Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Chính sách
Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
aa

Tóm tắt: Thông tư số 27/2025/TT-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành ngày 15/9/2025 hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, có hiệu lực từ ngày 01/11/2025 đã đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng trong khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đặt ra khuôn khổ chặt chẽ hơn về phòng, chống rửa tiền thông qua việc mở rộng thủ tục nhận biết khách hàng (KYC), nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo, siết yêu cầu đào tạo định kỳ, tách bạch nội dung phòng, chống rửa tiền trong kiểm toán nội bộ và bổ sung cơ chế báo cáo chi tiết đối với giao dịch chuyển tiền điện tử giá trị lớn. Việc ban hành Thông tư số 27/2025/TT-NHNN không chỉ nhằm tăng cường hiệu quả giám sát và kiểm soát rủi ro trong hệ thống tài chính, mà còn thể hiện cam kết thực chất của Việt Nam trong việc tuân thủ các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF). Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về nâng cao tính minh bạch và an toàn tài chính, các quy định mới cũng sẽ làm gia tăng chi phí tuân thủ, đồng thời tác động trực tiếp tới thanh khoản và chi phí giao dịch của doanh nghiệp cũng như người dân. Bài viết phân tích một số quy định mới đáng chú ý của Thông tư số 27/2025/TT-NHNN, đánh giá tác động khi áp dụng vào thực tiễn, từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách.

Từ khóa: Thông tư số 27/2025/TT-NHNN; phòng, chống rửa tiền; an toàn tài chính.

IMPLEMENTING CIRCULAR NO. 27/2025/TT-NHNN TOWARDS INTERNATIONAL STANDARDS ON ANTI-MONEY LAUNDERING IN VIETNAM

Abstract: Circular No. 27/2025/TT-NHNN, issued by the Governor of the State Bank of Vietnam on September 15, 2025, to guide the implementation of several provisions of the Law on Anti-Money Laundering, and effective from November 1, 2025, marks an important adjustment in Vietnam’s legal framework on anti-money laundering. The Circular establishes a stricter anti-money laundering framework by expanding know your customer (KYC) procedures, strengthening the responsibilities of senior management, tightening requirements for periodic training, separating anti-money laundering content in internal audits, and introducing detailed reporting mechanisms for large-value electronic fund transfers. The issuance of Circular No. 27/2025/TT-NHNN not only aims to enhance the effectiveness of supervision and risk control in the financial system but also reflects Vietnam’s substantive commitment to complying with the recommendations of the Financial Action Task Force (FATF). However, alongside the benefits of improving transparency and financial safety, the new regulations will also increase compliance costs and directly affect the liquidity and transaction costs of businesses as well as individuals. This article analyzes several key new provisions of Circular No. 27/2025/TT-NHNN, assesses practical impacts, and proposes a number of policy recommendations.

Keywords: Circular No. 27/2025/TT-NHNN; anti-money laundering; financial safety.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Một số quy định mới tại Thông tư số 27/2025/TT-NHNN

1.1. Quy định về quy trình KYC đối với giao dịch vãng lai

Theo quy định hiện hành, các tổ chức tài chính có nghĩa vụ thực hiện quy trình KYC ngay cả trong trường hợp khách hàng không có tài khoản hoặc không phát sinh giao dịch thường xuyên, nếu trong một ngày tổng giá trị các giao dịch nộp, rút hoặc chuyển tiền đạt từ 400 triệu đồng trở lên. Cụ thể, Điều 6 Thông tư số 27/2025/TT-NHNN quy định: Đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo giao dịch có giá trị lớn theo khoản 1 Điều 25 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022. Báo cáo được gửi cho Cục Phòng, chống rửa tiền, NHNN dưới hình thức dữ liệu điện tử theo quy định tại khoản 1 Điều 10; trong trường hợp chưa kết nối được với hệ thống điện tử, tổ chức báo cáo phải nộp báo cáo bằng văn bản giấy theo mẫu tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư này.

Đáng chú ý, Thông tư số 27/2025/TT-NHNN bổ sung quy định: Các giao dịch tiền mặt được thực hiện thông qua máy nộp, rút tiền tự động hoặc máy giao dịch tự động cũng thuộc diện phải báo cáo. Đối với trường hợp khách hàng nộp ngoại tệ tiền mặt có giá trị lớn để mua đồng Việt Nam, hoặc nộp đồng Việt Nam tiền mặt có giá trị lớn (từ 400 triệu đồng trở lên1) để mua ngoại tệ tiền mặt, tổ chức tài chính chỉ phải báo cáo giao dịch nộp tiền mặt. Như vậy, so sánh với Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền trước đây, Thông tư này chỉ quy định nghĩa vụ báo cáo giao dịch có giá trị lớn theo mẫu Phụ lục I và chưa đề cập giao dịch qua máy nộp, rút hoặc máy giao dịch tự động, trong khi đó, Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đã mở rộng phạm vi, bao quát cả những giao dịch được thực hiện thông qua kênh giao dịch điện tử, góp phần siết chặt hơn cơ chế phòng, chống rửa tiền.

1.2. Quy định về trách nhiệm quản lý cấp cao

Theo Thông tư số 27/2025/TT-NHNN mỗi tổ chức phải phân công một quản lý cấp cao hoặc người được ủy quyền chịu trách nhiệm trực tiếp về công tác phòng, chống rửa tiền. Việc phân công này không còn mang tính hình thức hay trách nhiệm chung như trước mà đòi hỏi tổ chức tùy theo quy mô để thành lập bộ phận chuyên trách hoặc chỉ định cá nhân cụ thể. Khoản 9 Điều 5 Thông tư này quy định người được phân công gọi là “người chịu trách nhiệm về phòng, chống rửa tiền” có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong phạm vi tổ chức. Đây là điểm mới quan trọng, bởi lần đầu tiên văn bản dưới luật xác lập vai trò “người quản lý cấp cao” trong cơ chế phòng, chống rửa tiền, trong khi Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 cũng chưa đưa ra khái niệm hay quy định về vị trí này. Quy định mới cho thấy xu hướng nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hệ thống quản trị rủi ro về rửa tiền, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để gắn trách nhiệm trực tiếp của cấp quản lý với hiệu quả triển khai công tác phòng, chống rửa tiền tại từng tổ chức.

1.3. Quy định về đào tạo nhân sự bắt buộc

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đặt ra yêu cầu chặt chẽ đối với việc tuyển dụng và đào tạo nhân sự nhằm bảo đảm hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền. Theo đó, trong vòng 6 tháng kể từ ngày tuyển dụng, nhân viên mới phải hoàn thành khóa đào tạo kiến thức cơ bản về phòng, chống rửa tiền để đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm. Đồng thời, lãnh đạo và các nhân sự có liên quan có trách nhiệm tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng định kỳ hằng năm nhằm cập nhật kịp thời các phương thức, thủ đoạn rửa tiền mới. Khoản 9 Điều 5 Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhấn mạnh: Quy trình tuyển dụng phải bao gồm nội dung nhận diện, lựa chọn nhân sự phù hợp với yêu cầu chuyên môn; đồng thời bảo đảm việc đào tạo bắt buộc trong thời hạn quy định. Quy định này không chỉ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn tăng cường tính bền vững của hệ thống kiểm soát nội bộ, góp phần củng cố năng lực phòng, chống rửa tiền tại từng tổ chức.

1.4. Quy định liên quan đến kiểm toán nội bộ về phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN quy định nội dung phòng, chống rửa tiền phải được lồng ghép thành một phần riêng biệt trong báo cáo kiểm toán nội bộ hằng năm. Báo cáo này phải được gửi đến cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm tài chính. Cụ thể, theo điểm c khoản 10 Điều 5 Thông tư quy định:

(i) Đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng phải gửi báo cáo kiểm toán nội bộ về phòng, chống rửa tiền cho Cục Phòng, chống rửa tiền, NHNN;

(ii) Các đối tượng báo cáo hoạt động trong lĩnh vực khác phải gửi báo cáo cho bộ, ngành quản lý nhà nước theo lĩnh vực;

(iii) Trường hợp đối tượng báo cáo không phải thực hiện kiểm toán nội bộ hằng năm theo quy định pháp luật, báo cáo về phòng, chống rửa tiền vẫn phải được lập và gửi cho cơ quan có thẩm quyền đối với những năm được kiểm toán. Quy định này cho thấy nỗ lực siết chặt trách nhiệm kiểm soát nội bộ trong công tác phòng, chống rửa tiền, đồng thời bảo đảm cơ quan quản lý nhà nước có được nguồn thông tin định kỳ, đầy đủ và có hệ thống để đánh giá hiệu quả tuân thủ của các tổ chức.

1.5. Chế độ báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử

Theo Điều 9 Thông tư số 27/2025/TT-NHNN, các giao dịch chuyển tiền điện tử phải được báo cáo bằng dữ liệu điện tử khi đạt đến ngưỡng giá trị quy định, cụ thể: Giao dịch điện tử trong nước từ 500 triệu đồng trở lên; giao dịch điện tử quốc tế từ 1.000 USD hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương trở lên. Báo cáo phải thể hiện đầy đủ các thông tin liên quan, bao gồm: Tổ chức tài chính khởi tạo/thụ hưởng, khách hàng cá nhân hoặc tổ chức, số tài khoản, giá trị quy đổi, mục đích và lý do giao dịch, cũng như mã tham chiếu duy nhất. Ngoài ra, các giao dịch có dấu hiệu đáng ngờ cũng thuộc diện phải báo cáo, bất kể giá trị. Trách nhiệm thực hiện báo cáo thuộc về các tổ chức tài chính có liên quan, điển hình là ngân hàng thương mại và các đơn vị trung gian thanh toán. Quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động thanh toán, đồng thời tăng cường khả năng phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi rửa tiền qua kênh điện tử.

1.6. Quy định về mẫu báo cáo và yêu cầu lưu trữ

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN ban hành các phụ lục kèm theo về mẫu báo cáo giao dịch có giá trị lớn và giao dịch đáng ngờ theo từng lĩnh vực, đồng thời hướng dẫn cụ thể việc kê khai với hải quan đối với một số loại tài sản. Theo Điều 11 Thông tư số 27/2025/TT-NHNN, cá nhân khi xuất cảnh, nhập cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam tiền mặt, kim khí quý, đá quý hoặc công cụ chuyển nhượng đạt ngưỡng giá trị từ 400 triệu đồng trở lên phải thực hiện khai báo hải quan và xuất trình giấy tờ theo quy định. Trong đó: Kim khí quý (trừ vàng) bao gồm bạc, bạch kim, đồ mỹ nghệ và trang sức bằng bạc hoặc bạch kim, cũng như các hợp kim chứa bạc, bạch kim; đá quý bao gồm kim cương, ruby, saphia và ê-mơ-rốt; công cụ chuyển nhượng có giá trị từ 400 triệu đồng trở lên. Quy định này vừa bảo đảm tính minh bạch trong lưu thông, vừa góp phần kiểm soát rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố qua biên giới.

2. Ý nghĩa chiến lược của Thông tư số 27/2025/TT-NHNN trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Việc NHNN ban hành Thông tư số 27/2025/TT-NHNN siết chặt khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền không chỉ nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật trong nước, mà còn thể hiện rõ cam kết thực chất của Việt Nam trong việc triển khai các khuyến nghị của FATF. Thông qua việc nâng cao chuẩn mực quản trị và cơ chế giám sát, Việt Nam có thể giảm thiểu nguy cơ bị đưa vào danh sách giám sát tăng cường (greylist) hoặc danh sách không hợp tác (blacklist) là những yếu tố vốn tiềm ẩn rủi ro làm tăng chi phí giao dịch xuyên biên giới và hạn chế dòng vốn quốc tế. Ngược lại, việc tuân thủ chuẩn mực quốc tế giúp củng cố lòng tin của cộng đồng tài chính toàn cầu, cải thiện môi trường hợp tác quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Qua đó, Thông tư số 27/2025/TT-NHNN không chỉ đóng vai trò trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền, mà còn góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trong hệ thống tài chính toàn cầu. Đây cũng là định hướng chiến lược mà Chính phủ và NHNN nhất quán theo đuổi trong tiến trình hội nhập quốc tế.

3. Thông tư số 27/2025/TT-NHNN trong tương quan với chuẩn mực quốc tế

Bên cạnh ý nghĩa chiến lược trong việc khẳng định cam kết tuân thủ của Việt Nam, Thông tư số 27/2025/TT-NHNN cũng cần được đặt trong tương quan với thông lệ quốc tế. Nội dung của Thông tư này có nhiều điểm tiệm cận chuẩn mực toàn cầu về phòng, chống rửa tiền. FATF đã khuyến nghị các quốc gia hạ ngưỡng giao dịch phải báo cáo, tăng cường áp dụng báo cáo điện tử và gắn trách nhiệm trực tiếp của cấp quản lý cao nhất đối với công tác tuân thủ2. Thông tư số 27/2025/TT-NHNN phản ánh rõ xu hướng này, song Việt Nam vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt ở việc bảo đảm tính độc lập của bộ phận tuân thủ và xây dựng cơ chế bảo vệ người tố giác vi phạm nội bộ, nhằm tiến gần hơn tới chuẩn mực quốc tế.

Trong khi đó, Liên minh châu Âu (EU), thông qua Chỉ thị AMLD53, đã quy định ngưỡng báo cáo giao dịch tiền mặt từ 10.000 EUR trở lên và mở rộng phạm vi báo cáo sang nhiều lĩnh vực phi tài chính có rủi ro cao như nghệ thuật, kế toán và dịch vụ pháp lý độc lập. Đây là những điểm tham chiếu quan trọng mà Việt Nam có thể cân nhắc trong giai đoạn tới để mở rộng phạm vi đối tượng báo cáo.

Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Bảo mật Ngân hàng (Bank Secrecy Act - BSA) yêu cầu báo cáo các giao dịch tiền mặt từ 10.000 USD trở lên và áp dụng chế tài nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm. So với cách tiếp cận cứng rắn này, Việt Nam hiện chủ yếu tập trung vào việc nâng cao năng lực giám sát, hỗ trợ các tổ chức báo cáo và khuyến khích tuân thủ, thay vì áp dụng biện pháp chế tài mạnh.

4. Một số thách thức khi áp dụng Thông tư số 27/2025/TT-NHNN

4.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đặt ra những yêu cầu mới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đối với các cơ quan quản lý nhà nước bao gồm Cục Phòng, chống rửa tiền, NHNN và các cơ quan thực thi như hải quan, công an, thuế. Cụ thể:

(i) Việc hạ thấp ngưỡng giao dịch phải báo cáo và mở rộng phạm vi bao quát (giao dịch có giá trị lớn, giao dịch điện tử, giao dịch đáng ngờ) sẽ làm khối lượng dữ liệu báo cáo gửi cơ quan quản lý tăng cao. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng lực phân tích, triển khai công cụ cảnh báo sớm và tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành.

(ii) Quy định về báo cáo điện tử với cấu trúc dữ liệu và mã tham chiếu thống nhất buộc NHNN xây dựng chuẩn định dạng, giao diện lập trình ứng dụng (API) và cơ chế truyền nhận bảo đảm khả năng xử lý tự động, chính xác. Đồng thời, bảo mật dữ liệu khách hàng và thông tin tài chính phải được coi là ưu tiên trọng yếu.

(iii) Sự gia tăng về số lượng và độ phức tạp của báo cáo đặt ra nhu cầu bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là chuyên viên phân tích tài chính, điều tra dòng tiền và chuyên gia công nghệ dữ liệu. Ngoài ra, việc phối hợp chặt chẽ với hải quan, biên phòng và các cơ quan chức năng là cần thiết để kiểm soát hoạt động xuất nhập cảnh mang theo ngoại tệ, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng có giá trị lớn.

4.2. Đối với ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN tác động đến các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trên nhiều phương diện, từ chi phí tuân thủ đến quy trình vận hành và trải nghiệm khách hàng.

(i) Các ngân hàng buộc phải đầu tư đáng kể vào hạ tầng công nghệ thông tin nhằm triển khai hệ thống báo cáo điện tử, tích hợp chức năng kiểm tra danh sách đen, danh sách cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP), thiết lập quy tắc nhận diện giao dịch và giám sát theo thời gian thực. Điều này không chỉ làm tăng chi phí đầu tư ban đầu mà còn kéo theo chi phí vận hành lâu dài, bao gồm duy trì nhân sự, kiểm toán và cập nhật định kỳ.

(ii) Việc hạ ngưỡng KYC đối với khách hàng vãng lai và yêu cầu báo cáo giao dịch điện tử nội địa từ mức 500 triệu đồng làm gia tăng đột biến khối lượng báo cáo. Với thời hạn báo cáo ngắn trước 16h ngày làm việc tiếp theo, các ngân hàng phải tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và tăng cường phối hợp nội bộ nhằm bảo đảm tính kịp thời và chính xác.

(iii) Yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết đối với các giao dịch lớn, đặc biệt với khách hàng vãng lai, có thể tạo ra những trở ngại trong quá trình giao dịch, gây chậm trễ và làm giảm sự thuận tiện. Điều này tiềm ẩn nguy cơ khách hàng chuyển sang các kênh giao dịch thay thế ít bị kiểm soát hơn. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, thách thức lớn đối với các ngân hàng là duy trì cân bằng giữa tuân thủ pháp luật, bảo đảm trải nghiệm khách hàng tích cực và giữ vững thanh khoản trong hoạt động kinh doanh.

4.3. Đối với doanh nghiệp phi tài chính

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN lần đầu tiên đặt ra những yêu cầu rõ ràng và chi tiết đối với doanh nghiệp phi tài chính thuộc diện phải báo cáo, bao gồm bất động sản, luật, kế toán, trò chơi có thưởng và các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện khác. Những quy định này mang lại một số thách thức đáng kể sau:

(i) Thiếu nền tảng nhận thức và năng lực tuân thủ: Phần lớn doanh nghiệp phi tài chính chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác phòng, chống rửa tiền. Việc phải thiết lập quy trình nội bộ, xây dựng hệ thống lưu trữ và báo cáo giao dịch khiến nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là quy mô vừa và nhỏ, gặp khó khăn trong giai đoạn đầu triển khai.

(ii) Gia tăng chi phí vận hành và rủi ro pháp lý: Các yêu cầu báo cáo chi tiết theo phụ lục riêng của từng ngành buộc doanh nghiệp phải đầu tư nguồn lực đáng kể cho công nghệ, nhân sự và kiểm toán nội bộ. Trong khi đó, nếu không bảo đảm tính chính xác, đầy đủ và kịp thời, doanh nghiệp có thể đối mặt với chế tài xử phạt hoặc bị coi là không tuân thủ.

(iii) Áp lực phối hợp với ngân hàng và tổ chức tài chính: Để bảo đảm minh bạch giao dịch, doanh nghiệp phi tài chính cần cung cấp hồ sơ và thông tin bổ sung theo yêu cầu từ phía ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế, sự thiếu đồng bộ về hệ thống quản trị và dữ liệu giữa doanh nghiệp và tổ chức tài chính có thể làm phát sinh chậm trễ, gây gián đoạn dòng giao dịch và ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp.

5. Một số kiến nghị chính sách nhằm bảo đảm thực thi hiệu quả Thông tư số 27/2025/TT-NHNN

Những tác động nêu trên cho thấy Thông tư số 27/2025/TT-NHNN vừa đặt ra áp lực tuân thủ, vừa mở ra cơ hội nâng cao chuẩn mực quản trị rủi ro. Để bảo đảm việc triển khai đi vào thực chất và hạn chế tác động tiêu cực, cần thiết phải có các giải pháp chính sách phù hợp cho từng nhóm đối tượng. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm hỗ trợ cơ quan quản lý, tổ chức tài chính và doanh nghiệp phi tài chính thực hiện hiệu quả các quy định mới như sau:

5.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước

Một là, triển khai hạ tầng báo cáo dữ liệu điện tử chuẩn hóa. NHNN cần kịp thời xây dựng và đưa vào vận hành cổng báo cáo tập trung với chuẩn định dạng dữ liệu, API và hướng dẫn kỹ thuật chi tiết. Đồng thời, việc thiết lập cơ chế sandbox cho phép các tổ chức báo cáo thử nghiệm trước ngày 01/01/2026 là cần thiết, nhằm bảo đảm hệ thống quét, lọc và giám sát giao dịch hoạt động ổn định khi chính thức áp dụng. Đồng thời, để tránh tạo gánh nặng quá mức và bảo đảm tính đồng bộ trong toàn hệ thống, NHNN cần ban hành bộ mẫu kết nối, cung cấp công cụ lọc cơ bản và tài liệu hướng dẫn thực hành. Cơ chế hỗ trợ này sẽ giúp giảm chi phí triển khai cho các tổ chức quy mô hạn chế, đồng thời nâng cao mức độ tuân thủ chung, hạn chế nguy cơ đứt gãy trong chuỗi giám sát.

Hai là, tăng cường phối hợp liên ngành trong xử lý thông tin. Cần thiết lập cơ chế phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa Cục Phòng, chống rửa tiền, NHNN với cơ quan hải quan, công an và cơ quan thuế. Trọng tâm là phân loại và xử lý nhanh các báo cáo giao dịch đáng ngờ, qua đó nâng cao hiệu quả giám sát và giảm thiểu rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố trong thực tiễn.

5.2. Đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính

Một là, tập trung đầu tư và tối ưu hóa hạ tầng giám sát giao dịch. Các tổ chức cần ưu tiên xây dựng hoặc thuê ngoài hệ thống công nghệ có khả năng tự động nhận diện và xử lý giao dịch tại các ngưỡng trọng yếu (400 triệu đồng, 500 triệu đồng, 1.000 USD). Hệ thống phải tích hợp đồng bộ chức năng quét danh sách đen, danh sách PEP và cơ chế cảnh báo sớm, nhằm tăng cường khả năng phát hiện, ngăn chặn giao dịch rủi ro trong thời gian thực.

Hai là, nâng cao năng lực nhân sự thông qua đào tạo chuyên sâu. Cần thiết lập chương trình đào tạo chuẩn hóa, nhân viên mới bắt buộc hoàn thành khóa học cơ bản về phòng, chống rửa tiền trong vòng 6 tháng kể từ ngày tuyển dụng; đồng thời duy trì các khóa bồi dưỡng định kỳ cho lãnh đạo và nhân viên chủ chốt. Nội dung đào tạo tập trung vào cập nhật xu hướng rửa tiền mới, phương thức giám sát nâng cao và các thay đổi pháp lý, bảo đảm đội ngũ có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe.

Ba là, điều chỉnh quy trình KYC theo hướng quản trị rủi ro. Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính cần rà soát toàn bộ quy trình KYC, áp dụng nguyên tắc phân loại rủi ro để vừa tuân thủ quy định, vừa giảm thiểu gián đoạn trong giao dịch. Biện pháp giảm nhẹ có thể được áp dụng đối với nhóm khách hàng rủi ro thấp theo khuôn khổ quy định pháp luật, giúp cân bằng giữa yêu cầu tuân thủ pháp lý và duy trì trải nghiệm khách hàng tích cực.

5.3. Đối với doanh nghiệp phi tài chính

Một là, nâng cao nhận thức và hoàn thiện cơ chế quản trị nội bộ. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, luật, kế toán, trò chơi có thưởng và các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện khác cần chủ động rà soát, điều chỉnh quy trình nội bộ liên quan đến phòng, chống rửa tiền. Việc triển khai chương trình đào tạo cho nhân sự, kết hợp với thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát phù hợp, sẽ giúp doanh nghiệp vừa tuân thủ quy định pháp lý, vừa giảm thiểu rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh.

Hai là, tăng cường hợp tác với ngân hàng và tổ chức tài chính. Doanh nghiệp phi tài chính cần duy trì phối hợp chặt chẽ với ngân hàng và các tổ chức tài chính trong việc cung cấp thông tin, hồ sơ khi có yêu cầu, bảo đảm giao dịch được xử lý minh bạch và thông suốt. Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đã ban hành các phụ lục báo cáo riêng theo từng nhóm ngành, do đó doanh nghiệp phi tài chính phải chuẩn bị nguồn lực và hệ thống để triển khai thống nhất, tránh nguy cơ bị coi là không tuân thủ.

6. Kết luận

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Văn bản này không chỉ nâng chuẩn quản trị nội bộ của các tổ chức tài chính, mở rộng phạm vi nhận biết khách hàng và siết chặt chế độ báo cáo giao dịch điện tử, mà còn thể hiện rõ cam kết của Việt Nam trong việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, qua đó củng cố sự an toàn và minh bạch của hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, để Thông tư này phát huy hiệu quả thực chất mà không tạo ra những tác động tiêu cực ngoài ý muốn đối với hoạt động kinh tế, cần thiết phải có một lộ trình triển khai hợp lý về kỹ thuật và tài chính, đặc biệt là cơ chế hỗ trợ dành cho các tổ chức nhỏ. Đồng thời, năng lực hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực phân tích dữ liệu của cơ quan quản lý cũng cần được tăng cường tương xứng. Sự phối hợp đồng bộ giữa NHNN, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp là yếu tố then chốt để vừa bảo đảm tuân thủ, vừa giảm thiểu tác dụng phụ, từ đó đạt được mục tiêu kép: Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tài chính và duy trì sự ổn định của nền kinh tế.

1 Điều 3 Quyết định số 11/2023/QĐ-TTg ngày 27/4/2023 xác định ngưỡng giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo là từ 400 triệu đồng trở lên.

2 FATF (2023), International standards on combating money laundering and the financing of terrorism & proliferation: The FATF Recommendations.

3 Chỉ thị (EU) 2018/843 - thường gọi là AMLD5 (the Fifth Anti-Money Laundering Directive). Đây là văn bản pháp lý của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu, ban hành ngày 30/5/2018, sửa đổi Chỉ thị (EU) 2015/849.

Tài liệu tham khảo

1. Quyết định số 11/2023/QĐ-TTg ngày 27/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ quy định ngưỡng giá trị giao dịch phải báo cáo trong phòng, chống rửa tiền.

2. Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.

3. Thông tư số 27/2025/TT-NHNN ngày 01/11/2025 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.

4. Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 (Luật số 14/2022/QH15).

5. FATF (2023), International standards on combating money laundering and the financing of terrorism & proliferation: The FATF Recommendations.

6. International Monetary Fund (2021), Global financial stability report: Covid-19, crypto, and climate.

7. World Bank (2020), Enhancing financial integrity: The role of anti-money laundering and combating the financing of terrorism (AML/CFT) frameworks.

8. European Union (2018), Directive (EU) 2018/843 of the European Parliament and of the Council of 30 May 2018 amending Directive (EU) 2015/849 on the prevention of the use of the financial system for the purposes of money laundering or terrorist financing, and amending Directives 2009/138/EC and 2013/36/EU (AMLD5).

9. U.S. Department of the Treasury (2020), Bank Secrecy Act (BSA) regulations and guidance.

Huyền Hạnh
NHNN

Tin bài khác

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Khảo sát nội dung quy định về áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp đến nay cho thấy, đã có sự thay đổi trong tiếp cận và quy định việc áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan. Sự thay đổi này đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng, TCTD và khách hàng sẽ áp dụng luật này, trong tư cách là luật được ban hành sau. Tuy nhiên, Luật số 32/2024/QH15 có phạm vi điều chỉnh rộng...
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Xem thêm
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô