Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích Điều 5 của Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code - UCC) về thư tín dụng (L/C) nhằm làm rõ sự khác biệt giữa khung pháp lý của Hoa Kỳ và Việt Nam theo Thông tư số 21/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định về nghiệp vụ L/C và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C. Trên cơ sở tiếp cận luật học và thực tiễn, bài viết chỉ ra rằng, mặc dù Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã có những bước tiến quan trọng trong nội luật hóa thông lệ quốc tế, song vẫn còn một số khoảng trống nhất định so với khung pháp lý của UCC, đặc biệt là về nguyên tắc độc lập, cơ chế xử lý chứng từ và điều khoản phòng ngừa gian lận. Từ đó, bài viết đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp lý về L/C tại Việt Nam.

Từ khóa: UCC, L/C, thương mại quốc tế, Thông tư số 21/2024/TT-NHNN.

LETTER OF CREDIT REGULATION UNDER THE UNITED STATES UNIFORM COMMERCIAL CODE

Abstract: The article analyzes Article 5 of the United States Uniform Commercial Code (UCC) on letter of credit (L/C), in order to clarify the differences between the legal framework of the United States and Vietnam under Circular No. 21/2024/TT-NHNN dated June 28, 2024, issued by the State Bank of Vietnam's the Governor on L/C operations and other business activities related to L/C. Based on both legal and practical perspectives, the article finds that although Circular No. 21/2024/TT-NHNN marks an important step in incorporating international practices into domestic law, certain gaps remain when compared with the UCC, particularly in relation to the principle of independence, the mechanism for handling documents, and anti-fraud provisions. Accordingly, the article offers several proposals to improve the legal framework on L/C in Vietnam.

Keywords: UCC, L/C, international trade, Circular No. 21/2024/TT-NHNN.

1. Giới thiệu chung

Trong bối cảnh hội nhập tài chính toàn cầu, hoạt động thanh toán và tài trợ thương mại bằng L/C ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giao dịch thương mại quốc tế. Nhằm cụ thể hóa hoạt động L/C và quy định thêm những nội dung mà Tập quán và Thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ của Phòng Thương mại quốc tế (UCP600) không giải quyết, một số quốc gia còn ban hành hệ thống pháp lý riêng để điều chỉnh L/C, trong đó có Hoa Kỳ với UCC các năm 1952/1995/2002/2012/2022. Gần đây, lần đầu tiên Việt Nam đã ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN nhằm cụ thể hóa những quy định về nghiệp vụ L/C và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C.

2. Tổng quan nghiên cứu

UCC là Bộ luật Thương mại Thống nhất được xây dựng nhằm điều chỉnh các giao dịch thương mại tại Hoa Kỳ. Ngoài việc cùng áp dụng UCP600, Hoa Kỳ là một trong số ít các quốc gia quy định khá rõ về L/C và quy trình thực hiện L/C trong các hợp đồng mua bán hàng hóa. UCC được soạn thảo lần đầu vào năm 1952 bởi Ủy ban Quốc gia về Luật Thống nhất (National Conference of Commissioners on Uniform State Laws - NCCUSL) và Viện Luật Hoa Kỳ (American Law Institute - ALI). UCC được duy trì dưới sự chỉ dẫn của Ban Biên tập Thường trực (Permanent Editorial Board - PEB), bao gồm các thành viên được chỉ định bởi Ủy ban Luật Thống nhất (Uniform Law Commission - ULC) và ALI.

PEB được thành lập vào năm 1961, có nhiệm vụ theo dõi những diễn biến trong lĩnh vực pháp luật thương mại, đề xuất các sửa đổi và cập nhật đối với UCC khi cần thiết, đồng thời công bố các bình luận chính thức (Official commentary) nhằm hỗ trợ tòa án trong việc giải thích các điều khoản cụ thể của UCC. Điều 5 (Bản sửa đổi từ năm 1995) của UCC vẫn giữ nguyên các quy định toàn diện về L/C, bao gồm: Định nghĩa, nội dung cam kết, quyền và nghĩa vụ của các bên, quy trình từ chối chứng từ và đặc biệt là Mục 5 - 109 về gian lận và giả mạo - một rủi ro lớn có thể xảy ra trong giao dịch L/C.

Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 thay thế Luật Các TCTD năm 2010, quy định, L/C không còn là dịch vụ thanh toán (như quy định tại khoản 15 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010) mà là hình thức cấp tín dụng thông qua 4 nghiệp vụ: Phát hành, xác nhận, thương lượng thanh toán và hoàn trả L/C. Thời gian trước đây tại Việt Nam, nghiệp vụ L/C được NHNN cho phép các TCTD vận hành theo tập quán thương mại quốc tế là UCP600 mà chưa có văn bản riêng hướng dẫn cụ thể. Do đó, việc ban hành Luật Các TCTD năm 2024 và sau đó là Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thiết lập cơ sở pháp lý để các TCTD, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện các giao dịch L/C một cách thống nhất, an toàn và hiệu quả.

Hệ thống thông luật như Hoa Kỳ hay pháp luật dân sự như Việt Nam đã tạo ra những điểm khác biệt căn bản trong cách tiếp cận và quy định pháp lý về L/C. Bài viết này phân tích các quy định tại Điều 5 UCC của Hoa Kỳ, đối chiếu, so sánh với Thông tư số 21/2024/TT-NHNN của Việt Nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về L/C tại Việt Nam tiệm cận hơn với các chuẩn mực quốc tế.

3. Phân tích các quy định về L/C trong Điều 5 UCC của Hoa Kỳ sửa đổi năm 1995

3.1. Về nguyên tắc độc lập của L/C

Điểm d Mục 5 ‐ 103 Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của người phát hành cho người thụ hưởng hoặc một người chỉ định theo L/C là độc lập với sự tồn tại, thực hiện hoặc không thực hiện của một hợp đồng hoặc thỏa thuận mà L/C phát sinh hoặc làm cơ sở cho L/C, bao gồm hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa người phát hành và người yêu cầu hoặc giữa người yêu cầu và người thụ hưởng”. Theo đó: (i) Nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng phát hành là độc lập với hợp đồng cơ sở giữa người yêu cầu phát hành L/C và người thụ hưởng L/C. (ii) Nghĩa vụ của ngân hàng phát hành là kiểm tra chứng từ và đảm bảo chứng từ đó tuân thủ theo các yêu cầu quy định tại L/C mà không xét đến tranh chấp thương mại giữa người yêu cầu phát hành L/C và người thụ hưởng L/C.

Nhìn chung, điểm d Mục 5 ‐ 103 Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 có nội dung tương tự với điểm a Điều 4 và Điều 5 UCP600, quy định chủ yếu về nghĩa vụ và trách nhiệm của ngân hàng phát hành với bên thụ hưởng L/C.

Luật Các TCTD năm 2024 và Thông tư số 21/2024/TT-NHNN mặc dù không quy định nào về nguyên tắc độc lập của L/C như tại Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 của Hoa Kỳ; tuy nhiên, những văn bản trên cho phép các bên thỏa thuận về việc áp dụng tập quán thương mại về L/C do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành. Khi áp dụng, các bên phải dẫn chiếu cụ thể tên, phiên bản áp dụng (Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024, khoản 16 Điều 3 và Điều 6 Thông tư số 21/2024/TT-NHNN).

3.2. Về vấn đề gian lận và giả mạo theo L/C

Tập quán và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC không có quy định về gian lận và giả mạo theo L/C mà để ngỏ vấn đề này cho luật các quốc gia giải quyết. Đặc biệt, Điều 34 UCP600 còn cho phép các ngân hàng được miễn trách nhiệm và nghĩa vụ về hiệu lực của chứng từ như sau: “Ngân hàng không có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với hình thức, sự hoàn bị, tính chính xác, tính chân thực, sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của bất cứ chứng từ nào hoặc đối với các điều kiện chung hoặc điều kiện riêng quy định ở trong một chứng từ…”

Vì vậy, gian lận và giả mạo được quy định cụ thể trong UCC năm 1952 (Mục 5 - 114(2) Điều 5) và sửa đổi năm 1995 (Mục 5 - 109), cho phép người yêu cầu phát hành L/C có thể bảo vệ mình trước hành vi gian lận theo L/C mà không cần căn cứ vào các quy tắc hoặc đạo luật khác. Nội dung cơ bản được quy định tại Mục 5 - 109 Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 được hiểu như sau:

1. Nếu một bộ chứng từ được xuất trình mà trên bề mặt hoàn toàn tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C, nhưng:

- Một chứng từ yêu cầu bị giả mạo hoặc bị gian lận đáng kể, hoặc

- Việc chấp nhận hoặc thanh toán bộ chứng từ đó (honor) sẽ tạo điều kiện cho người thụ hưởng thực hiện hành vi gian lận đáng kể với ngân hàng phát hành hoặc người yêu cầu phát hành L/C, thì ngân hàng phát hành có quyền từ chối thanh toán, bất chấp sự tuân thủ về mặt hình thức.

2. Kể cả có gian lận đáng kể, ngân hàng phát hành phải thanh toán cho bên thụ hưởng, nếu một trong các bên sau đây yêu cầu thanh toán:

- Ngân hàng được chỉ định đã thanh toán hoặc cam kết thanh toán một cách thiện chí và không biết về gian lận đáng kể hoặc giả mạo;

- Ngân hàng xác nhận đã xác nhận L/C một cách thiện chí;

- Người cầm giữ hợp pháp hối phiếu theo L/C đã được ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng được chỉ định chấp nhận;

- Người nhận chuyển nhượng nghĩa vụ thanh toán bị hoãn của ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng được chỉ định đã nhận nghĩa vụ này một cách thiện chí và không biết về gian lận đáng kể tại thời điểm nghĩa vụ phát sinh.

Đây là nguyên tắc bảo vệ bên thứ ba thiện chí - nguyên tắc cơ bản trong hệ thống thông luật.

Trong bất kỳ trường hợp nào không thuộc trường hợp nêu tại mục 2, ngân hàng phát hành có thể lựa chọn thanh toán hoặc từ chối thanh toán một cách thiện chí.

3. Nếu người yêu cầu phát hành L/C khiếu nại rằng có gian lận đáng kể hoặc giả mạo trong chứng từ, hoặc việc thanh toán sẽ tạo điều kiện cho hành vi gian lận đáng kể, người đó có thể yêu cầu tòa án ra lệnh khẩn cấp để ngăn chặn việc thanh toán, chỉ khi tòa án xác định:

- Việc ra lệnh không bị pháp luật áp dụng (liên quan đến hối phiếu hoặc nghĩa vụ bị trì hoãn) cấm đoán;

- Bên thụ hưởng, ngân hàng phát hành, hoặc ngân hàng được chỉ định sẽ được bảo vệ đầy đủ trước tổn thất tiềm tàng do lệnh ban hành;

- Người yêu cầu đáp ứng các điều kiện được trợ giúp theo luật của bang;

- Dựa trên thông tin đã nộp cho tòa, người yêu cầu có khả năng thắng kiện cao và người yêu cầu thanh toán không thuộc bên thứ 3 thiện chí như nêu tại mục 2.

Đây là cơ chế ngăn chặn lạm dụng quyền tạm dừng thanh toán. Tuy nhiên, UCC không định nghĩa rõ thế nào là gian lận đáng kể, nhưng thông qua án lệ Ground Air Transfer, Inc. v. Westates Airlines, Inc., 899 F.2d 1269 (1st Cir. 1990), tòa án xác định: “Gian lận đáng kể là hành vi của người thụ hưởng làm “vô hiệu hóa toàn bộ giao dịch” đến mức nghĩa vụ thanh toán độc lập của ngân hàng không còn hợp lý”.

Như vậy, theo quy định tại UCC:

- Ngân hàng phát hành có quyền từ chối thanh toán nếu phát hiện chứng từ gian lận hoặc có dấu hiệu lừa đảo.

- Nếu bên thụ hưởng cố tình xuất trình chứng từ giả, ngân hàng phát hành có thể không thanh toán ngay cả khi chứng từ đó phù hợp với L/C.

- Tòa án Hoa Kỳ có quyền ra lệnh tạm dừng thanh toán nếu có bằng chứng về gian lận nghiêm trọng.

Thông tư số 21/2024/TT-NHNN cũng không đề cập đến vấn đề giả mạo và gian lận trong L/C mà chỉ quy định quyền tự chủ của ngân hàng tại Điều 4:

“1. Ngân hàng có quyền tự chủ trong thực hiện nghiệp vụ L/C, các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.

2. Ngân hàng có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C của khách hàng nếu thấy không có hiệu quả hoặc không phù hợp với quy định nội bộ của ngân hàng, quy định tại Thông tư này, tập quán thương mại quốc tế về L/C và quy định của pháp luật có liên quan”.

Từ đây, có thể hiểu Thông tư số 21/2024/TT-NHNN cho phép các ngân hàng thương mại Việt Nam từ chối khi chứng từ không phù hợp với điều khoản, điều kiện của L/C nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp giả mạo, gian lận chứng từ.

Như vậy, trong khi UCP600 giữ nguyên tắc trung lập, không can thiệp và để mỗi nước tự điều chỉnh vấn đề gian lận, giả mạo bằng luật quốc gia, thì UCC của Hoa Kỳ đã quy định cụ thể, tạo điều kiện cho ngân hàng phát hành có thể ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận nghiêm trọng nhưng vẫn có một số nguyên tắc nhằm bảo vệ bên thứ ba thiện chí nếu họ không biết về hành vi gian lận này. Thông tư số 21/2024/TT-NHNN chưa đề cập đến cơ chế phòng, chống gian lận trong nghiệp vụ L/C, đồng nghĩa với việc các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa có căn cứ pháp lý nội địa để từ chối thanh toán khi có dấu hiệu gian lận, ngoại trừ cơ sở chung là “vi phạm pháp luật”.

3.3. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp

Điều 5 UCC quy định:

- Các tranh chấp liên quan đến L/C có thể được đưa ra tòa án Hoa Kỳ.

- Tòa án có quyền yêu cầu ngân hàng tạm dừng thanh toán nếu phát hiện gian lận nghiêm trọng.

- Các phán quyết của tòa án Hoa Kỳ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các ngân hàng tham gia.

Về vấn đề này, khoản 3 Điều 6 Thông tư số 21/2024/TT-NHNN quy định: “Việc xử lý tranh chấp phát sinh trong nghiệp vụ L/C thực hiện theo thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Trường hợp có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Bộ luật Dân sự, các bên có thể thỏa thuận pháp luật áp dụng, cơ quan giải quyết tranh chấp (bao gồm cả tòa án hoặc trọng tài thương mại quốc tế) để giải quyết”.

Theo đó, tranh chấp giữa các bên trong giao dịch L/C có thể được giải quyết theo pháp luật Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa các bên mà không có quy định riêng về quyền can thiệp của tòa án.

4. Một số đề xuất hoàn thiện Thông tư số 21/2024/TT-NHNN

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ L/C. Tuy nhiên, qua phân tích và so sánh với UCC của Hoa Kỳ, đặc biệt là Điều 5 về L/C, có thể nhận thấy Thông tư này vẫn còn một số khoảng trống nhất định, cần tiếp tục hoàn thiện nhằm nâng cao năng lực hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất hoàn thiện Thông tư số 21/2024/TT-NHNN như sau:

Thứ nhất, cụ thể hóa nguyên tắc độc lập của L/C

Một trong những nền tảng pháp lý cốt lõi điều chỉnh nghiệp vụ L/C trong UCC của Hoa Kỳ và UCP600 là nguyên tắc độc lập giữa L/C và hợp đồng cơ sở. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong L/C hoàn toàn không phụ thuộc vào việc thực hiện hoặc tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng cơ sở. Tính chất này được quy định rõ ràng tại Điều 5 - 103(d) UCC và Điều 4 UCP600, trong khi Thông tư số 21/2024/TT-NHNN mới chỉ đề cập gián tiếp trong phần giải thích về nghĩa vụ thanh toán. Việc không có điều khoản riêng về nguyên tắc độc lập trong Thông tư số 21/2024/TT-NHNN có thể dẫn đến sự diễn giải thiếu nhất quán giữa các ngân hàng thương mại khi xử lý các yêu cầu từ chối chứng từ do tranh chấp ngoài L/C.

Thứ hai, thiết lập cơ chế phòng ngừa và xử lý gian lận chứng từ

Thông tư số 21/2024/TT-NHNN chưa quy định về quyền từ chối thanh toán trong trường hợp gian lận hoặc cho phép ngân hàng chủ động yêu cầu hỗ trợ pháp lý từ tòa án. Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro trong bối cảnh gian lận thương mại ngày càng tinh vi, đặc biệt với các giao dịch L/C có sự tham gia của nhiều bên nước ngoài và dòng tiền được ứng trước.

Thứ ba, tăng cường trách nhiệm pháp lý và cơ chế bồi thường thiệt hại

Có thể bổ sung các quy định pháp lý cụ thể quyền khởi kiện của ngân hàng phát hành và cơ chế giải quyết khi có tranh chấp phát sinh, đặc biệt là quyền yêu cầu đình chỉ thanh toán của tòa án Việt Nam khi có căn cứ về hành vi giả mạo, gian lận nghiêm trọng nhằm bảo vệ lợi ích của các ngân hàng thương mại, cũng như các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam.

5. Kết luận

Có thể thấy, UCC của Hoa Kỳ là khuôn mẫu pháp lý có tính hệ thống, linh hoạt, có tính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cao cho các bên trong giao dịch L/C. Để có thể xử lý các rủi ro và tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực tài trợ thương mại quốc tế bằng L/C tại Việt Nam, Thông tư số 21/2024/TT-NHNN cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ hơn, nâng cao năng lực hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

1. Byrne, J. E. (1991), Letters of Credit: Practice and Law, Matthew Bender.

2. Dolan, J. F. (1996), The Law of Letters of Credit, Warren, Gorham & Lamont.

3. GS., TS. Đinh Xuân Trình, PGS. TS Đặng Thị Nhàn, Giáo trình thanh toán quốc tế, Nxb Bách khoa Hà Nội, 2018.

4. Mann, R. J. (2002), The Role of Letters of Credit in Payment Transactions, University of Michigan Law Review, 100(1), pages 1 - 46.

5. Nguyễn Văn Tiến (2021), Tài trợ thương mại quốc tế: Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, Nxb Tài chính.

6. Thông tư số 21/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về nghiệp vụ L/C và các hoạt động khác liên quan đến L/C.

7. UCC §5-102 to §5-111 (1995), Uniform Commercial Code - Article 5: Letters of Credit, Legal Information Institute. https://www.law.cornell.edu/ucc/5

PGS., TS. Đặng Thị Nhàn *; Hoàng Thị Bích Ngọc **
* Trường Đại học Ngoại thương; * Agribank Chi nhánh Bắc Hà Nội

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô