Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Đây là lần đầu tiên, bảo vệ môi trường được xác định là trụ cột, điều kiện, động lực của mô hình phát triển nhanh, bền vững, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa xanh và cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.
aa

1. Tổng kết 40 năm đổi mới và những vấn đề môi trường đặt ra

Sau 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra lợi thế và lực mới cho sự phát triển đất nước. Quy mô, tiềm lực của nền kinh tế được mở rộng mạnh mẽ; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân ngày càng nâng cao; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư đồng bộ hơn; công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định, tạo dựng niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Tuy nhiên, thành tựu phát triển nhanh trong nhiều năm đã và đang đặt ra những sức ép rất lớn đối với môi trường tự nhiên và năng lực thích ứng của xã hội. Mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, tiêu tốn năng lượng và lao động giá rẻ kéo dài đã bộc lộ rõ những giới hạn phát triển. Ô nhiễm môi trường tại các trung tâm công nghiệp, đô thị lớn và các lưu vực sông trọng điểm diễn biến phức tạp; nhiều hệ sinh thái quan trọng như rừng ngập mặn, đất ngập nước, vùng ven biển bị suy giảm nghiêm trọng, đe dọa đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái quốc gia. Biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan và khó lường hơn dự báo, gây hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở đất, lũ quét tại nhiều vùng, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh nguồn nước, an ninh lương thực và sinh kế của hàng chục triệu người dân.

Cùng với đó, công tác quản lý và bảo vệ môi trường vẫn còn những bất cập. Thể chế, chính sách mặc dù được hoàn thiện theo hướng đồng bộ và hiện đại, song chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn mới; cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng trong giải quyết các vấn đề môi trường còn chưa hiệu quả; nguồn lực cho bảo vệ môi trường còn hạn chế, trong khi nhu cầu đầu tư để khắc phục ô nhiễm, phục hồi hệ sinh thái, bảo đảm an ninh môi trường ngày càng lớn. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong giám sát, cảnh báo, quản trị môi trường chưa thực sự trở thành khâu đột phá. Các nguy cơ tổng hợp từ ô nhiễm, suy thoái tài nguyên và biến đổi khí hậu đang thách thức trực tiếp mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Thực tiễn đó đòi hỏi một sự đổi mới căn bản trong tư duy và tiếp cận bảo vệ môi trường: Môi trường không chỉ là vấn đề xã hội hay nhiệm vụ hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, mà là yếu tố quyết định chất lượng phát triển, bảo đảm an ninh sinh thái và ổn định quốc gia trong dài hạn. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục nâng tầm nhiệm vụ bảo vệ môi trường, coi đó là trụ cột, điều kiện và động lực để phát triển nhanh và bền vững, gắn chặt với quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

2. Quá trình phát triển nhận thức về bảo vệ môi trường

Nhận thức của Đảng về bảo vệ môi trường hình thành và phát triển gắn liền với quá trình đổi mới tư duy về mô hình phát triển đất nước. Nếu như trong những năm đầu Đổi mới, khi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, môi trường chủ yếu được tiếp cận như một yêu cầu quản lý nhằm hạn chế hậu quả tiêu cực của tăng trưởng, thì đến Đại hội VII, đặc biệt từ Đại hội IX trở đi, Đảng đã khẳng định bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững. Việc lồng ghép các mục tiêu môi trường vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng, từng bước khắc phục quan điểm “hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng” tồn tại trong giai đoạn đầu phát triển.

Từ Đại hội XI, XII, Đảng đã nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về vai trò của môi trường đối với phát triển, coi việc kiểm soát ô nhiễm, phục hồi hệ sinh thái và sử dụng bền vững tài nguyên là điều kiện để đảm bảo chất lượng cuộc sống của Nhân dân và ổn định xã hội. Chủ trương “kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế trước mắt” được xác lập, mở đường cho đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, tại Đại hội XIII, Đảng đã nâng tầm quản lý môi trường lên mức đảm bảo an ninh sinh thái, an ninh nguồn nước, đồng thời thể hiện cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu, như mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục kế thừa và phát triển tư duy đó ở tầm cao mới, khi xác định bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, là trụ cột và động lực của phát triển bền vững. Đây là sự chuyển biến quan trọng về chất, phản ánh nhận thức sâu sắc rằng, tăng trưởng kinh tế chỉ bền vững khi được đặt trên nền tảng sinh thái vững chắc. Môi trường không còn được nhìn nhận như yếu tố đi sau hay bị tác động thụ động bởi phát triển, mà trở thành một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của quốc gia, là bộ phận cốt lõi của năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa xanh. Sự phát triển nhận thức này tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc thiết kế và triển khai các chính sách phát triển xanh trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng và bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng gay gắt.

3. Những điểm mới về bảo vệ môi trường trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV

Tại Cương lĩnh của Đảng năm 1991 và các Nghị quyết Đại hội VII, VIII, XIII…, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững mới chỉ được đề cập ở nguyên tắc, còn ưu tiên nguồn lực vẫn tập trung vào thúc đẩy phát triển kinh tế. Môi trường thường chỉ được xem là hệ quả cần khắc phục sau khi thúc đẩy kinh tế, chưa được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong mỗi bước đi, trong từng chính sách phát triển. Điểm mới căn bản ở đây là đã xác định bảo vệ môi trường là trụ cột để xác lập mô hình tăng trưởng mới. Điều này đồng nghĩa với việc không đánh đổi lợi ích ngắn hạn để bảo đảm lợi ích dài hạn cho quốc gia và các thế hệ tương lai.

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV xác định: "Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm...". Như vậy, Trung ương thống nhất bổ sung "bảo vệ môi trường" cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ "trung tâm".

Việc bổ sung "bảo vệ môi trường" cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trung tâm trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đánh dấu một bước phát triển nhận thức sâu sắc và vững chắc về phát triển bền vững dựa trên 3 trụ cột: Kinh tế, xã hội và môi trường. Đây không còn là lời khẳng định hình thức mà là cam kết chiến lược, đặt sinh thái môi trường làm thước đo trong mỗi chính sách phát triển.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã nâng chuẩn nhận thức và hành động về bảo vệ môi trường ở cả ba cấp độ: (i) Lý luận phát triển - môi trường là trụ cột, điều kiện và động lực tăng trưởng; (ii) Thể chế - công cụ - hoàn thiện khung pháp lý kinh tế xanh, thị trường carbon, định giá vốn tự nhiên, số hóa quản trị; (iii) Tổ chức thực thi - gắn trách nhiệm với nguồn lực, tiến độ, giám sát. Tất cả nhằm hướng tới mục tiêu nhất quán: Môi trường trong lành cho Nhân dân, nền kinh tế xanh - carbon thấp - tuần hoàn, quốc gia an toàn trước rủi ro khí hậu, hiện thực hóa tầm nhìn phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thứ nhất, nâng tầm bảo vệ môi trường từ “nhiệm vụ hỗ trợ” thành trụ cột của mô hình phát triển mới

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV coi bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, là điều kiện nền tảng và động lực tăng trưởng. Cách tiếp cận này chuyển từ tư duy “xử lý hậu quả” sang quản trị phát triển dựa trên giới hạn sinh thái, coi môi trường là thước đo chất lượng tăng trưởng, là một cấu phần của năng lực cạnh tranh quốc gia. Văn kiện nhấn mạnh yêu cầu “xanh hóa” mô hình tăng trưởng trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và quản trị hiện đại, khẳng định không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng ngắn hạn, phù hợp với xu hướng phát triển bền vững của thời đại số và hội nhập sâu rộng.

Những định hướng này đã được nêu rõ trong các tài liệu phục vụ góp ý Văn kiện và các bản thảo chuyên đề do Tiểu ban Văn kiện cung cấp, trong đó nhấn mạnh vai trò của môi trường như điều kiện - động lực phát triển cho giai đoạn 2026 - 2035.

Thứ hai, thể chế hóa mạnh mẽ kinh tế xanh - kinh tế tuần hoàn - kinh tế carbon thấp gắn với lộ trình Net Zero 2050 và thị trường carbon quốc gia

Dự thảo xác lập rõ định hướng thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0”, thông qua hoàn thiện hạ tầng thị trường tín chỉ carbon trong nước, tạo kết nối với khu vực và thế giới; đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ sạch, tài chính xanh, nâng chuẩn quản trị môi trường trong doanh nghiệp và địa phương. Tinh thần này kế thừa những kết luận quan trọng từ tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (Nghị quyết 24), trong đó chỉ ra yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng carbon thấp và tuần hoàn để khắc phục triệt để các điểm nghẽn thể chế - công nghệ - nguồn lực.

Thứ ba, bảo đảm an ninh môi trường, an ninh nguồn nước ở tầm chiến lược, coi đây là nền tảng ổn định vĩ mô và trật tự phát triển

Dự thảo Văn kiện đặt trọng tâm xây dựng hành lang sinh thái quốc gia, gìn giữ và phục hồi các hệ sinh thái then chốt, qua đó tăng cường sức chống chịu trước rủi ro khí hậu và thiên tai cực đoan. Các vùng dễ tổn thương được ưu tiên bố trí hạ tầng thích ứng liên vùng - đặc biệt Đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải miền Trung, trung du - miền núi phía Bắc - theo quan điểm chủ động “dẫn dắt thích ứng” thay cho ứng phó bị động; đồng thời gắn chặt với an ninh nguồn nước trong nước và xuyên biên giới. Những định hướng này thể hiện nhất quán trong Dự thảo Báo cáo chính trị và Chương trình hành động, làm rõ cấp độ “chiến lược” của an ninh môi trường trong tổng thể bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Thứ tư, kiên quyết khắc phục cơ bản ô nhiễm môi trường đô thị và các lưu vực trọng điểm, nâng chuẩn quản trị đô thị phát thải thấp

Dự thảo xác định rõ nhiệm vụ giải quyết cơ bản ô nhiễm tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các lưu vực sông như sông Nhuệ - Đáy, sông Cầu, Vu Gia - Thu Bồn; đi liền với cải thiện chất lượng không khí, nước, chất thải rắn... Tinh thần này bám sát kết quả tổng kết Nghị quyết 24, đồng thời thiết kế các giải pháp mũi nhọn về công nghệ, thị trường dịch vụ môi trường và trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), hướng tới tiêu chuẩn đô thị phát thải thấp - thích ứng khí hậu trong kỷ nguyên mới.

Thứ năm, chuyển đổi số trong quản trị môi trường, hiện đại hóa hệ thống giám sát - dự báo - cảnh báo sớm, kiến tạo nền tảng dữ liệu môi trường quốc gia

Dự thảo Văn kiện đề cao giám sát môi trường theo thời gian thực, chuẩn hóa dữ liệu mở, tích hợp mô hình dự báo - cảnh báo đa thiên tai ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tính toán hiệu năng cao; từ đó nâng cao năng lực quản trị rủi ro, lập quy hoạch tích hợp dựa trên bằng chứng. Đây là bước chuyển từ cơ chế “hậu kiểm” sang quản trị thông minh dựa trên dữ liệu, đồng bộ với lộ trình số hóa các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Những chỉ dẫn cụ thể về phát triển mô hình cảnh báo sớm, gắn với vai trò trung tâm của cộng đồng theo vùng sinh thái, đã được các tài liệu chuyên đề phục vụ dự thảo văn kiện nhấn mạnh.

Thứ sáu, khẳng định yêu cầu đặt con người ở trung tâm, coi chất lượng môi trường sống và sức khỏe Nhân dân là mục tiêu tối thượng

Dự thảo tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển hài hòa với thiên nhiên; coi môi trường là điều kiện để củng cố thành quả phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phát triển kinh tế - xã hội cũng là điều kiện để bảo vệ môi trường. Tư tưởng “phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên” - được dẫn chiếu trong các tài liệu góp ý - trở thành nền tảng giá trị chỉ đạo cho chiến lược phát triển giai đoạn 2026 - 2035, đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản phương thức lãnh đạo, quản lý và huy động toàn dân tham gia bảo vệ môi trường.

Thứ bảy, tăng cường công cụ và nguồn lực thực thi: Tài chính xanh, định giá vốn tự nhiên, phục hồi hệ sinh thái

Dự thảo Văn kiện đòi hỏi cơ chế huy động nguồn lực trong nước và quốc tế cho chuyển đổi xanh, khuyến khích phát triển thị trường tín chỉ carbon, thí điểm định giá - hạch toán vốn tự nhiên vào quy hoạch và đầu tư công, mở rộng quỹ bảo vệ môi trường và trái phiếu xanh để tài trợ các dự án giảm phát thải, phục hồi hệ sinh thái. Đồng thời, nhấn mạnh phân cấp - phân quyền đi đôi với trách nhiệm giải trình, thanh tra - kiểm tra số hóa, tăng tính răn đe của chế tài; qua đó khắc phục các điểm nghẽn đã được nhận diện trong tổng kết Nghị quyết 24 về thực thi và phối hợp liên vùng - liên ngành.

Thứ tám, bảo đảm tính đồng bộ giữa Báo cáo chính trị và Chương trình hành động, chuyển hóa tầm nhìn thành các nhiệm vụ - đề án - công trình có địa chỉ, nguồn lực, tiến độ cụ thể

Điểm mới quan trọng là mối liên hệ chặt chẽ giữa quan điểm, mục tiêu với danh mục nhiệm vụ chiến lược 2026 - 2030, phân công rõ chủ thể, nguồn lực, lộ trình và cơ chế giám sát - đánh giá; tạo điều kiện để các cấp, các ngành tổ chức thực hiện “đúng và trúng”, tránh hình thức, bảo đảm hiệu quả. Cấu trúc tổ chức thực hiện trong Dự thảo Chương trình hành động thể hiện tinh thần “Nghị quyết đi vào cuộc sống” với các thiết kế theo chức năng, lĩnh vực, theo dõi tiến độ bằng công cụ số.

4. Triển khai quan điểm, chủ trương bảo vệ môi trường trong thời gian tới

Để đưa các định hướng chiến lược về bảo vệ môi trường trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV vào cuộc sống, cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, mang tính đột phá cả về thể chế, nguồn lực, khoa học - công nghệ và phương thức tổ chức thực thi. Trước hết, phải tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển bền vững trên cơ sở quán triệt quan điểm “môi trường là trụ cột, điều kiện và động lực phát triển”. Cần rà soát toàn diện hệ thống pháp luật liên quan đến tài nguyên - môi trường, quy hoạch, đầu tư công và đầu tư tư, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, giảm chồng chéo, đặc biệt là các cơ chế phân cấp, phân quyền đi đôi với nâng cao trách nhiệm giải trình. Việc vận dụng công cụ kinh tế phải được đẩy mạnh nhằm điều tiết hành vi phát thải, khai thác tài nguyên và sử dụng không gian môi trường, trong đó sớm hoàn thiện khung pháp lý thị trường carbon, thúc đẩy định giá và hạch toán vốn tự nhiên, tạo động lực phát triển kinh tế xanh và tuần hoàn.

Song song với đó, cần tăng cường nguồn lực tài chính xanh, coi đây là điểm tựa để chuyển đổi mô hình phát triển. Nguồn ngân sách nhà nước phải được phân bổ theo hướng ưu tiên cho các chương trình mục tiêu về phục hồi hệ sinh thái, bảo đảm an ninh nguồn nước và thích ứng với biến đổi khí hậu; đồng thời, mở rộng hợp tác công - tư trong xử lý chất thải, tái chế tài nguyên và phát triển năng lượng tái tạo. Việt Nam cần khai thác hiệu quả cơ chế trái phiếu xanh, Quỹ bảo vệ môi trường, các cơ chế tài chính khí hậu quốc tế, đồng thời mở rộng thu hút tín dụng xanh và đầu tư bền vững của khu vực doanh nghiệp. Đây là giải pháp trực tiếp khắc phục tình trạng thiếu hụt nguồn lực vốn là một trong những điểm nghẽn lớn được chỉ ra qua tổng kết Nghị quyết 24.

Một định hướng quan trọng khác là đột phá về khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong quản trị môi trường. Cần xây dựng hệ thống thông tin môi trường thống nhất, đồng bộ, kết nối từ Trung ương đến địa phương, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giám sát chất lượng môi trường và dự báo thiên tai đa hiểm họa; đồng thời phát triển cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn và đa dạng sinh học quốc gia để phục vụ quy hoạch dựa trên bằng chứng. Việc chủ động nghiên cứu, tiếp nhận, làm chủ công nghệ môi trường tiên tiến, thúc đẩy công nghiệp môi trường, dịch vụ tái chế sẽ giúp nâng cao năng lực tự cường quốc gia trước cú sốc khí hậu và môi trường. Chuyển đổi số trong quản trị môi trường không chỉ cải thiện hiệu quả giám sát - thực thi, mà còn tạo điều kiện hình thành nền tảng phát triển kinh tế khí hậu, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu đang “xanh hóa”.

Bên cạnh đó, để bảo vệ môi trường thực sự trở thành văn hóa trong đời sống xã hội, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục ý thức cộng đồng, nhất là thế hệ trẻ, về phát triển xanh và ứng phó biến đổi khí hậu. Phải tăng cường dân chủ, trách nhiệm xã hội trong giám sát môi trường, công khai hóa dữ liệu môi trường, tạo điều kiện để người dân, báo chí, các nhà khoa học tham gia phản biện chính sách, giám sát trách nhiệm của chính quyền và doanh nghiệp. Khi Nhân dân được đặt ở trung tâm của công tác bảo vệ môi trường, các chính sách sẽ được triển khai hiệu quả và bền vững hơn.

Cuối cùng, cần đổi mới mạnh mẽ công tác lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát của Đảng trong lĩnh vực môi trường và khí hậu. Việc tổ chức thực hiện phải bảo đảm “đúng và trúng”, có phân giao rõ nhiệm vụ, gắn với chỉ tiêu đánh giá và chế tài cụ thể; đồng thời xây dựng cơ chế giám sát số hóa, phản ứng nhanh, phù hợp bối cảnh biến động khó lường của môi trường toàn cầu. Đội ngũ cán bộ môi trường các cấp cần được đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu mới: Hiểu sâu về kinh tế xanh - chuyển đổi khí hậu - quy hoạch sinh thái - công nghệ số, có tư duy đổi mới và khả năng phối hợp liên ngành. Cùng với đó, tăng cường ngoại giao khí hậu và hợp tác quốc tế sẽ mở ra cơ hội tiếp nhận công nghệ, kinh nghiệm và nguồn lực hỗ trợ thực thi cam kết Net Zero 2050.

5. Kết luận

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng khẳng định một cách nhất quán và toàn diện rằng, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, vừa là nền tảng, điều kiện bảo đảm, vừa là động lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Việc đặt môi trường ở vị trí trụ cột của mô hình phát triển không chỉ phản ánh sự trưởng thành về tư duy lý luận của Đảng, mà còn là yêu cầu khách quan, cấp thiết của thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa xanh, cạnh tranh chiến lược về công nghệ và khí hậu ngày càng gay gắt.

Những đổi mới mạnh mẽ trong tư duy và định hướng trong Dự thảo Văn kiện, từ kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp đến bảo đảm an ninh môi trường, an ninh nguồn nước và chuyển đổi số trong quản trị môi trường đã tạo nên khung chính sách chiến lược để Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới với tầm nhìn dài hạn, năng lực chống chịu cao và tính tự cường quốc gia vững chắc hơn. Điều quan trọng là các định hướng đó đã gắn với nhiệm vụ và giải pháp tổ chức thực hiện có địa chỉ, có nguồn lực, có cơ chế giám sát, thể hiện quyết tâm chính trị cao trong việc đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

Trong giai đoạn tới, để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, yêu cầu đặt ra là phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy sức sáng tạo của toàn xã hội, phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và tài chính xanh, bảo đảm mỗi quyết sách phát triển đều được cân nhắc trên cơ sở cân bằng lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường. Trách nhiệm bảo vệ môi trường không chỉ thuộc về Nhà nước mà là sứ mệnh chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trở thành nếp văn hóa trong phát triển, hướng tới một Việt Nam xanh, an toàn và bền vững cho các thế hệ mai sau.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng (lấy ý kiến góp ý xã hội).

2. Tổ Biên tập Văn kiện Đại hội XIV (2025), Báo cáo một số vấn đề mới, quan trọng trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (phục vụ lấy ý kiến góp ý xã hội)

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

4. Bộ Nông nghiệp và Môi trường (2024), Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, Hà Nội.

5. Cục Biến đổi khí hậu (2023), Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam (cập nhật 2023), MONRE, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986 - 2021),Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng VI-XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Tài liệu phục vụ góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng (các phụ lục chuyên đề về bảo vệ môi trường và tăng trưởng xanh).

8. UNEP (2023), Emissions Gap Report 2023, United Nations Environment Programme.

9. World Bank (2024), Vietnam Country Climate and Development Report, Washington, DC.

TS. Nguyễn Đình Đáp
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tin bài khác

Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nhìn tổng thể, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong giai đoạn phát triển mới, một Đảng kiên định, đổi mới và hành động vì hạnh phúc của nhân dân, vì một Việt Nam phồn vinh, hùng cường và thịnh vượng.
Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Trong kỷ nguyên số, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp thiết và mang tính chiến lược hơn, đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận hệ thống, gắn kết giữa “xây” và “chống”, giữa “thế trận lòng dân” và “thế trận số”.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xem thêm
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô