Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
aa

Tóm tắt: Các công cụ phái sinh đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tài chính quốc tế và được xem là giải pháp phòng ngừa rủi ro tỉ giá cũng như đầu cơ hữu hiệu. Trong xu hướng tự do thương mại toàn cầu, tiềm năng phát triển hoạt động phái sinh tại Việt Nam rất lớn. Bài viết này trình bày tổng quan về hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam, đưa ra các vấn đề còn hạn chế, khó khăn; từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động phái sinh trong thời gian tới.

Từ khóa: Công cụ phái sinh, tỉ giá hối đoái, tài chính quốc tế.

THE ACTIVITIES OF SUPPLYING DERIVATIVE PRODUCTS AT VIETNAMESE CREDIT INSTITUTIONS

Abstract: Derivative instruments play a crucial role in international financial activities and are considered effective tools for hedging currency risks and engaging in speculation. The trend of global trade liberalization has pushed up the potential development of derivative activities in Vietnam. This article provides the current situation with some challenges of supplying derivative products at Vietnamese credit institutions, thereby, making some recommendations to improve the development of derivative activities in the future.

Keywords: Derivative instruments, exchange rates, international finance.

1. Giới thiệu chung

Từ khi thị trường tiền tệ quốc tế chính thức được thành lập bởi Sàn giao dịch Chicago (CME) vào năm 1972 để giao dịch tương lai ngoại tệ, nhiều sàn giao dịch khác trên thế giới đã thực hiện giao dịch này như: Sàn giao dịch New York (NYSE Euronext), Sàn giao dịch Toronto (TSX), Sàn giao dịch London (LSE), Sàn giao dịch tiền tệ quốc tế Singapore (SIMEX), Sàn giao dịch tài chính Tokyo (TFX), Sàn giao dịch hàng hóa và hợp đồng tương lai Brazil (BM&F). Trong những năm 1980, các sàn giao dịch đã phát triển thêm hợp đồng quyền chọn về ngoại hối, trong đó, Sàn giao dịch Philippines là sàn giao dịch đầu tiên thực hiện giao dịch về loại hợp đồng phái sinh này. Từ đó đến nay, với sự phát triển nhanh chóng của các hoạt động tài chính quốc tế, thị trường phái sinh tiếp tục cho ra đời các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi và được triển khai áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ quốc tế.

Đối với các TCTD, công cụ phái sinh là giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro tỉ giá cũng như đóng góp vào hoạt động kinh doanh ngoại hối. Hơn nữa, các công cụ phái sinh còn bảo đảm số lượng ngoại tệ bất thường cho TCTD để bảo đảm tính thanh khoản của mình. Ngoài ra, phái sinh cũng là công cụ đầu cơ của các TCTD. Dựa vào đánh giá, phân tích xu hướng chuyển biến tỉ giá trong hiện tại và tương lai, TCTD có thể dựa vào sự chênh lệch của tỉ giá giao ngay và lãi suất các đồng tiền tương ứng để thực hiện kinh doanh, từ đó, thu được tỉ suất sinh lời lớn hơn thị trường ngoại hối cơ sở.

Tại Việt Nam - một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

2. Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các TCTD tại Việt Nam

2.1. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh

Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh cho các TCTD được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) từ rất sớm và liên tục được bổ sung, sửa đổi theo sự phát triển của thị trường phái sinh. Cụ thể, quy định chung liên quan đến quản lý, kinh doanh ngoại tệ: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005 và Pháp lệnh số 06/2013/PL-UBTVQH13 ngày 18/3/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11; đồng thời, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối, tạo khung pháp lý cụ thể cho các giao dịch ngoại tệ phái sinh được diễn ra thông suốt, đúng quy định pháp luật.

Các quy định cụ thể liên quan đến việc cung ứng sản phẩm phái sinh được NHNN quy định như sau:

Về giao dịch kỳ hạn ngoại tệ: Được quy định tại Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/02/1999 của Thống đốc NHNN về việc quy định nguyên tắc xác định tỉ giá mua bán ngoại tệ của các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ, các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa TCTD với doanh nghiệp xuất, nhập khẩu hoặc với các TCTD khác được phép của NHNN.

Về giao dịch phái sinh lãi suất: Giao dịch hoán đổi lãi suất được quy định cụ thể trong Quyết định số 430/1997/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 của Thống đốc NHNN về việc thực hiện giao dịch SWAP giữa NHNN và các ngân hàng thương mại (NHTM); Quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của Thống đốc NHNN về việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ giữa NHNN với các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn bằng Đồng Việt Nam cho các ngân hàng; Quyết định số 1133/2003/QĐ-NHNN ngày 30/9/2003 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất. Theo đó, hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng; giữa ngân hàng với những doanh nghiệp vay vốn tại TCTD khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các ngân hàng trong nước với nhau và giữa các NHTM trong nước với các TCTD nước ngoài. Bên cạnh đó, Thông tư số 01/2015/TT-NHNN ngày 06/01/2015 của Thống đốc NHNN quy định hoạt động kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 25/2021/TT-NHNN ngày 31/12/2021), đã nêu rõ quy định về hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất trên phương tiện điện tử. Theo đó, các NHTM xây dựng quy trình kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh bằng phương tiện điện tử phải phù hợp với quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, pháp luật về giao dịch điện tử và các quy định pháp luật liên quan, đồng thời, phải lưu trữ đầy đủ các thông tin liên quan để phục vụ cho công tác kiểm tra, đối chiếu, giải quyết tra soát, khiếu nại, tranh chấp và cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

Về giao dịch quyền chọn ngoại tệ: Được quy định tại Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004 của Thống đốc NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối, chỉ bao gồm giao dịch giữa các ngoại tệ (không liên quan đến VND). Đối tượng được tham gia giao dịch ngoại hối bao gồm TCTD, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, cá nhân và NHNN. TCTD được duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền chọn không có giao dịch đối ứng tối đa là 10% so với vốn tự có. Cũng trong Quyết định này, các TCTD không được mua quyền chọn của tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân mà họ chỉ được phép bán quyền chọn cho các đối tượng này.

Về tỉ giá giao dịch: Được quy định tại Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28/5/2004 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN ngày 01/7/2002 về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ; theo đó, giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi có thời hạn từ 3 - 365 ngày, với tỉ giá kỳ hạn được xác định trên cơ sở: Tỉ giá giao ngay của ngày ký hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi; chênh lệch giữa 2 mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ bản của VND (tính theo năm) do NHNN công bố và lãi suất mục tiêu do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố. Như vậy, quy định về cách thức tính tỉ giá kỳ hạn này đã tiến gần với thông lệ quốc tế và là tiền đề pháp lý quan trọng cho sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam nói chung và giao dịch ngoại hối kỳ hạn nói riêng.

Về các sản phẩm phái sinh: Được quy định cụ thể tại Luật Các TCTD năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2024. Theo đó, “Sản phẩm phái sinh là công cụ tài chính được định giá theo biến động dự kiến về giá trị của một tài sản tài chính gốc như tỉ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ hoặc tài sản tài chính khác”. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định rõ về chức năng quản lý các hoạt động phái sinh ngoại tệ của NHNN như sau: “NHNN quy định về phạm vi kinh doanh ngoại hối; điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận việc kinh doanh ngoại hối; kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh của NHTM”.

Các quy định về công cụ phái sinh liên tục được hoàn thiện với sự ra đời của Thông tư số 15/2015/TT-NHNN ngày 02/10/2015 và Thông tư số 02/2021/TT-NHNN ngày 31/3/2021 của Thống đốc NHNN hướng dẫn giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối; Văn bản hợp nhất số 45/VBHN-NHNN ngày 17/10/2016 của Thống đốc NHNN hợp nhất Thông tư hướng dẫn về phạm vi hoạt động ngoại hối, điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận hoạt động ngoại hối của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-NHNN ngày 29/11/2017 của Thống đốc NHNN hợp nhất Thông tư quy định về việc cấp giấy phép và tổ chức, hoạt động của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Ngoài ra, hiện nay, NHNN đang lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 02/2021/TT-NHNN theo hướng: Cơ sở xác định tỉ giá kỳ hạn giữa VND với USD trong giao dịch kỳ hạn, giao dịch kỳ hạn trong giao dịch hoán đổi sẽ không quy định cụ thể tại Thông tư mà được quy định tại quyết định do Thống đốc NHNN ban hành trong từng thời kỳ. Theo đó, TCTD được phép hoạt động ngoại hối là các ngân hàng, TCTD phi ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là TCTD được phép) được kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối. Khách hàng bao gồm: Người cư trú là tổ chức kinh tế (bao gồm cả TCTD không phải là TCTD được phép hoạt động ngoại hối), tổ chức khác và cá nhân; người không cư trú là tổ chức, cá nhân.

Mặc dù năm 2009, để hạn chế yếu tố đầu cơ ảnh hưởng đến điều hành tỉ giá, NHNN đã ban hành Văn bản số 1820/NHNN-QLNH ngày 18/3/2009 về việc yêu cầu các NHTM chấm dứt thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa VND và ngoại tệ, tuy nhiên hiện nay, theo Thông tư số 02/2021/TT-NHNN, các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã được phép thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ cùng các giao dịch ngoại tệ khác. Điều 4 Thông tư số 02/2021/TT-NHNN quy định về loại hình phái sinh ngoại tệ được phép cung ứng cho khách hàng như sau: (i) TCTD được phép được thực hiện giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, giao dịch quyền chọn với TCTD được phép khác; (ii) TCTD được phép được thực hiện giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, giao dịch bán quyền chọn với tổ chức kinh tế; (iii) TCTD được phép được thực hiện giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn với người cư trú là tổ chức khác và cá nhân; (iv) TCTD được phép được thực hiện giao dịch giao ngay với người không cư trú là tổ chức, cá nhân và giao dịch bán ngoại tệ kỳ hạn với người không cư trú quy định tại khoản (v) Điều này; (v) TCTD được phép được thực hiện giao dịch bán ngoại tệ kỳ hạn với người không cư trú là nhà đầu tư nước ngoài sở hữu trái phiếu Chính phủ phát hành bằng VND tại thị trường trong nước để phòng ngừa rủi ro tỉ giá cho trái phiếu đầu tư của nhà đầu tư.

2.2. Thực trạng hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các TCTD

2.2.1. Trong giai đoạn thí điểm

Tại Việt Nam, hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các TCTD xuất hiện khoảng đầu năm 2000, khi thị trường chứng khoán trong nước bắt đầu có những nền móng phát triển. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, cơ sở pháp lý của các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ, do vậy, số lượng các giao dịch còn ít, trong đó, hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số hợp đồng phái sinh không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện (trong số đó có một số giao dịch đã chưa phát sinh giao dịch). Trong thời gian này, NHNN đã cho phép một số TCTD thực hiện các giao dịch phái sinh ngoại tệ như:

(i) Ngân hàng Citibank Việt Nam thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ tháng 3/2005 đến tháng 02/2006; Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa 2 đồng tiền (Cross Currency Swap - CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ; thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng - lãi suất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá; theo đó, lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng dao động nhất định và phụ thuộc vào sự biến động của một số yếu tố thị trường như tỉ giá, lãi suất, giá sản phẩm hàng hóa.

(ii) NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc Euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại Việt Nam được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các ngân hàng nước ngoài.

(iii) NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác là TCTD hoạt động tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong nước và nước ngoài, phù hợp với quy định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về Vietcombank là quyền kết thúc trước hạn hợp đồng Swap đối với các khoản vay.

(iv) Ngân hàng HSBC Việt Nam thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn, thời hạn của hợp đồng tối đa 5 năm. Theo thỏa thuận hoán đổi này, khách hàng vay của Ngân hàng HSBC Việt Nam sẽ trả theo tỉ giá tham chiếu hàng ngày dựa trên lãi suất mà ngân hàng đề nghị cho các ngân hàng khác vay tiền không có bảo đảm trên thị trường tiền tệ bán buôn Singapore (Sibor) cộng với phần chênh lệch và tổng lãi suất phải trả này không vượt quá mức lãi suất cao nhất đã được định trước. Đổi lại, Ngân hàng HSBC Việt Nam sẽ trả lãi suất Sibor cộng với phần chênh lệch cho những ngày lãi suất Sibor dao động trong một khoảng được định trước. Cụ thể, hợp đồng này thỏa thuận giữa khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất thả nổi. Nếu đến ngày đáo hạn lãi suất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước (4,5%/năm) thì Ngân hàng HSBC Việt Nam sẽ trả lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất (Sibor + 1,1% ). Trường hợp vượt mức lãi suất định trước, thì Ngân hàng HSBC Việt Nam không phải trả mức lãi suất này. Đổi lại, khách hàng sẽ trả cho Ngân hàng HSBC Việt Nam mức lãi suất (Sibor + 0,6%), nhưng tối đa không vượt quá 5,1%/năm; thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền.

(v) NHTM cổ phần Quốc tế (VIB), Vietcombank; NHTM cổ phần Á Châu (ACB), BIDV, NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), NHTM cổ phần Quân đội (MB) thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ (Option ngoại tệ/VND); Ngân hàng Citibank Việt Nam, Ngân hàng ABN-AMRO Việt Nam thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai (Forward Start Swap).

2.2.2. Trong giai đoạn phát triển hiện nay

Cùng với sự phát triển của các loại hình chứng khoán phái sinh trên thị trường tài chính, bên cạnh các sản phẩm phái sinh hàng hóa, phái sinh lãi suất… các NHTM đang tăng cường triển khai và hoàn thiện các sản phẩm phái sinh ngoại tệ. Đây là xu hướng tất yếu, phản ánh sự hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu hướng tự do hóa thị trường tài chính toàn cầu. Hiện nay, loại công cụ tài chính phái sinh được phổ biến nhiều nhất ở Việt Nam là công cụ tài chính phái sinh tiền tệ. Để thực hiện hoạt động mua bán ngoại tệ, các NHTM đã tổ chức phòng kinh doanh tiền tệ, đầu tư hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại như hệ thống Reuters Dealing, Reuters Extra, Reuters Eikon, hệ thống SWIFT, hệ thống Core Banking, máy fax, máy scan, máy điện thoại ghi âm... tạo thuận lợi cho các giao dịch viên giao dịch tức thời nhưng vẫn bảo đảm tính chất pháp lý của giao dịch.

Bên cạnh đó, để kiểm soát, ngăn ngừa, hạn chế rủi ro, các NHTM cũng đã xây dựng một số hệ thống hạn mức như: Hạn mức/một giao dịch, hạn mức lỗ/một giao dịch, trạng thái mở trong ngày, trạng thái mở qua đêm đối với từng chức danh và báo cáo trạng thái ngoại tệ theo quy định của NHNN. Một số NHTM đã nghiên cứu đưa ra các sản phẩm phái sinh kết hợp nhiều tiện ích, thích hợp với điều kiện lạm phát và tỉ giá biến động thường xuyên, điển hình như một số sản phẩm phái sinh do BIDV cung cấp là kết hợp giữa mua bán ngoại tệ, phái sinh với sản phẩm tiền gửi, tín dụng, tài trợ thương mại, chuyển tiền… Đặc biệt, các sản phẩm của BIDV được đánh giá là cạnh tranh trên thị trường do đa dạng về kỳ hạn, đồng tiền, mặt hàng giao dịch, lãi suất tham chiếu và linh hoạt về thời gian thanh toán.

Từ giai đoạn thí điểm triển khai cung ứng các sản phẩm phái sinh đến nay, BIDV là một trong những ngân hàng luôn tiên phong trong triển khai đa dạng các sản phẩm phái sinh tiền tệ và lãi suất với thời gian thanh toán linh hoạt. Nhằm hỗ trợ khách hàng tiết kiệm chi phí giao dịch và đa dạng hóa việc lựa chọn sản phẩm, BIDV cung cấp các gói sản phẩm kết hợp như mua bán ngoại tệ, phái sinh với tiền gửi, tín dụng và tài trợ thương mại. Theo Báo cáo tài chính quý IV/2024 của BIDV, tính đến ngày 31/12/2024, tổng giá trị ghi sổ của các giao dịch phái sinh tiền tệ đạt 75.548,664 tỉ đồng, trong đó, giao dịch kỳ hạn đạt 10.943,598 tỉ đồng, giao dịch hoán đổi đạt 64.605,066 tỉ đồng. Với giao dịch hoán đổi lãi suất ghi nhận tổng giá trị ghi sổ đạt 6.249,793 tỉ đồng. Trong 4 năm liền (2021 - 2024), BIDV cũng đã nhận giải thưởng "Ngân hàng cung cấp dịch vụ phái sinh tốt nhất Việt Nam" do Tạp chí Asian Banking & Finance (ABF) bình chọn.

Tại NHTM cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), cung ứng sản phẩm phái sinh là một trong những mô hình kinh doanh được VPBank đầu tư nhằm nâng cao các giải pháp quản lý rủi cho khách hàng. Theo đó, VPBank đã từng bước cải tiến, số hóa mọi khâu trong quy trình giao dịch phái sinh, qua đó, giúp khách hàng có cơ hội trải nghiệm nhiều phương thức giao dịch tự động thông qua các sản phẩm ngoại tệ giao ngay, ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi tiền tệ chéo (CCS), hoán đổi lãi suất một đồng tiền (IRS), hoán đổi lãi suất cộng dồn (AIRS). Theo Báo cáo tài chính quý IV/2024 của VPBank, tổng giá trị hợp đồng (tính theo tỉ giá ngày hiệu lực hợp đồng) của các sản phẩm phái sinh tiền tệ đạt 175.293,112 tỉ đồng, trong đó, giao dịch kỳ hạn đạt 36.417,208 tỉ đồng, giao dịch hoán đổi đạt 138.875,904 tỉ đồng.

Trên nền tảng số, MB là ngân hàng tiên phong triển khai sản phẩm phái sinh ngoại tệ qua App MBBank cho khách hàng cá nhân và BIZ MBBank cho khách hàng doanh nghiệp. Đồng thời, MB cũng là ngân hàng đầu tiên ra mắt công cụ Chatbot giúp tư vấn thông tin thị trường cũng như tự động chốt giao dịch phái sinh ngoại tệ với khách hàng doanh nghiệp.

NHTM cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) cung ứng sản phẩm cho vay bằng VND theo lãi suất ngoại tệ. Với sản phẩm này, khách hàng được ngân hàng cho vay bằng VND với lãi suất ngoại tệ (số tiền cho vay này sẽ được xác định trước bằng một giá trị ngoại tệ khi ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân), khi thực hiện hợp đồng tín dụng, khách hàng trả nợ vay, lãi vay bằng VND theo tỉ giá ngoại tệ vào ngày trả nợ; cho vay bằng VND theo lãi suất ngoại tệ có bảo hiểm tỉ giá: Sản phẩm này giống như sản phẩm trên nhưng ngân hàng có thể thực hiện bảo hiểm tỉ giá cho doanh nghiệp. Cụ thể khi tỉ giá ngoại tệ tăng trên 2% hoặc 3% so với tỉ giá tại thời điểm giải ngân thì khách hàng chỉ phải thanh toán cho ngân hàng số tiền VND tương ứng với mức tăng tỉ giá 2 - 3%, phần vượt ngân hàng chịu. Với sản phẩm này, khách hàng có thể tính toán được trước mức tối đa mà khách hàng phải thanh toán do tỉ giá tăng.

3. Một số hạn chế và kiến nghị trong hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các TCTD tại Việt Nam

3.1. Hạn chế

Một là, chi phí giao dịch có liên quan để mua/bán/giao dịch công cụ tài chính phái sinh còn cao. Chi phí giao dịch bao gồm: Chi phí tìm kiếm thông tin; chi phí thương lượng với đối tác; chi phí để điều chỉnh trạng thái nhằm thích nghi với điều kiện mới của thị trường; chi phí phát sinh từ những yếu tố bất định và rủi ro về thông tin, thể chế...; chi phí ủy quyền tác nghiệp; chi phí thực hiện và giám sát.

Hai là, một số TCTD tại Việt Nam còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng và cơ sở hạ tầng hiện đại để thực hiện các giao dịch phái sinh do việc cung ứng sản phẩm phái sinh đòi hỏi TCTD phải có hệ thống thông tin dự báo tỉ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục; công cụ đo lường, cảnh báo rủi ro tỉ giá, lãi suất; có đội ngũ các nhà quản lý, giao dịch viên chuyên nghiệp, am hiểu thị trường phái sinh.

Ba là, thực tế hiện nay cho thấy, đa phần các TCTD không ưu tiên triển khai loại hợp đồng quyền chọn ngoại tệ do các TCTD và nhà đầu tư ưa thích lựa chọn những giao dịch phổ biến như hợp đồng giao ngay và kỳ hạn.

3.2. Một số kiến nghị

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các TCTD Việt Nam khá giàu tiềm năng phát triển trong tương lai khi tỉ giá chịu nhiều biến động của thị trường. Để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động phái sinh, bài viết đề xuất một số kiến nghị với phía cơ quan quản lý nhà nước và các TCTD như sau:

Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Nghiên cứu chỉnh sửa, bổ sung các thuật ngữ có liên quan đến phái sinh một cách rõ ràng, phù hợp hơn với thực tiễn và thông lệ quốc tế; xây dựng phương án đánh giá sản phẩm phái sinh trên cả hai mặt tích cực và hạn chế, xem xét mở rộng phạm vi thực hiện các công cụ phái sinh…; tăng cường giám sát rủi ro từ xa qua hệ thống thông tin báo cáo của các TCTD và kiểm tra tại chỗ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn rủi ro kinh doanh tiền tệ, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.

Đối với các TCTD: Tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm phái sinh. Các TCTD cũng cần chủ động hơn trong việc kiểm soát rủi ro khi cung ứng, sử dụng các sản phẩm phái sinh, đặc biệt là trong việc đưa ra các quy định nội bộ về kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh. Thêm vào đó, các TCTD cần mở các lớp tập huấn cho cán bộ, nhân viên nhằm nâng cao hiểu biết và học tập kinh nghiệm quốc tế về công cụ phái sinh. Ngoài ra, TCTD cũng cần trang bị thêm phần mềm xử lý, quản lý rủi ro đối với các nghiệp vụ phái sinh; đồng thời, mở rộng quan hệ hợp tác với các TCTD trên thị trường quốc tế để tranh thủ sự tư vấn, hỗ trợ về kiến thức, công nghệ… nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh.

Tài liệu tham khảo:

1. Đỗ Thu Hằng, Nguyễn Thị Thu Trang (2018). Thực trạng cung ứng phái sinh tại các TCTD Việt Nam và một số khuyến nghị. Tạp chí Ngân hàng số 24, 12/2018.

2. NHNN (2015). Thị trường công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam - Những tác động đến phát triển kinh tế và giải pháp về kế toán. https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/sm/chitiet/inbaiviet?dDocName=SBV240652&_afrLoop=627018091228000

3. Nguyễn Trọng Nghiệp, Nguyễn Hoàng Thanh Trúc, Huỳnh Minh Đoàn, Thái Thanh Thu, Nguyễn Thị Ngọc Anh, Lê Thị Xuyến (2018). Thực trạng giao dịch các công cụ phái sinh của các NHTM Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Cửu Long số 11/2018.

4. Trần Quốc Thịnh (2019). Hoàn thiện khung pháp lý về thị trường phái sinh tiền tệ tại các NHTM Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing số 51, 06/2019.

5. Báo cáo tài chính của hợp nhất quý IV/2024 của BIDV và VPBank

6. Một số tài liệu tham khảo khác.

Ngọc Linh
NHNN

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng