Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích Điều 5 của Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code - UCC) về thư tín dụng (L/C) nhằm làm rõ sự khác biệt giữa khung pháp lý của Hoa Kỳ và Việt Nam theo Thông tư số 21/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định về nghiệp vụ L/C và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C. Trên cơ sở tiếp cận luật học và thực tiễn, bài viết chỉ ra rằng, mặc dù Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã có những bước tiến quan trọng trong nội luật hóa thông lệ quốc tế, song vẫn còn một số khoảng trống nhất định so với khung pháp lý của UCC, đặc biệt là về nguyên tắc độc lập, cơ chế xử lý chứng từ và điều khoản phòng ngừa gian lận. Từ đó, bài viết đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp lý về L/C tại Việt Nam.

Từ khóa: UCC, L/C, thương mại quốc tế, Thông tư số 21/2024/TT-NHNN.

LETTER OF CREDIT REGULATION UNDER THE UNITED STATES UNIFORM COMMERCIAL CODE

Abstract: The article analyzes Article 5 of the United States Uniform Commercial Code (UCC) on letter of credit (L/C), in order to clarify the differences between the legal framework of the United States and Vietnam under Circular No. 21/2024/TT-NHNN dated June 28, 2024, issued by the State Bank of Vietnam's the Governor on L/C operations and other business activities related to L/C. Based on both legal and practical perspectives, the article finds that although Circular No. 21/2024/TT-NHNN marks an important step in incorporating international practices into domestic law, certain gaps remain when compared with the UCC, particularly in relation to the principle of independence, the mechanism for handling documents, and anti-fraud provisions. Accordingly, the article offers several proposals to improve the legal framework on L/C in Vietnam.

Keywords: UCC, L/C, international trade, Circular No. 21/2024/TT-NHNN.

1. Giới thiệu chung

Trong bối cảnh hội nhập tài chính toàn cầu, hoạt động thanh toán và tài trợ thương mại bằng L/C ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giao dịch thương mại quốc tế. Nhằm cụ thể hóa hoạt động L/C và quy định thêm những nội dung mà Tập quán và Thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ của Phòng Thương mại quốc tế (UCP600) không giải quyết, một số quốc gia còn ban hành hệ thống pháp lý riêng để điều chỉnh L/C, trong đó có Hoa Kỳ với UCC các năm 1952/1995/2002/2012/2022. Gần đây, lần đầu tiên Việt Nam đã ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN nhằm cụ thể hóa những quy định về nghiệp vụ L/C và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C.

2. Tổng quan nghiên cứu

UCC là Bộ luật Thương mại Thống nhất được xây dựng nhằm điều chỉnh các giao dịch thương mại tại Hoa Kỳ. Ngoài việc cùng áp dụng UCP600, Hoa Kỳ là một trong số ít các quốc gia quy định khá rõ về L/C và quy trình thực hiện L/C trong các hợp đồng mua bán hàng hóa. UCC được soạn thảo lần đầu vào năm 1952 bởi Ủy ban Quốc gia về Luật Thống nhất (National Conference of Commissioners on Uniform State Laws - NCCUSL) và Viện Luật Hoa Kỳ (American Law Institute - ALI). UCC được duy trì dưới sự chỉ dẫn của Ban Biên tập Thường trực (Permanent Editorial Board - PEB), bao gồm các thành viên được chỉ định bởi Ủy ban Luật Thống nhất (Uniform Law Commission - ULC) và ALI.

PEB được thành lập vào năm 1961, có nhiệm vụ theo dõi những diễn biến trong lĩnh vực pháp luật thương mại, đề xuất các sửa đổi và cập nhật đối với UCC khi cần thiết, đồng thời công bố các bình luận chính thức (Official commentary) nhằm hỗ trợ tòa án trong việc giải thích các điều khoản cụ thể của UCC. Điều 5 (Bản sửa đổi từ năm 1995) của UCC vẫn giữ nguyên các quy định toàn diện về L/C, bao gồm: Định nghĩa, nội dung cam kết, quyền và nghĩa vụ của các bên, quy trình từ chối chứng từ và đặc biệt là Mục 5 - 109 về gian lận và giả mạo - một rủi ro lớn có thể xảy ra trong giao dịch L/C.

Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 thay thế Luật Các TCTD năm 2010, quy định, L/C không còn là dịch vụ thanh toán (như quy định tại khoản 15 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010) mà là hình thức cấp tín dụng thông qua 4 nghiệp vụ: Phát hành, xác nhận, thương lượng thanh toán và hoàn trả L/C. Thời gian trước đây tại Việt Nam, nghiệp vụ L/C được NHNN cho phép các TCTD vận hành theo tập quán thương mại quốc tế là UCP600 mà chưa có văn bản riêng hướng dẫn cụ thể. Do đó, việc ban hành Luật Các TCTD năm 2024 và sau đó là Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thiết lập cơ sở pháp lý để các TCTD, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện các giao dịch L/C một cách thống nhất, an toàn và hiệu quả.

Hệ thống thông luật như Hoa Kỳ hay pháp luật dân sự như Việt Nam đã tạo ra những điểm khác biệt căn bản trong cách tiếp cận và quy định pháp lý về L/C. Bài viết này phân tích các quy định tại Điều 5 UCC của Hoa Kỳ, đối chiếu, so sánh với Thông tư số 21/2024/TT-NHNN của Việt Nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về L/C tại Việt Nam tiệm cận hơn với các chuẩn mực quốc tế.

3. Phân tích các quy định về L/C trong Điều 5 UCC của Hoa Kỳ sửa đổi năm 1995

3.1. Về nguyên tắc độc lập của L/C

Điểm d Mục 5 ‐ 103 Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của người phát hành cho người thụ hưởng hoặc một người chỉ định theo L/C là độc lập với sự tồn tại, thực hiện hoặc không thực hiện của một hợp đồng hoặc thỏa thuận mà L/C phát sinh hoặc làm cơ sở cho L/C, bao gồm hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa người phát hành và người yêu cầu hoặc giữa người yêu cầu và người thụ hưởng”. Theo đó: (i) Nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng phát hành là độc lập với hợp đồng cơ sở giữa người yêu cầu phát hành L/C và người thụ hưởng L/C. (ii) Nghĩa vụ của ngân hàng phát hành là kiểm tra chứng từ và đảm bảo chứng từ đó tuân thủ theo các yêu cầu quy định tại L/C mà không xét đến tranh chấp thương mại giữa người yêu cầu phát hành L/C và người thụ hưởng L/C.

Nhìn chung, điểm d Mục 5 ‐ 103 Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 có nội dung tương tự với điểm a Điều 4 và Điều 5 UCP600, quy định chủ yếu về nghĩa vụ và trách nhiệm của ngân hàng phát hành với bên thụ hưởng L/C.

Luật Các TCTD năm 2024 và Thông tư số 21/2024/TT-NHNN mặc dù không quy định nào về nguyên tắc độc lập của L/C như tại Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 của Hoa Kỳ; tuy nhiên, những văn bản trên cho phép các bên thỏa thuận về việc áp dụng tập quán thương mại về L/C do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành. Khi áp dụng, các bên phải dẫn chiếu cụ thể tên, phiên bản áp dụng (Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024, khoản 16 Điều 3 và Điều 6 Thông tư số 21/2024/TT-NHNN).

3.2. Về vấn đề gian lận và giả mạo theo L/C

Tập quán và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC không có quy định về gian lận và giả mạo theo L/C mà để ngỏ vấn đề này cho luật các quốc gia giải quyết. Đặc biệt, Điều 34 UCP600 còn cho phép các ngân hàng được miễn trách nhiệm và nghĩa vụ về hiệu lực của chứng từ như sau: “Ngân hàng không có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với hình thức, sự hoàn bị, tính chính xác, tính chân thực, sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của bất cứ chứng từ nào hoặc đối với các điều kiện chung hoặc điều kiện riêng quy định ở trong một chứng từ…”

Vì vậy, gian lận và giả mạo được quy định cụ thể trong UCC năm 1952 (Mục 5 - 114(2) Điều 5) và sửa đổi năm 1995 (Mục 5 - 109), cho phép người yêu cầu phát hành L/C có thể bảo vệ mình trước hành vi gian lận theo L/C mà không cần căn cứ vào các quy tắc hoặc đạo luật khác. Nội dung cơ bản được quy định tại Mục 5 - 109 Điều 5 UCC sửa đổi năm 1995 được hiểu như sau:

1. Nếu một bộ chứng từ được xuất trình mà trên bề mặt hoàn toàn tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C, nhưng:

- Một chứng từ yêu cầu bị giả mạo hoặc bị gian lận đáng kể, hoặc

- Việc chấp nhận hoặc thanh toán bộ chứng từ đó (honor) sẽ tạo điều kiện cho người thụ hưởng thực hiện hành vi gian lận đáng kể với ngân hàng phát hành hoặc người yêu cầu phát hành L/C, thì ngân hàng phát hành có quyền từ chối thanh toán, bất chấp sự tuân thủ về mặt hình thức.

2. Kể cả có gian lận đáng kể, ngân hàng phát hành phải thanh toán cho bên thụ hưởng, nếu một trong các bên sau đây yêu cầu thanh toán:

- Ngân hàng được chỉ định đã thanh toán hoặc cam kết thanh toán một cách thiện chí và không biết về gian lận đáng kể hoặc giả mạo;

- Ngân hàng xác nhận đã xác nhận L/C một cách thiện chí;

- Người cầm giữ hợp pháp hối phiếu theo L/C đã được ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng được chỉ định chấp nhận;

- Người nhận chuyển nhượng nghĩa vụ thanh toán bị hoãn của ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng được chỉ định đã nhận nghĩa vụ này một cách thiện chí và không biết về gian lận đáng kể tại thời điểm nghĩa vụ phát sinh.

Đây là nguyên tắc bảo vệ bên thứ ba thiện chí - nguyên tắc cơ bản trong hệ thống thông luật.

Trong bất kỳ trường hợp nào không thuộc trường hợp nêu tại mục 2, ngân hàng phát hành có thể lựa chọn thanh toán hoặc từ chối thanh toán một cách thiện chí.

3. Nếu người yêu cầu phát hành L/C khiếu nại rằng có gian lận đáng kể hoặc giả mạo trong chứng từ, hoặc việc thanh toán sẽ tạo điều kiện cho hành vi gian lận đáng kể, người đó có thể yêu cầu tòa án ra lệnh khẩn cấp để ngăn chặn việc thanh toán, chỉ khi tòa án xác định:

- Việc ra lệnh không bị pháp luật áp dụng (liên quan đến hối phiếu hoặc nghĩa vụ bị trì hoãn) cấm đoán;

- Bên thụ hưởng, ngân hàng phát hành, hoặc ngân hàng được chỉ định sẽ được bảo vệ đầy đủ trước tổn thất tiềm tàng do lệnh ban hành;

- Người yêu cầu đáp ứng các điều kiện được trợ giúp theo luật của bang;

- Dựa trên thông tin đã nộp cho tòa, người yêu cầu có khả năng thắng kiện cao và người yêu cầu thanh toán không thuộc bên thứ 3 thiện chí như nêu tại mục 2.

Đây là cơ chế ngăn chặn lạm dụng quyền tạm dừng thanh toán. Tuy nhiên, UCC không định nghĩa rõ thế nào là gian lận đáng kể, nhưng thông qua án lệ Ground Air Transfer, Inc. v. Westates Airlines, Inc., 899 F.2d 1269 (1st Cir. 1990), tòa án xác định: “Gian lận đáng kể là hành vi của người thụ hưởng làm “vô hiệu hóa toàn bộ giao dịch” đến mức nghĩa vụ thanh toán độc lập của ngân hàng không còn hợp lý”.

Như vậy, theo quy định tại UCC:

- Ngân hàng phát hành có quyền từ chối thanh toán nếu phát hiện chứng từ gian lận hoặc có dấu hiệu lừa đảo.

- Nếu bên thụ hưởng cố tình xuất trình chứng từ giả, ngân hàng phát hành có thể không thanh toán ngay cả khi chứng từ đó phù hợp với L/C.

- Tòa án Hoa Kỳ có quyền ra lệnh tạm dừng thanh toán nếu có bằng chứng về gian lận nghiêm trọng.

Thông tư số 21/2024/TT-NHNN cũng không đề cập đến vấn đề giả mạo và gian lận trong L/C mà chỉ quy định quyền tự chủ của ngân hàng tại Điều 4:

“1. Ngân hàng có quyền tự chủ trong thực hiện nghiệp vụ L/C, các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.

2. Ngân hàng có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến L/C của khách hàng nếu thấy không có hiệu quả hoặc không phù hợp với quy định nội bộ của ngân hàng, quy định tại Thông tư này, tập quán thương mại quốc tế về L/C và quy định của pháp luật có liên quan”.

Từ đây, có thể hiểu Thông tư số 21/2024/TT-NHNN cho phép các ngân hàng thương mại Việt Nam từ chối khi chứng từ không phù hợp với điều khoản, điều kiện của L/C nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp giả mạo, gian lận chứng từ.

Như vậy, trong khi UCP600 giữ nguyên tắc trung lập, không can thiệp và để mỗi nước tự điều chỉnh vấn đề gian lận, giả mạo bằng luật quốc gia, thì UCC của Hoa Kỳ đã quy định cụ thể, tạo điều kiện cho ngân hàng phát hành có thể ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận nghiêm trọng nhưng vẫn có một số nguyên tắc nhằm bảo vệ bên thứ ba thiện chí nếu họ không biết về hành vi gian lận này. Thông tư số 21/2024/TT-NHNN chưa đề cập đến cơ chế phòng, chống gian lận trong nghiệp vụ L/C, đồng nghĩa với việc các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa có căn cứ pháp lý nội địa để từ chối thanh toán khi có dấu hiệu gian lận, ngoại trừ cơ sở chung là “vi phạm pháp luật”.

3.3. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp

Điều 5 UCC quy định:

- Các tranh chấp liên quan đến L/C có thể được đưa ra tòa án Hoa Kỳ.

- Tòa án có quyền yêu cầu ngân hàng tạm dừng thanh toán nếu phát hiện gian lận nghiêm trọng.

- Các phán quyết của tòa án Hoa Kỳ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các ngân hàng tham gia.

Về vấn đề này, khoản 3 Điều 6 Thông tư số 21/2024/TT-NHNN quy định: “Việc xử lý tranh chấp phát sinh trong nghiệp vụ L/C thực hiện theo thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Trường hợp có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Bộ luật Dân sự, các bên có thể thỏa thuận pháp luật áp dụng, cơ quan giải quyết tranh chấp (bao gồm cả tòa án hoặc trọng tài thương mại quốc tế) để giải quyết”.

Theo đó, tranh chấp giữa các bên trong giao dịch L/C có thể được giải quyết theo pháp luật Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa các bên mà không có quy định riêng về quyền can thiệp của tòa án.

4. Một số đề xuất hoàn thiện Thông tư số 21/2024/TT-NHNN

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ L/C. Tuy nhiên, qua phân tích và so sánh với UCC của Hoa Kỳ, đặc biệt là Điều 5 về L/C, có thể nhận thấy Thông tư này vẫn còn một số khoảng trống nhất định, cần tiếp tục hoàn thiện nhằm nâng cao năng lực hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất hoàn thiện Thông tư số 21/2024/TT-NHNN như sau:

Thứ nhất, cụ thể hóa nguyên tắc độc lập của L/C

Một trong những nền tảng pháp lý cốt lõi điều chỉnh nghiệp vụ L/C trong UCC của Hoa Kỳ và UCP600 là nguyên tắc độc lập giữa L/C và hợp đồng cơ sở. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong L/C hoàn toàn không phụ thuộc vào việc thực hiện hoặc tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng cơ sở. Tính chất này được quy định rõ ràng tại Điều 5 - 103(d) UCC và Điều 4 UCP600, trong khi Thông tư số 21/2024/TT-NHNN mới chỉ đề cập gián tiếp trong phần giải thích về nghĩa vụ thanh toán. Việc không có điều khoản riêng về nguyên tắc độc lập trong Thông tư số 21/2024/TT-NHNN có thể dẫn đến sự diễn giải thiếu nhất quán giữa các ngân hàng thương mại khi xử lý các yêu cầu từ chối chứng từ do tranh chấp ngoài L/C.

Thứ hai, thiết lập cơ chế phòng ngừa và xử lý gian lận chứng từ

Thông tư số 21/2024/TT-NHNN chưa quy định về quyền từ chối thanh toán trong trường hợp gian lận hoặc cho phép ngân hàng chủ động yêu cầu hỗ trợ pháp lý từ tòa án. Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro trong bối cảnh gian lận thương mại ngày càng tinh vi, đặc biệt với các giao dịch L/C có sự tham gia của nhiều bên nước ngoài và dòng tiền được ứng trước.

Thứ ba, tăng cường trách nhiệm pháp lý và cơ chế bồi thường thiệt hại

Có thể bổ sung các quy định pháp lý cụ thể quyền khởi kiện của ngân hàng phát hành và cơ chế giải quyết khi có tranh chấp phát sinh, đặc biệt là quyền yêu cầu đình chỉ thanh toán của tòa án Việt Nam khi có căn cứ về hành vi giả mạo, gian lận nghiêm trọng nhằm bảo vệ lợi ích của các ngân hàng thương mại, cũng như các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam.

5. Kết luận

Có thể thấy, UCC của Hoa Kỳ là khuôn mẫu pháp lý có tính hệ thống, linh hoạt, có tính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cao cho các bên trong giao dịch L/C. Để có thể xử lý các rủi ro và tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực tài trợ thương mại quốc tế bằng L/C tại Việt Nam, Thông tư số 21/2024/TT-NHNN cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ hơn, nâng cao năng lực hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

1. Byrne, J. E. (1991), Letters of Credit: Practice and Law, Matthew Bender.

2. Dolan, J. F. (1996), The Law of Letters of Credit, Warren, Gorham & Lamont.

3. GS., TS. Đinh Xuân Trình, PGS. TS Đặng Thị Nhàn, Giáo trình thanh toán quốc tế, Nxb Bách khoa Hà Nội, 2018.

4. Mann, R. J. (2002), The Role of Letters of Credit in Payment Transactions, University of Michigan Law Review, 100(1), pages 1 - 46.

5. Nguyễn Văn Tiến (2021), Tài trợ thương mại quốc tế: Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, Nxb Tài chính.

6. Thông tư số 21/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về nghiệp vụ L/C và các hoạt động khác liên quan đến L/C.

7. UCC §5-102 to §5-111 (1995), Uniform Commercial Code - Article 5: Letters of Credit, Legal Information Institute. https://www.law.cornell.edu/ucc/5

PGS., TS. Đặng Thị Nhàn *; Hoàng Thị Bích Ngọc **
* Trường Đại học Ngoại thương; * Agribank Chi nhánh Bắc Hà Nội

Tin bài khác

Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Xem thêm
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô