”10.

Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề, luật và các văn bản dưới luật nhằm xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật vẫn tồn tại không ít kẽ hở, khiến một số đối tượng có thể lợi dụng để “lách luật”, trốn tránh trách nhiệm. Bên cạnh đó, tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các quy định pháp luật cũng gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng.

Một trong những giải pháp cấp thiết hiện nay là phải nâng cao tính năng động, linh hoạt trong xây dựng và thực thi chính sách pháp luật, tránh tư duy cứng nhắc, máy móc vốn dễ tạo ra các khoảng trống cho hành vi tiêu cực lợi dụng. Đồng thời, cần nghiên cứu thành lập một tổ chức độc lập, hoạt động theo mô hình trực thuộc Quốc hội, do Quốc hội giám sát và chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Tổ chức này phải có tư cách pháp lý rõ ràng, hoạt động minh bạch, đúng luật, hợp hiến, hợp pháp và không chịu bất kỳ sự chi phối không chính đáng nào.

Tổ chức chuyên trách này cần được trao quyền đầy đủ, quy tụ đội ngũ cán bộ tinh nhuệ, liêm chính, có trình độ chuyên môn cao và đặc biệt là “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”. Việc phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức này với Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cùng các cơ quan tham mưu cấp chiến lược của Đảng là rất cần thiết để bảo đảm sự thống nhất, hiệu lực trong lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất, nhằm triệt tiêu các hành vi cơ hội, thực dụng, đặc biệt là hiện tượng “hạ cánh an toàn” trong đội ngũ cán bộ, công chức. Nguyên tắc phải được quán triệt là: Không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ; mọi hành vi vi phạm phải bị xử lý nghiêm minh, không chịu tác động của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.

Ba là, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng nếp sống đạo đức, lành mạnh trong xã hội

Bên cạnh việc xử lý nghiêm minh bằng pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh một biện pháp không kém phần quan trọng trong phòng, chống tham nhũng, đó là tạo sức mạnh từ dư luận xã hội và chuẩn mực đạo đức. Người chỉ rõ: “Phải gây chung quanh chúng một không khí công chúng công phẫn và tẩy chay về mặt đạo đức. Phải không còn một ai vỗ vai, gượng nhẹ với chúng nữa! Có như vậy, mới ngăn chặn được những hành động ăn cắp của công và mới bảo vệ được tích lũy của chúng ta”11.

Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đề cao vai trò của pháp luật, mà còn khẳng định vai trò của đạo đức xã hội, của dư luận và ý thức cộng đồng trong việc hình thành một “môi trường không dung dưỡng tham nhũng”.

Theo Người, cần xây dựng một nếp sống đạo đức lành mạnh, nơi tham nhũng không chỉ bị xử lý bằng pháp luật mà còn bị lên án mạnh mẽ về mặt đạo lý và lương tri. Tham nhũng phải bị coi là hành vi trộm cắp, nhục nhã, hèn hạ; kẻ tham nhũng phải bị xa lánh, khinh bỉ trong cộng đồng, không còn chỗ đứng trong đời sống xã hội.

Hơn nữa, một khi hành vi tham nhũng đã bị phát hiện và kết luận rõ ràng, thì Nhà nước phải xử lý nghiêm khắc, buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại, đồng thời khơi dậy làn sóng phê phán và ý thức cảnh tỉnh trong toàn xã hội. Đây chính là sự kết hợp hài hòa giữa pháp trị và đức trị, giữa chế tài nhà nước và sức mạnh của lương tâm cộng đồng, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh trong tư tưởng của mình.

Để chống tham nhũng hiệu quả và bền vững, cần thiết phải xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều sống có đạo đức, trong sạch, liêm khiết; hình thành một nếp sống trong sáng, lành mạnh trong toàn dân. Trong các biện pháp cần thực hiện, thì quan trọng hàng đầu chính là công tác giáo dục tư tưởng cho quần chúng nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Phát động tư tưởng của quần chúng làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”12.

Tư tưởng đó thể hiện tầm nhìn sâu sắc của Người về vai trò của Nhân dân trong việc giám sát, phát hiện và đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực. Chỉ khi toàn dân đều có ý thức cảnh giác, chủ động tham gia, thì tệ nạn tham nhũng, lãng phí mới thực sự bị đẩy lùi.

Đặc biệt, đối tượng đầu tiên và quan trọng nhất trong công cuộc giáo dục tư tưởng và xây dựng đạo đức chính là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Lời dạy ấy nhấn mạnh vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong mọi hành động, đặc biệt trong thực hành liêm chính và chống tham nhũng.

Với những người đang nắm giữ chức vụ, quyền hạn trong bộ máy công quyền, Người càng yêu cầu cao hơn: “Những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu”. Đó không chỉ là lời dạy, mà còn là nguyên tắc đạo đức và chuẩn mực hành xử trong quản lý, điều hành và phục vụ Nhân dân.

Bên cạnh các giải pháp về thể chế và giáo dục đạo đức, cần đặc biệt phát huy vai trò của báo chí, truyền thông, internet và mạng xã hội trong công cuộc phòng, chống tham nhũng.

Cần tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí, truyền thông, khuyến khích việc phản ánh trung thực, khách quan về thực trạng tham nhũng cũng như biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt. Việc lấy cái đẹp đẩy lùi cái xấu, lấy gương sáng để cảm hóa và giáo dục đạo đức, đặc biệt là của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sẽ góp phần xây dựng môi trường xã hội trong sạch và lành mạnh hơn.

Đồng thời, phải thực hiện nghiêm túc và đồng bộ các chủ trương của Đảng về công tác xây dựng Đảng về đạo đức, cụ thể là: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XI; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII của Đảng gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tạo thành sức mạnh, trở thành động lực chính trị, tinh thần trong chống tham nhũng.

Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở lời nói, khẩu hiệu, mà cần được thể hiện trong hành động thực chất, trở thành động lực chính trị, tinh thần mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay.

Một nhiệm vụ trọng tâm khác là đổi mới công tác cán bộ, đặc biệt là trong việc lựa chọn nhân sự lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp cao. Việc tuyển chọn phải dựa trên tiêu chuẩn kết hợp hài hòa giữa Đức và Tài, bảo đảm đội ngũ cán bộ có đủ “thực đức, thực tài, thực lực, thực chất”.

Để làm được điều đó, cần thiết lập một cơ chế tuyển chọn minh bạch, công khai, bảo đảm không để việc “chạy chức, chạy quyền” len lỏi thông qua tiền bạc hay quan hệ. Cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý và đạo đức đủ mạnh để loại bỏ những cá nhân cơ hội, mang tư tưởng vụ lợi, giả tạo.

Khi thực sự đề cao thực chất và trọng dụng hiền tài, xã hội sẽ tự loại bỏ được những “giả nhân cách”, những kẻ chỉ muốn trục lợi từ bộ máy, từ đó, từng bước xây dựng được một đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, hết lòng phụng sự Đảng và Nhân dân.

Trong quá trình xây dựng một xã hội đạo đức, văn minh, cần triển khai một cách nghiêm túc, đồng bộ việc giáo dục và thực hành đạo đức trong toàn xã hội, từ gia đình, nhà trường đến các cơ quan công quyền, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, công ty, tập đoàn. Đạo đức không thể chỉ là khẩu hiệu, mà phải trở thành chuẩn mực sống và hành xử thường nhật của mỗi con người trong xã hội.

Phải đẩy mạnh giáo dục chữ “Liêm” trong toàn bộ hệ thống chính trị, từ các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể cho đến các tổ chức xã hội, bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả, trong đó truyền thông đại chúng đóng vai trò dẫn dắt dư luận. Cần hình thành một bầu không khí xã hội trọng liêm sỉ, đề cao danh dự và biết hổ thẹn với hành vi tham nhũng, qua đó tạo ra làn sóng phê phán nghiêm khắc đối với những biểu hiện tiêu cực, lợi dụng chức quyền để trục lợi cá nhân.

Tại Việt Nam, tham nhũng được xác định là một trong những nguy cơ lớn làm suy yếu niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ cấp thiết, lâu dài, phải được tiến hành thường xuyên, kiên quyết và toàn diện, với những chủ trương, biện pháp đúng đắn và phù hợp với thực tiễn.

Trong bối cảnh ấy, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Không để một khe hở” tiếp tục là kim chỉ nam quý giá, soi đường cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí hiện nay. Tác phẩm không chỉ nêu bật tư duy pháp trị sắc bén của Người, mà còn thể hiện tầm nhìn xa trong việc kết hợp giữa pháp luật và đạo đức, giữa phòng ngừa và xử lý nghiêm minh. Nếu được quán triệt và thực hành nghiêm túc trong thực tiễn, tư tưởng của Người sẽ góp phần to lớn trong việc ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh của Đảng và hệ thống chính quyền, đúng như mong mỏi suốt đời của Người khi còn sinh thời.

Tài liệu tham khảo:

1, 2, 3, 4, 5, 6, 11 C.K. “Không để một khe hở”. Báo Nhân dân số 2155, ngày 11/02/1960.

7 Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Quốc hội, hồ sơ 04, tờ 26.

8 Chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà nước KX.02, Đề tài KX.02.13: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật (bài của PGS. Song Thành: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh - Sự thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”), Bộ Tư pháp - Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, 1993, trang 214.

9 Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), tập 7, tr.288, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

10 Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), tập 6, trang 127, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

12 Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), tập 13, trang 419, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

ThS. Lê Tuấn Anh, ThS. Trần Ngọc Tuấn

Tin bài khác

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Trân trọng giới thiệu bài viết: "Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030" của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm.
Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến

Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến

Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề quý I/2025 tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến, đồi Nà Bó, thị trấn Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Xem thêm
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Khảo sát nội dung quy định về áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp đến nay cho thấy, đã có sự thay đổi trong tiếp cận và quy định việc áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan. Sự thay đổi này đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng, TCTD và khách hàng sẽ áp dụng luật này, trong tư cách là luật được ban hành sau. Tuy nhiên, Luật số 32/2024/QH15 có phạm vi điều chỉnh rộng...
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 17/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam – Trung Quốc

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài