Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2025)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
aa

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu trong bảo vệ môi trường. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm lo môi trường sống và thường xuyên kêu gọi Nhân dân gìn giữ thiên nhiên để “con đường từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản thêm xanh tươi”. Trong tư tưởng của Người, thiên nhiên giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã hội và con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem tự nhiên như một người bạn tri kỷ, gần gũi, thân thuộc và giản dị; đồng thời, thiên nhiên cũng là một phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia. Câu nói nổi tiếng của Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” đã trở thành kim chỉ nam trong công cuộc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ngày nay.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường

Vấn đề môi trường và việc bảo vệ môi trường luôn đóng vai trò quan trọng ở bất kỳ giai đoạn hay thời điểm nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù bận trăm công nghìn việc, vẫn luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến công tác bảo vệ môi trường. Người thường xuyên nhắc nhở Nhân dân, cán bộ và chiến sĩ về việc giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường và chăm sóc sức khỏe, bởi theo Người, sức khỏe là tài sản quý giá nhất của con người. Khi con người khỏe mạnh, công việc mới đạt hiệu quả và chất lượng cao.

Ngay từ những ngày tháng bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết đăng trên các tờ báo để kêu gọi bảo vệ môi trường, đồng thời lên án chủ nghĩa thực dân đã khai thác cạn kiệt tài nguyên và tàn phá môi trường ở các nước thuộc địa. Rồi đến những năm kháng chiến gian khổ, dù ở căn cứ địa cách mạng, Người cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ đẩy mạnh tăng gia sản xuất, giữ gìn vệ sinh nơi ở, nơi làm việc và bảo vệ môi trường sống, sống hòa hợp với thiên nhiên. Sau khi đất nước được hòa bình lập lại, hằng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đều đặn có những bài viết và buổi nói chuyện xoay quanh vấn đề môi trường.

Khi trở thành Chủ tịch nước, Người đã lựa chọn sống và làm việc tại ngôi nhà sàn trong khuôn viên Phủ Chủ tịch - một không gian hòa hợp với thiên nhiên, giản dị và thanh bình. Đây cũng là nơi thể hiện rõ tinh thần sống gần gũi với thiên nhiên của Người. Hiện nay, khu vườn cây trong Phủ Chủ tịch có tới 1.271 cá thể thực vật, thuộc 161 loài và 54 họ khác nhau. Trong đó, có 78 loài cây có nguồn gốc trong nước và 68 loài có nguồn gốc từ nước ngoài. Đáng chú ý, khu vườn này bao gồm 35 loài cây ăn quả, 59 loài cây bóng mát, cùng 67 loài hoa và cây cảnh, trong đó nhiều cây là cổ thụ có tuổi đời hàng trăm năm.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc vào tháng 9/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có nước thì mới thành Tổ quốc”. Câu nói ấy đã khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa thiên nhiên và sự tồn tại của dân tộc. Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho con người những điều kiện thuận lợi như khí hậu ôn hòa, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, bên cạnh những nguồn của cải quý giá đó, thiên nhiên cũng đặt con người trước nhiều thử thách khắc nghiệt như hạn hán, lũ lụt, bão táp… Những hiện tượng thiên tai này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, trực tiếp đe dọa đến đời sống, an sinh xã hội và là một trong những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, bệnh tật. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng, con người phải hiểu rõ quy luật của tự nhiên, biết sử dụng tiết kiệm tài nguyên, đồng thời chăm sóc và gìn giữ môi trường sống một cách có trách nhiệm.

Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho mọi tầng lớp Nhân dân. Người nhấn mạnh: “Cần giáo dục rộng khắp cho Nhân dân biết giữ vệ sinh. Phải tuyên truyền một cách thiết thực và rộng khắp trong Nhân dân, làm cho đồng bào hiểu rõ: Phải giữ gìn vệ sinh, ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch”. Theo Người, giữa lao động, vệ sinh và sức khỏe tồn tại một mối quan hệ hữu cơ: “Muốn lao động sản xuất tốt thì phải giữ gìn sức khỏe. Muốn giữ gìn sức khỏe thì phải ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch”.

Để vận động toàn dân hiểu biết về tầm quan trọng và khơi dậy ý thức bảo vệ môi trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa công tác vệ sinh phòng bệnh trở thành một nội dung quan trọng trong phong trào thi đua yêu nước và được Nhân dân cả nước nhiệt tình hưởng ứng tạo thành một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp. Người rất chú ý tới việc giữ vệ sinh nơi đông người, nơi tập thể vì nơi đó nếu thiếu vệ sinh sẽ rất dễ phát sinh dịch bệnh. Bản thân Người luôn là một tấm gương sáng trong giữ gìn trong sạch vệ sinh môi trường, thể hiện qua lối sống giản dị, ngăn nắp hằng ngày.

Trong những chuyến công tác đến các địa phương, mỗi khi ghé thăm trường học, bệnh viện hay nơi sinh hoạt cộng đồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi người giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường sống. Người nhấn mạnh: Phải ăn sạch, uống sạch, ở sạch để bảo vệ sức khỏe, phục vụ tốt cho công tác lao động và sản xuất. Theo Người, muốn bảo đảm vệ sinh thì trước hết phải có nguồn nước sạch; để có nước sạch, cần tích cực đào giếng - càng nhiều giếng thì càng có nhiều nước sạch. Đồng thời, Người cũng lưu ý phải tích cực diệt ruồi, muỗi nhằm ngăn ngừa bệnh tật, bảo vệ sức khỏe Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho Nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho Nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”. Xuất phát từ quan điểm yêu nước ấy, Người luôn quan tâm tới mọi việc có lợi nhất cho Nhân dân, cho người dân lao động.

Thông qua những việc làm cụ thể và thiết thực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa công tác bảo vệ môi trường lên ngang tầm với sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và công tác bảo vệ môi trường được Người xác định là hai nhiệm vụ tiến hành song song. Thậm chí, trong một số trường hợp, bảo vệ môi trường còn được đặt đi trước một bước, như một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước.

2. Phát động Tết trồng cây vì lợi ích lâu dài

Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ môi trường sống trước hết là phải trồng cây, gây rừng. Việc trồng cây không chỉ đơn thuần là công việc thuộc lĩnh vực nông nghiệp hay lâm nghiệp, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về mặt giáo dục: Đó là cách để rèn luyện đạo đức lao động cho Nhân dân, nuôi dưỡng tình yêu thiên nhiên, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái và xây dựng lối sống hài hòa giữa con người với thiên nhiên.

Nhận thức rõ tầm quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân tích cực tham gia trồng cây, gây rừng để góp phần làm cho môi trường sống ngày càng trong sạch, lành mạnh. Ngày 28/11/1959, với bút danh Trần Lực, Người đã viết bài báo “Tết trồng cây”, chính thức kêu gọi phong trào trồng cây lan rộng trên toàn quốc. Trong bài viết, Người nhấn mạnh: “Trồng cây gây rừng là rất quan trọng. Bây giờ dân chưa thấy đâu. Có khi các chú cũng chưa thấy”.

Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tết trồng cây” không chỉ là một cuộc thi đua ngắn hạn, kéo dài một hay hai năm, mà là một phong trào thi đua lâu dài, nhẹ nhàng nhưng có sức lan tỏa mạnh mẽ, có khả năng huy động sự tham gia của mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội - từ người già đến trẻ em đều có thể tham gia. Nhận thấy ý nghĩa sâu sắc của công việc này đối với lợi ích quốc gia, Người khẳng định: “Từ năm 1960 đến 1965, chúng ta sẽ có 90 triệu cây, vừa cây ăn quả, cây có hoa, vừa cây làm cột nhà. Và trong mười năm, nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp hơn, khí hậu điều hòa hơn, cây gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống Nhân dân ta”.

Vào sáng ngày 11/01/1960, Tết trồng cây đầu tiên mừng Đảng, mừng Xuân đã được tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào Thủ đô đã tham gia trồng cây tại Công viên Hồ Bảy Mẫu (nay là Công viên Thống Nhất). Từ đó, hằng năm, mỗi dịp Tết đến, xuân về, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cùng Nhân dân tham gia các hoạt động trồng cây. Cho đến nay, phong trào Tết trồng cây đã trở thành một phần không thể thiếu ở mọi làng xóm, thôn, xã, phố phường. Mỗi mùa xuân, người dân khắp nơi đều nhiệt tình hưởng ứng Tết trồng cây. Sau những ngày Tết cổ truyền, “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác” đã trở thành một nét đẹp văn hóa của dân tộc. Phong trào này không chỉ khởi đầu cho một năm trồng cây mà còn thực hiện đúng mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Mùa xuân là Tết trồng cây, làm cho đất nước càng ngày càng xuân”.

3. Nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường

Trong nhiều năm qua, bảo vệ môi trường luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nhiều chủ trương, chính sách đã được ban hành nhằm kịp thời giải quyết các vấn đề môi trường nảy sinh từ thực tiễn. Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường ngày càng được hoàn thiện, thể hiện rõ sự nhất quán và xuyên suốt trong tư duy chỉ đạo. Trên cơ sở thực tiễn và những vấn đề mới phát sinh, các kỳ Đại hội Đảng đều tiến hành tổng kết, bổ sung và phát triển các quan điểm về bảo vệ môi trường sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước và yêu cầu của thời đại. Cùng với đó, nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về công tác bảo vệ môi trường đã được ban hành, góp phần định hướng chiến lược cho sự phát triển bền vững, cụ thể:

Chỉ thị số 36/1998/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, theo đó, có những quan điểm cơ bản có tính xuyên suốt về sau: “…Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...”.

Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX ban hành về bảo vệ mội trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xác định “…Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của Nhân dân, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta...”; “…Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững…”.

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong đó “… Môi trường là vấn đề toàn cầu, bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe Nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững…”.

Cùng với đó, nhiều quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường cũng được thể hiện xuyên suốt qua các kỳ đại hội Đảng. Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII, XIII của Đảng đều đề ra các mục tiêu cụ thể như:

Tại Đại hội IX, trong Báo cáo Chính trị khẳng định “…Sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường, tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác quản lý ở tất cả các lĩnh vực, các vùng; thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ môi trường…”.

Tại Đại hội X, Đảng tiếp tục xác định: “…Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên…”.

Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ “…Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái…”.

Đại hội XII, Đảng xác định “…ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất... Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường…”.

Kế thừa và phát triển những quan điểm của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra quan điểm, chủ trương thể hiện tính chiến lược và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng trong bảo vệ môi trường: “…Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của Nhân dân là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường…”.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định quan điểm: “…đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường…”.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của đất nước, về quan điểm, chủ trương, Đảng, Nhà nước luôn đề cao vấn đề bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của Nhân dân làm mục tiêu trong chiến lược phát triển đất nước, đồng thời không ngừng bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay

Khi nhìn lại và soi chiếu những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về môi trường vào thực tiễn hiện nay càng thấy được tính thời sự và giá trị sâu sắc từ những lời dạy của Người. Trong bối cảnh đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, hàng loạt tòa nhà cao tầng được xây dựng nhưng lại thiếu quy hoạch diện tích cây xanh, dẫn đến không gian sống ngày càng bị thu hẹp và môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cùng với đó, biến đổi khí hậu khiến thiên tai ngày càng diễn biến phức tạp, tác động toàn diện đến đời sống kinh tế - xã hội, môi trường và đe dọa trực tiếp đến mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Quá trình công nghiệp hóa với tốc độ nhanh, sự phát triển ồ ạt của các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp và đô thị tập trung, cùng với áp lực gia tăng dân số, đang khiến môi trường đô thị đối mặt với tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.

Hơn bao giờ hết, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường cần được quán triệt sâu sắc và vận dụng thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiều nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, nhấn mạnh việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể Nhân dân trong công tác bảo vệ môi trường, từ đó thúc đẩy chuyển biến về nhận thức, hành vi của từng cá nhân và cộng đồng. Đồng thời, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững; tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm tại các đô thị, cụm công nghiệp, làng nghề…

Bên cạnh đó, công tác quản lý, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên cũng được đặt lên hàng đầu; cần đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng rừng, tăng độ che phủ rừng gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan và môi trường sinh thái. Việc thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững theo Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc cũng được xác định là nhiệm vụ then chốt, trong đó, duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững phải song hành với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm giải quyết hiệu quả những thách thức vượt ngoài khả năng của một quốc gia đơn lẻ.

Để công tác bảo vệ môi trường thực sự đi vào cuộc sống, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền một cách sâu rộng, liên tục và hiệu quả đến từng người dân, từng cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp. Mục tiêu là giúp mọi người nhận thức đầy đủ, đúng đắn và chấp hành nghiêm túc các quy định về bảo vệ môi trường. Các tổ chức chính trị - xã hội cần tổ chức tập huấn, nâng cao kiến thức về môi trường và các biện pháp bảo vệ môi trường cho đoàn viên, hội viên. Qua đó, mỗi người trở thành một tuyên truyền viên tích cực, lan tỏa ý thức bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Song song với đó, Nhân dân, cộng đồng dân cư và các cơ quan chức năng cần triển khai nhiều hoạt động bảo vệ môi trường tại địa bàn dân cư, nơi công cộng, góp phần xây dựng môi trường sống sạch - đẹp - văn minh. Trong công tác vận động quần chúng, cần có cơ chế biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong bảo vệ môi trường. Đồng thời, phải kiên quyết phê bình và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm như xả rác, chất thải bừa bãi ra đường phố, sông ngòi, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng.

Hiện nay, toàn xã hội đang tiếp tục triển khai thực hiện nếp sống văn minh đô thị. Thời gian qua, ý thức bảo vệ môi trường và xây dựng lối sống văn minh của người dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các cộng đồng dân cư, thôn, ấp, khu phố, tổ dân phố đều tích cực triển khai các hoạt động thiết thực đến từng hộ gia đình. Nếu tiếp tục duy trì công tác tuyên truyền hiệu quả, đồng thời đẩy mạnh các hình thức động viên, khen thưởng kịp thời, cuộc vận động bảo vệ môi trường gắn với xây dựng nếp sống văn minh đô thị chắc chắn sẽ đạt được kết quả cao hơn nữa.

Trong bối cảnh hiện nay, khi trái đất đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng như ô nhiễm môi trường, hiện tượng nóng lên toàn cầu do gia tăng phát thải khí nhà kính, biến đổi khí hậu, thiên tai ngày càng khốc liệt như lũ lụt, hạn hán..., công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đã trở thành một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP26, tháng 11/2021), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khẳng định rằng: Ứng phó với biến đổi khí hậu và phục hồi tự nhiên phải trở thành ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, đồng thời là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất đối với tất cả các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người dân. Thủ tướng cũng nhấn mạnh: Đoàn kết toàn cầu chính là con đường duy nhất để cùng hành động và cùng chiến thắng. Những tuyên bố mạnh mẽ này đã thể hiện rõ tinh thần chủ động, trách nhiệm và vai trò tích cực của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu nói chung và ứng phó với biến đổi khí hậu nói riêng.

5. Kết luận

Ngày nay, bảo vệ môi trường không chỉ là yêu cầu cấp thiết của riêng Việt Nam mà đã trở thành vấn đề toàn cầu, gắn liền với tương lai phát triển bền vững của nhân loại. Trước thực trạng đó, cần nghiêm túc thực hiện những lời căn dặn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường - coi đó là kim chỉ nam cho hành động, là nền tảng để xây dựng một đất nước phát triển bền vững, văn minh và thân thiện với thiên nhiên.

Cả cuộc đời vì nước, vì dân, cho đến khi đi xa, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn thể hiện một tầm nhìn xa trông rộng của một vị lãnh tụ kiệt xuất, một danh nhân văn hóa thế giới - Người đã sớm nhận thức sâu sắc về vai trò sống còn của môi trường trong sự phát triển của con người và xã hội. Học tập và kiên định với tư tưởng của Người, công tác bảo vệ môi trường cần được xác định là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và nghĩa vụ của mỗi công dân.

Cần kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu, dự báo và triển khai các giải pháp ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên cần được đặc biệt coi trọng. Quản lý, khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên quốc gia phải được xem là một nội dung cốt lõi trong chiến lược phát triển đất nước trong hiện tại và tương lai.

Tài liệu tham khảo:

1. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2006), Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

4. Katherine Muller-Marin (2010), Những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực hoạt động của UNESCO.

5. Lê Thị Thu Hồng (2021), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường trong xây dựng đất nước phát triển bền vững, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 01/7/2021.

6. Nguyễn Thị Hồng Ngọc, Vũ Thị Hiền (2022), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường sinh thái và bài học giữ gìn vệ sinh môi trường trong bối cảnh dịch bệnh, Tạp chí Môi trường, số 2/2022.

7. Trần Nguyễn Tuyên (2022), Một số vấn đề về môi trường ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp.

8. Trần Văn Giàu (2008), Vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

TS. Nguyễn Đình Đáp
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tin bài khác

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Trân trọng giới thiệu bài viết: "Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030" của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô