Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Chính sách
Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích song đề chính sách trong thị trường bất động sản Việt Nam giữa hai mục tiêu: Ổn định tín dụng và bảo đảm công bằng xã hội. Dựa trên nền tảng lý thuyết kinh tế học cổ điển và phúc lợi, nghiên cứu chỉ ra rằng, việc siết cho vay mua nhà thứ hai tuy giúp giảm rủi ro hệ thống, nhưng đồng thời làm suy giảm thanh khoản và gia tăng bất bình đẳng tài chính. Thị trường nhà ở vì thế trở thành một bài toán tối ưu có ràng buộc, nơi hiệu quả và công bằng cần được dung hòa trong giới hạn hiện thực của nền kinh tế. Qua đó, bài viết đề xuất hướng tiếp cận “điều tiết cân bằng”, kết hợp công cụ tín dụng có chọn lọc, thuế tài sản và chính sách nhà ở xã hội, nhằm đạt được sự hài hòa giữa “bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn tay hữu hình” của Nhà nước.

Từ khóa: Song đề chính sách; ổn định tín dụng; công bằng xã hội; thị trường bất động sản.

POLICY DILEMMA IN THE REAL ESTATE MARKET - CREDIT STABILITY AND SOCIAL EQUITY

Abstract: The article analyzes the policy dilemma in the Vietnamese real estate market between two goals: Credit stability and social equity. Based on the foundation of classical and welfare economic theory, the study shows that, although tightening second home loans helps reduce systemic risk, it also reduces liquidity and increases financial inequality. The housing market thus becomes a constrained optimization problem, where efficiency and equity need reconciling within the realistic limits of the economy. The article proposes a “balanced regulation” approach, combining selective credit instruments, property taxes and social housing policies, in order to achieve harmony between the “invisible hand” of the market and the “visible hand” of the State.

Keywords: Policy dilemma; credit stability; social justice; real estate market.

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội
Ảnh: Trần Hiền

1. Đặt vấn đề

Từ sau năm 2022, khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, Việt Nam đã chứng kiến sự hạ nhiệt rõ rệt của thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách (policy dilemma) trong quản lý kinh tế thị trường: Làm sao vừa ổn định hệ thống tài chính, vừa bảo đảm khả năng tiếp cận nhà ở cho người dân, đặc biệt cho người có thu nhập trung bình.

2. Song đề chính sách trong thị trường bất động sản

2.1. Cơ sở kinh tế học của song đề chính sách - Kiểm soát và khuyến khích

Theo Ricardo (1817), giá trị đất đai và lợi tức từ bất động sản phản ánh sự khan hiếm tự nhiên của tài nguyên và vị thế địa lý, nên việc can thiệp hành chính vào tín dụng nhà ở thường chỉ làm méo mó các tín hiệu giá cả. Nếu cung đất và quy hoạch không được mở rộng tương ứng, thì việc siết tín dụng chỉ làm giảm thanh khoản mà không thể kéo giá nhà xuống mức cân bằng mới. Thị trường bất động sản chịu tác động đồng thời của hai nhóm động lực: động lực đầu tư (investment motive) và động lực tiêu dùng (consumption motive) (Smith, 1776; Ricardo, 1817). Khi Nhà nước áp dụng chính sách tín dụng thắt chặt - đặc biệt với người mua nhà thứ hai - nhằm hạn chế đầu cơ, hệ thống tài chính được bảo vệ khỏi "bong bóng" bất động sản, nhưng đồng thời, dòng vốn phát triển nhà ở đã bị chặn lại.

Ngược lại, nếu nới lỏng tín dụng, cung nhà ở có thể tăng và thúc đẩy các ngành sản xuất có liên quan - đúng theo luận điểm “cung tạo ra cầu” của Say (1803), song nguy cơ đầu cơ và bất bình đẳng tài sản lại tăng (Minsky, 1986). Vì vậy, chính sách tín dụng trong lĩnh vực bất động sản luôn ở thế tiến thoái lưỡng nan: Nếu thắt chặt thì thị trường nguội lạnh; còn nếu nới lỏng thì thị trường bùng phát.

2.2. Về khía cạnh phân phối và công bằng xã hội

Ở bình diện xã hội, song đề trở nên sâu sắc hơn. Việc siết tín dụng không kéo giá nhà cao cấp xuống đủ để người thu nhập thấp mua được, bởi giá đó phản ánh chi phí đất đai, quy hoạch và cấu trúc cầu của nhóm thu nhập cao.

Theo quan điểm kinh tế học phúc lợi (Pigou, 1920; Musgrave, 1959), giá nhà cao không phải là “vấn đề đạo đức”, mà là hệ quả của phân khúc thị trường. Nỗ lực “bình dân hóa” bằng biện pháp hành chính sẽ làm méo mó tín hiệu giá và giảm hiệu quả phân bổ nguồn lực. Cũng theo Pigou (1920), phúc lợi xã hội tối ưu đạt được khi các tác động ngoại lai được nội hóa thông qua thuế hoặc trợ cấp, chứ không phải bằng cách hạn chế giao dịch. Trong trường hợp thị trường nhà ở, thay vì siết tín dụng mua nhà thứ hai, Nhà nước có thể điều tiết hành vi đầu cơ thông qua thuế tài sản lũy tiến, còn tín dụng nên được điều tiết theo rủi ro thực của từng nhóm người vay.

Giải pháp mang tính phúc lợi phải dựa vào chính sách song hành: Phát triển nhà ở xã hội, tín dụng ưu đãi cho người mua nhà lần đầu, và sử dụng thuế bất động sản như công cụ tái phân phối (Stiglitz, 2015). Như vậy, Chính phủ nên tách biệt mục tiêu ổn định thị trường và mục tiêu công bằng xã hội, tránh việc một chính sách “ôm” hai mục tiêu trái hướng.

2.3. Song đề và rủi ro đạo đức

Trong khung phân tích kinh tế học hiện đại, song đề này có thể được diễn đạt như một đánh đổi (trade-off) giữa hiệu quả (efficiency) và công bằng (equity) dưới các ràng buộc của cân bằng vĩ mô (macro-equilibrium constraints). Việc siết tín dụng làm giảm rủi ro hệ thống (systemic risk) nhưng tạo ra một hình thức rủi ro đạo đức (moral hazard) khác: Doanh nghiệp bất động sản nhỏ mất khả năng tiếp cận vốn, trong khi nhà đầu tư lớn - vốn có tài sản thế chấp mạnh - lại duy trì được lợi thế.

Kết quả là, sự bất bình đẳng tài chính nội tại của thị trường càng gia tăng, dù mục tiêu ban đầu là công bằng. Đây chính là “nghịch lý của ổn định” mà Minsky (1986) đã mô tả: Càng cố gắng làm cho hệ thống ổn định, hệ thống càng dễ tổn thương từ bên trong.

Các kinh nghiệm của Hàn Quốc, Singapore hay Trung Quốc trong hai thập kỷ qua cho thấy, không nền kinh tế nào có thể đơn thuần dựa vào “thắt” hoặc “nới” mà giải quyết bài toán nhà ở. Những quốc gia này thành công hơn khi họ phân tầng chính sách: Vừa duy trì tín dụng thương mại với mức lãi suất thị trường, vừa có hệ thống tín dụng xã hội tách biệt dành riêng cho nhóm thu nhập thấp, được bảo đảm bởi quỹ nhà ở công.

3. Các hàm ý chính sách và kết luận

Bài học của nhiều nền kinh tế mới nổi cho thấy, khi đối diện với song đề tín dụng - giá nhà, chính phủ nên chuyển từ tư duy “kiểm soát” sang “điều tiết cân bằng”. Nhà nước có thể dùng công cụ tín dụng có chọn lọc để ngăn đầu cơ ngắn hạn, nhưng đồng thời bảo đảm kênh vốn cho phát triển nhà ở xã hội, nhà giá hợp lý. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể bổ sung chính sách thuế tài sản để điều tiết nhu cầu tích trữ bất động sản dài hạn (OECD, 2022).

Những chính sách như vậy cho phép thị trường giữ vai trò định giá, còn Nhà nước giữ vai trò hiệu chỉnh - đúng theo tinh thần “bàn tay vô hình được soi sáng bởi bàn tay hữu hình” (Samuelson, 1948; Stilitz, 1994).

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản Việt Nam phản ánh giới hạn tự nhiên của mọi nền kinh tế thị trường: Không thể cùng lúc đạt được sự ổn định tài chính tuyệt đối và sự công bằng xã hội hoàn hảo. Do đó, thay vì cố gắng “kéo giá xuống”, Nhà nước cần hướng đến thiết kế thể chế song song, trong đó mỗi công cụ chính sách có mục tiêu riêng, tương hỗ nhưng không chồng chéo. Vì vậy, chính sách siết chặt tín dụng đối với bất động sản, đối với căn nhà thứ hai không nên được diễn giải như một lựa chọn nhị nguyên giữa đúng và sai, mà như một bài toán tối ưu có ràng buộc, trong đó các mục tiêu về hiệu quả và công bằng xã hội phải được dung hòa trong giới hạn của các điều kiện kinh tế thực chứng.

Tài liệu tham khảo:

1. Minsky, H. P. (1986), Stabilizing an unstable economy, Yale University Press.

2. Musgrave, R. A. (1959), The theory of public finance: A study in public economy, McGraw-Hill.

3. OECD (2022), Housing and inclusive growth, OECD Publishing.

4. Pigou, A. C. (1920), The economics of welfare, Macmillan.

5. Ricardo, D. (1817), On the principles of political economy and taxation, John Murray.

6. Samuelson, P. A. (1948), Economics: An introductory analysis, McGraw-Hill.

7. Say, J.-B. (1803), Traité d’économie politique, Deterville.

8. Smith, A. (1776), An inquiry into the nature and causes of the wealth of nations, W. Strahan and T. Cadell.

9. Stiglitz, J. E. (1994), Whither socialism?, MIT Press.

10. Stiglitz, J. E. (2015), The great divide: Unequal societies and what we can do about them, W. W. Norton & Company.

PGS., TS. Trương Quang Thông
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

Tin bài khác

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô