
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu
Tóm tắt: Giai đoạn 2021 - 2024 và các tháng đầu năm 2025, kinh tế Việt Nam trải qua những biến động chưa từng có tiền lệ: Tác động kéo dài của đại dịch Covid-19, căng thẳng địa chính trị, xu hướng phân mảnh thương mại - đầu tư, cùng áp lực lạm phát và biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được sự phục hồi tích cực, cho thấy sức chống chịu và khả năng thích ứng đáng kể của nền kinh tế. Tuy vậy, đằng sau các tín hiệu khả quan là những thách thức lớn về năng suất, đầu tư, ổn định vĩ mô và năng lực cạnh tranh. Bước sang giai đoạn tới, triển vọng tăng tốc tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào khả năng củng cố nền tảng vĩ mô, tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và xử lý tốt các rủi ro từ môi trường kinh tế toàn cầu... Bài viết đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2021 - 2024, nhận diện một số động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế cũng như rủi ro, thách thức và triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, triển vọng tăng trưởng, rủi ro toàn cầu.
THE SOLUTIONS TO PROMOTE VIETNAM’S ECONOMIC GROWTH AMID GLOBAL UNCERTAINTY
Abstract: In the 2021 - 2024 period and the first months of 2025, Vietnam's economy experienced unprecedented fluctuations: The prolonged impact of the Covid-19 pandemic, geopolitical tensions, the trend of trade - investment fragmentation, along with inflationary pressure and climate change. In that context, Vietnam's economic growth still maintained a positive recovery, showing the economy's remarkable resilience and adaptability. However, behind the positive signals are major challenges in productivity, investment, macroeconomic stability and competitiveness. Moving into the next period, Vietnam's growth acceleration prospects depend largely on the ability to consolidate the macro foundation, utilize free trade agreements, promote innovation, and handle risks from the uncertain global economic environment. This article assesses the current state of Vietnam's economic growth in the period 2021 - 2024, identifies key drivers of economic growth as well as risks, challenges and prospects for Vietnam's economic growth in the coming time.
Keywords: Economic growth, growth prospects, global risks.
1. Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 và các động lực tăng trưởng kinh tế
1.1. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025
Giai đoạn 2021 - 2025, kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Bối cảnh kinh tế toàn cầu diễn ra không thuận lợi, phức tạp, khó đoán định với nhiều vấn đề ngoài tầm dự báo như đại dịch Covid-19, suy thoái kinh tế và căng thẳng địa chính trị leo thang, kéo dài ở nhiều nơi như Nga - Ukraine, Trung Đông; các căng thẳng thương mại và xu hướng đẩy mạnh bảo hộ nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, xu hướng dịch chuyển tiêu dùng vào nội địa… của nhiều nền kinh tế lớn đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế có độ mở lớn và dựa nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam. Cùng với đó, việc định hình và đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đẩy mạnh phát triển kinh tế số, đổi mới sáng tạo và kinh tế xanh… đã tạo sức ép lớn, đòi hỏi nước ta cần có sự đổi mới, cải cách mạnh mẽ hơn nữa. Trong nước, nền kinh tế phải đối mặt với các khó khăn, thách thức lớn từ chất lượng tăng trưởng, biến đổi khí hậu, già hóa dân số… Trong bối cảnh đó, kinh tế ghi nhận sự biến động mạnh về tốc độ tăng trưởng, phản ánh cả tác động tiêu cực của dịch Covid-19 và khả năng phục hồi của nền kinh tế. Năm 2021, GDP chỉ tăng 2,55%, mức tăng thấp nhất trong hơn ba thập niên do gián đoạn chuỗi cung ứng, sụt giảm tiêu dùng và sản xuất, cùng với các biện pháp giãn cách xã hội trên diện rộng. Bước sang năm 2022, khi nền kinh tế mở cửa hoàn toàn sau dịch bệnh, tăng trưởng GDP đạt 8,54%, được thúc đẩy bởi tiêu dùng nội địa phục hồi, đầu tư FDI gia tăng và xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ gần 15%. Năm 2023 và 2024, mặc dù kinh tế thế giới tăng trưởng chậm do áp lực lạm phát toàn cầu và chính sách tiền tệ thắt chặt ở nhiều quốc gia, Việt Nam vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố niềm tin thị trường và tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng GDP lần lượt là 5,07% và 7,09%. Năm 2025 Việt Nam đặt mục tiêu GDP tăng 8,3% - 8,5%. Riêng 9 tháng đầu năm 2025 ước tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 9,44% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2021 - 2025 và dự kiến tốc độ tăng trưởng cả năm 2025 có thể đạt từ 8% (theo mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ) đến 8,5% (theo mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 226/NQ-CP ngày 05/8/2025 của Chính phủ). Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2021 - 2025, tăng trưởng GDP đạt 6,23%. (Bảng 1)
![]() |
Nguồn: Niên giám Thống kê 2024; Báo cáo Cục Thống kê; Tác giả tổng hợp |
Về sử dụng vốn: Giai đoạn 2021 - 2024, tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 13.247,4 nghìn tỉ đồng, trong đó, vốn đầu tư của khu vực Nhà nước đạt 3.538,9 nghìn tỉ đồng, chiếm 26,7% tổng nguồn vốn; vốn đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước đạt 7.569,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 57,1%; vốn đầu tư của khu vực FDI đạt 2.138,8 nghìn tỉ đồng, chiếm 16,2%. So với giai đoạn 2016 - 2020, tỉ trọng vốn của khu vực Nhà nước có xu hướng giảm, khu vực ngoài Nhà nước có xu hướng tăng lên, đây là xu hướng tích cực và phù hợp với định hướng tái cơ cấu đầu tư, giảm tỉ trọng đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư. Trong 9 tháng đầu năm 2025, hoạt động đầu tư tiếp tục đạt kết quả tích cực, với tổng nguồn vốn ước đạt 2.701,8 nghìn tỉ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 6,8%), trong đó, vốn khu vực Nhà nước tăng 19,6%, khu vực ngoài Nhà nước tăng 7,8% và khu vực có vốn FDI tăng 11,2%.
Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển từ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sang hai khu vực còn lại
- Khu vực nông, lâm, thủy sản đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, với nhiều chiến lược, chính sách đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong trồng trọt, chăn nuôi; chế biến sâu có áp dụng công nghệ cho các sản phẩm có giá trị chất lượng cao phát triển mạnh, giúp gia tăng giá trị sản phẩm và đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường cao cấp. Nhờ đó, khu vực này luôn duy trì được mức tăng trưởng khá và ổn định qua các năm, không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà bảo đảm nguồn cung cho xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới, thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế. Bình quân giai đoạn 2021 - 2025, khu vực này ước đạt mức tăng trưởng 3,7% mỗi năm và quy mô tiếp tục được mở rộng. Năm 2025, giá trị tăng thêm theo giá hiện hành của khu vực nông, lâm, thủy sản ước đạt 1.501,3 nghìn tỉ đồng, gấp 1,4 lần so với năm 2021.
- Khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt mức tăng trưởng bình quân khoảng 6,69%/năm. Trong đó, năm 2021, khu vực công nghiệp - xây dựng chỉ tăng trưởng 3,21% (ngành công nghiệp đạt 4,06%) do chịu tác động tiêu cực mạnh mẽ từ dịch Covid-19 và những bất ổn kinh tế, chính trị toàn cầu. Tuy nhiên, đến năm 2022, tăng trưởng của khu vực công nghiệp và xây dựng đã cải thiện mạnh mẽ, đạt 8,18% nhờ các biện pháp mở cửa kinh tế và thúc đẩy sản xuất. Sang năm 2023, tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp giảm mạnh, chỉ đạt 2,99%; là mức thấp nhất trong 15 năm qua, thậm chí thấp hơn cả năm 2020, làm cho tăng trưởng chung của khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ đạt 3,74%. Năm 2024, công nghiệp phục hồi mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng 8,32%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2020. Đà phục hồi tiếp tục được duy trì trong năm 2025, với mục tiêu tốc độ tăng trưởng của công nghiệp và xây dựng ước đạt 9,8% - 10,1%. Quy mô giá trị tăng thêm tiếp tục được mở rộng. Năm 2025, quy mô của khu vực này ước đạt trên 4.800 nghìn tỉ đồng, gấp hơn 1,5 lần so với năm 2021.
Tính từ năm 2011 đến nay, ngành công nghiệp đã hình thành được một số ngành chủ lực của nền kinh tế, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước3, bình quân giai đoạn 2011 - 2024, công nghiệp tăng 6,93%, năm 2025 mục tiêu đặt ra là tăng từ 9,6% - 9,8%. Riêng trong thời kỳ chiến lược (2011 - 2020), công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp 30,75% vào GDP, trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước. Ước tính đến năm 2025, tỉ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 37,69% GDP, tăng 0,30 điểm phần trăm so với năm 2021 (37,39%). Trong đó, ngành công nghiệp tăng từ 30,75% lên 31,59%.
- Khu vực dịch vụ tốc độ tăng giá trị tăng thêm giai đoạn 2021 - 2024 ước đạt 6,95%; trong đó, riêng năm 2025 ước tăng 8,5% - 8,6% (giá trị tăng thêm ngành dịch vụ 9 tháng đầu năm 2025 tăng 8,49% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 11,37% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011 - 20254). Đây là kết quả tích cực trong khi một số ngành dịch vụ tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, đặc biệt là ngành du lịch. Cơ cấu ngành dịch vụ trong GDP cũng có xu hướng tăng, năm 2021, tỉ trọng giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ trong GDP đạt 41,26%, năm 2025 ước đạt 42 - 43%. Bên cạnh đó, khu vực dịch vụ cũng phát triển đa dạng5, chất lượng các dịch vụ được cải thiện, một số ngành được hiện đại hóa6, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số7. Bình quân giai đoạn 2011 - 2024, quy mô khu vực dịch vụ đạt hơn 1.896 nghìn tỉ đồng, tăng bình quân 6,76%/năm, ước tính 9 tháng đầu năm 2025 đạt khoảng 2.167,5 nghìn tỉ đồng, tăng 8,49% so với cùng kỳ.
1.2.2. Động lực tăng trưởng kinh tế từ phía cầu
Tiêu dùng cuối cùng giữ vai trò chủ đạo đối với tăng trưởng kinh tế, chiếm hơn 60% GDP. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2025, tiêu dùng cuối cùng tăng 8,07% so với cùng kỳ năm 2024, đóng góp 73,83% vào tốc độ tăng chung của toàn nền kinh tế. Trong đó: (1) Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình tăng bình quân khoảng 5,5%, đóng góp khoảng 55% trong GDP. Trong 9 tháng đầu năm 2025, tiêu dùng của hộ gia đình tiếp tục cải thiện, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng loại trừ yếu tố giá tăng 7,2%, cao hơn mức 5,8% của cùng kỳ năm 2024, ước đóng góp khoảng 53% cho GDP năm 2025; (2) Tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ đóng góp khoảng 6,5% - 10% GDP, đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là trong các giai đoạn cần kích thích nền kinh tế, hỗ trợ tổng cầu khi đầu tư suy giảm.
- Đầu tư công đã đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của Việt Nam trong thời gian gần đây. Đặc biệt, trong các năm kinh tế khó khăn, việc đẩy mạnh đầu tư công để kích thích tổng cầu, bù đắp sụt giảm khu vực tư nhân đã duy trì được ổn định tăng trưởng. Ước tính đến hết tháng 9/2025, tổng vốn đầu tư công đã giải ngân đạt 440,4 nghìn tỉ đồng, đạt khoảng 50% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (nếu tính trên kế hoạch giao đầu năm thì đạt 55% kế hoạch), so với cùng kỳ năm 2024 cao hơn 4,5% về tỉ lệ và 132,6 nghìn tỉ đồng về số tuyệt đối. Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia, tổng vốn giải ngân đến hết tháng 9 từ ngân sách Trung ương ước tính đạt 16,4 nghìn tỉ đồng, tương ứng 53,3% kế hoạch được giao. Với giả định đầu tư công là khoản chi đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước thì trong giai đoạn 2021 - 2024, đầu tư công đóng góp trực tiếp khoảng 0,8 - 1,4 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP (năm 2022 ước đóng góp khoảng 1,4 điểm phần trăm, năm 2023 khoảng 0,72 điểm phần trăm và năm 2024 khoảng 0,8 điểm phần trăm)8.
Ngân hàng Thế giới - WB (2024) nhận định, việc mở rộng quy mô đầu tư công ở mức 1% GDP ở những quốc gia mới nổi và đang phát triển có hiệu quả đầu tư công cao hơn và lo ngại về bền vững tài khóa thấp có thể làm tăng GDP lên 1,6% trong vòng 5 năm, đồng thời có thể thúc đẩy đầu tư tư nhân tăng 2,2%, năng suất lao động lên 1,9% và TFP lên 0,8%, sản lượng tiềm năng tăng 1,1% trong trung hạn. Điều đó cho thấy đầu tư công ngoài việc là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong trung hạn thì lợi ích lan tỏa của nó đối với nền kinh tế còn lớn hơn.
- Xuất khẩu là một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế; tăng trung bình gần 10% từ năm 2021 đến nay trong bối cảnh kinh tế, thương mại thế giới không thực sự thuận lợi. Tăng trưởng xuất khẩu nhanh khiến cán cân thương mại của Việt Nam chuyển từ thâm hụt kéo dài sang thặng dư thương mại năm 2012. Từ năm 2016 đến nay, thặng dư thương mại của Việt Nam đã không ngừng tăng lên và đạt trên 28,36 tỉ USD năm 2023; 24,77 tỉ USD năm 2024 và 16,82 tỉ USD trong 9 tháng đầu năm 2025. Cán cân thương mại thặng dư góp phần cải thiện cán cân thanh toán, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tỉ giá, kiểm soát lạm phát. WB (2025) đánh giá, trong nửa đầu năm 2025, động lực cho tăng trưởng GDP của Việt Nam đến từ xuất khẩu, do các doanh nghiệp đẩy mạnh đơn hàng trong bối cảnh bất định về chính sách thương mại toàn cầu, với mức tăng trưởng 14,4% so với cùng kỳ.
Xuất khẩu còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút đầu tư vào những lĩnh vực quan trọng. Từ năm 2010 đến nay, cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch tích cực, theo hướng tăng tỉ trọng của các mặt hàng công nghiệp chế biến, giảm tỉ trọng mặt hàng khoáng sản, nhiên liệu và nông sản; các mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng; trong đó, tính trong 9 tháng đầu năm 2025, Việt Nam có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, chiếm 93,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỉ USD, chiếm 67,9%); nhóm hàng công nghiệp chế biến 9 tháng đầu năm 2025 chiếm tới 88,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; nhóm nhiên liệu, khoáng sản chỉ chiếm khoảng 0,6%; trong khi đó năm 2000, tỉ trọng các nhóm hàng này lần lượt là 33% và 20%.
1.2.3. Ổn định vĩ mô được duy trì và củng cố là nền tảng quan trọng cho tăng trưởng nhanh và bền vững
Trong giai đoạn gần 5 năm vừa qua, Việt Nam vẫn giữ ổn định nền kinh tế, nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng, cho thấy khả năng chống chịu và thích ứng với biến động bên ngoài của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp trong tầm mục tiêu. CPI bình quân giai đoạn 2016 - 2020 duy trì ở mức thấp, khoảng 3,15%/năm, thấp hơn so với mục tiêu Quốc hội đề ra. Năm 2021, CPI chỉ tăng 1,84%, mức thấp nhất trong 6 năm, bất chấp áp lực chi phí do dịch bệnh. Giai đoạn 2022 - 2025, khi giá năng lượng, nguyên liệu thế giới tăng cao, lạm phát ở nhiều nước vượt 8 - 10%, Việt Nam vẫn duy trì dưới 4%, khẳng định khả năng điều hành linh hoạt của chính sách vĩ mô.
Để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa đã phối hợp chủ động, linh hoạt, hiệu quả với chính sách tiền tệ. Điển hình, Việt Nam đã triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 và trong 9 tháng đầu năm 2025, chính sách tài khóa tiếp tục triển khai các giải pháp miễn giảm thuế, phí, lệ phí, như tiếp tục thực hiện giảm thuế GTGT 2%, giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn áp dụng cho năm 2025 như đã áp dụng trong năm 2024; ưu đãi lệ phí trước bạ đối với ô tô điện chạy pin; giảm 50% mức thu 46 khoản phí, lệ phí,… nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, thúc đẩy tăng trưởng.
Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành đồng bộ, linh hoạt và phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, cung ứng đủ, kịp thời vốn cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, xử lý linh hoạt, kịp thời, hiệu quả các sự cố ngân hàng, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng giảm, hướng dòng vốn vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực ưu tiên. Điều hành tỉ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong và ngoài nước, qua đó hấp thụ cú sốc bên ngoài, hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam.
Điều hành tăng trưởng tín dụng an toàn, hợp lý, hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế, nâng cao chất lượng tín dụng, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận tín dụng ngân hàng; tăng cường kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; thúc đẩy tín dụng tiêu dùng; đẩy mạnh việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; bổ sung các quy định về hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử; tiếp tục tạo điều kiện cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện tốt các chương trình tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tính đến ngày 29/9/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 17,71 triệu tỉ đồng, tăng 13,37% so với cuối năm 2024. Tăng trưởng tín dụng ước tính đạt bình quân 14,5%/năm giai đoạn 2021 - 2025.
2. Rủi ro, thách thức và triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian tới
Việt Nam đang ở năm cuối cùng của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025) và chuẩn bị bước vào giai đoạn tiếp theo của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2026 - 2030) với nhiều thuận lợi; cơ cấu xuất khẩu đã đa dạng hóa, đầu tư công được tăng tốc, thị trường nội địa lớn; nhưng cũng đối mặt với rủi ro đáng kể: Rủi ro bên ngoài (bảo hộ thương mại, sụt giảm cầu toàn cầu), rủi ro tài khóa và tài chính (nợ công, hiệu quả đầu tư công), rủi ro khí hậu và môi trường, và các rủi ro thể chế/nguồn nhân lực. Trong đó, một số rủi ro, thách thức trước mắt cần được nhận diện như:
Một là, tốc độ tăng năng suất lao động có xu hướng chậm lại, bình quân giai đoạn 2021 - 2025, năng suất lao động tăng 5,24%/năm, thấp hơn so với tốc độ tăng bình quân 6,05%/năm của giai đoạn 2016 - 2020 và thấp hơn mục tiêu Kế hoạch 5 năm trong giai đoạn 2021 - 2025 là 6,5%/năm theo Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội đề ra. Thêm nữa, mặc dù Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN nhưng mức năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực tính theo sức mua tương đương. Cụ thể, tính theo PPP 2021, năng suất lao động của Việt Nam năm 2024 đạt 25.850 USD, chỉ bằng 11,64% mức năng suất lao động của Singapore; 15,63% của Brunei; 37,48% của Malaysia; 64,94% của Thái Lan; 87,22% của Indonesia.
Hai là, xuất khẩu Việt Nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề. Năng lực xuất khẩu của khu vực trong nước còn yếu, xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào khu vực FDI. Các mặt hàng mũi nhọn, công nghệ cao cũng chủ yếu do các doanh nghiệp FDI nắm giữ. Công nghiệp hỗ trợ còn chưa phát triển đầy đủ, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, dẫn đến giá trị gia tăng xuất khẩu thấp, tỉ trọng nhập khẩu hàng hóa trung gian để sản xuất xuất khẩu còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam tương đối phụ thuộc vào các thị trường xuất khẩu lớn đặc biệt Hoa Kỳ, Trung Quốc và EU. Ngoài ra, do sản xuất, xuất khẩu Việt Nam còn sử dụng tỉ trọng không nhỏ các sản phẩm trung gian nhập khẩu, trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu ngày càng tập trung vào Trung Quốc và Hàn Quốc. Điều này tiềm ẩn các rủi ro cao khi xảy ra xung đột thương mại giữa các quốc gia lớn như Hoa Kỳ - Trung Quốc. Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB (2025) nhận định, Việt Nam hiện nay có thể đối mặt với rủi ro tăng trưởng trong ngắn hạn do các mức thuế đối ứng của Hoa Kỳ có hiệu lực từ ngày 07/8/2025: 20% đối với hàng nhập khẩu và 40% đối với hàng trung chuyển có thể gây xáo trộn đối với hoạt động FDI và thương mại.
Ba là, các ngành kinh tế chưa chuyển dịch mạnh về tăng năng suất, nhất là khu vực công nghiệp và dịch vụ9. Sản xuất công nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi kinh tế và sức mua tại các thị trường xuất khẩu lớn. Công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù là động lực tăng trưởng của toàn ngành nhưng năng lực sản xuất công nghiệp của một số ngành công nghiệp nền tảng chậm được cải thiện, chưa đáp ứng được kỳ vọng phát triển10; còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các yếu tố đầu vào cho sản xuất.
Bốn là, thách thức cho phát triển kinh tế số. Trong đó, một trong những vấn đề chính cản trở việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam là hạ tầng kỹ thuật chưa đủ mạnh để hỗ trợ việc triển khai công nghệ thông tin và viễn thông, chưa đáp ứng được nhu cầu về xử lý dữ liệu lớn, triển khai trí tuệ nhân tạo và kết nối Internet vạn vật (IoT); hạ tầng số giữa các vùng miền có sự chênh lệch lớn. Hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia vẫn còn hạn chế về quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật. Hiện nay, Việt Nam mới có ba trung tâm dữ liệu đạt tiêu chuẩn tương đương Tier III (FPT, VNPT, Viettel) và một trung tâm dữ liệu (CMC) đạt chuẩn Uptime Tier III (có khả năng nâng lên Tier IV). Ngoài ra, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực có kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về công nghệ thông tin còn thiếu hụt lớn, đặc biệt trong các chuyên ngành như an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, điện toán đám mây và Blockchain.
Năm là, rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng bao gồm cả các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài. Nếu môi trường kinh tế toàn cầu xấu hơn dự kiến do các đối tác thương mại lớn tăng trưởng chậm lại và biến động thị trường tài chính gia tăng, thách thức đối với kinh tế sẽ tăng lên, đặc biệt thông qua hoạt động xuất khẩu và dòng vốn đầu tư suy yếu. Việc áp dụng thuế đối ứng đối với hàng trung chuyển chưa cụ thể có thể làm giảm thương mại và đầu tư. Ở trong nước, mặc dù các cải cách về đầu tư công đã mang lại kết quả, song tiến độ giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn thấp và khả năng khó đảm bảo giải ngân 100% vốn theo kế hoạch. Bên cạnh đó, rủi ro lạm phát vẫn lớn do việc điều chỉnh tăng liên tục chi phí y tế, giáo dục và giá điện của Chính phủ, cùng với đó việc đẩy nhanh giải ngân đầu tư công và tăng trưởng tín dụng cao11 có thể làm tăng giá vật liệu và dịch vụ, đồng tiền mất giá có thể tiếp tục làm tăng lạm phát thông qua chi phí nhập khẩu cao hơn… Ngoài ra, rủi ro từ hệ thống ngân hàng vẫn hiện hữu, nợ xấu mới dự kiến sẽ tăng lên trong trung hạn trong trường hợp các ngân hàng nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay...
Trên cơ sở những rủi ro, thách thức mà Việt Nam đang đối mặt, nhiều tổ chức quốc tế nhận định tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ “chậm lại” so với mức đột phá của năm 2024, trong đó, trong ngắn hạn, rủi ro thương mại và xu hướng bảo hộ được nhắc đến như một tác nhân chính có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng, còn đầu tư công là công cụ giữ đà tăng trưởng khi xuất khẩu gặp khó khăn. Theo WB (2025), kế hoạch đầu tư hạ tầng công và những cải cách cơ cấu nếu được triển khai hiệu quả - bao gồm những cải thiện về logistics, năng lượng, giáo dục và thị trường vốn - có thể nâng tăng trưởng tiềm năng lên 7% mỗi năm; cùng với đó, đẩy mạnh tự do hóa và phát triển nền kinh tế số cũng có thể hỗ trợ nâng cao năng suất; thị trường bất động sản tăng trưởng tốt hơn nếu phê duyệt dự án nhanh hơn có thể tiếp tục thúc đẩy tổng cầu trong nước. (Bảng 2)
![]() |
3. Một số giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Để triển vọng tăng trưởng kinh tế tích cực hơn so với các dự báo cũng như phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8% - 8,5% trong năm 2025, hướng đến tăng trưởng kinh tế cao trong năm sau, trước mắt Việt Nam cần chú trọng một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện thể chế và tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, kịp thời xóa bỏ rào cản, quy định không còn phù hợp. Tập trung tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định và công bằng; dỡ bỏ các rào cản gia nhập thị trường, bảo vệ quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh. Rà soát toàn diện các mâu thuẫn, chồng chéo về pháp luật đầu tư, đất đai, xây dựng và môi trường..., bảo đảm tính nhất quán và độ tin cậy của chính sách. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng công khai, minh bạch, giảm chi phí tuân thủ pháp luật. Tăng cường sự tham gia và tham vấn ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư trong quá trình xây dựng chính sách để bảo đảm môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh, bình đẳng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của doanh nghiệp, người dân.
Hai là, kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; bảo đảm cung ứng hàng hóa, kiểm soát giá cả, thị trường. Liên tục cập nhật các kịch bản về tăng trưởng, lạm phát, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả, hài hòa các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế; có các giải pháp điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá, tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến của giá xăng dầu, năng lượng, đồng thời bảo đảm nguồn cung và mức giá phù hợp đối với các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân. Việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô là hết sức cần thiết, là điều kiện quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng cao trong các tháng cuối năm 2025 và các năm tiếp theo.
Ba là, cần tiếp tục chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế; tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại với các đối tác trên thế giới; tận dụng tối đa cơ hội từ các FTA đã ký kết cũng như mở rộng đàm phán các FTA với các quốc gia, đối tác trên thế giới; thúc đẩy đàm phán với Hoa Kỳ để bảo đảm hợp tác về thương mại, kinh tế và thị trường xuất khẩu Hoa Kỳ nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như thu hút FDI. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nguồn cung nhập khẩu. Việc phụ thuộc quá vào một hay một số thị trường đã cho thấy những rủi ro lớn trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động và căng thẳng thương mại có chiều hướng gia tăng.
Bốn là, xác lập mô hình tăng trưởng mới phù hợp với bối cảnh thực tiễn, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tập trung đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách và những lĩnh vực công ích do Nhà nước quy định; nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia, giảm chi phí huy động vốn.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công.Theo đó, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, bổ sung, áp dụng các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cho các dự án quy mô lớn, trọng điểm; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các dự án hạ tầng quy mô lớn, các dự án đang tồn đọng, chậm triển khai để khơi thông nguồn lực, đóng góp vào tăng trưởng, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng, trong công tác bồi thường hỗ trợ tái định cư, kịp thời giải quyết các vướng mắc phát sinh; bảo đảm đủ điều kiện để thực hiện giải ngân đối với các dự án lớn, đặc biệt là về nguyên vật liệu; giải quyết các nguồn lực bị lãng phí như: Quy hoạch treo, dự án vướng thủ tục, đất công không sử dụng, tài sản tranh chấp và các vụ án kéo dài.
Sáu là, đẩy mạnh hơn nữa vai trò chủ đạo của chính sách tài khóa hỗ trợ cho khả năng chống chịu và tăng trưởng của nền kinh tế. Hiện nay, dư địa chính sách tiền tệ nới lỏng bị hạn chế do lãi suất thực đã tương đối thấp và chênh lệch lãi suất với các thị trường quốc tế đang được thu hẹp. Với nợ công ở mức thấp và cân đối ngân sách nhà nước tích cực như hiện nay, dư địa tài khóa của Việt Nam vẫn còn đủ rộng để ứng phó những rủi ro bên ngoài, chẳng hạn dự phòng ứng phó các tác động tiêu cực ngắn hạn có thể xảy ra đối với một số lĩnh vực do ảnh hưởng bởi chính sách thuế quan của Hoa Kỳ; tăng cường mở rộng đầu tư công hơn nữa để thúc đẩy tăng trưởng, nhất là tăng đầu tư vào các lĩnh vực như năng lượng, logistics và giao thông.
Bảy là, nâng cấp chuỗi cung ứng nội địa và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Việt Nam cần khuyến khích và thúc đẩy hơn nữa liên kết giữa các khu vực FDI với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước để tăng tỉ lệ nội địa hóa, giảm tính dễ tổn thương và phụ thuộc bị động vào chuỗi cung ứng bên ngoài.y
1 Nếu tăng trưởng năm 2025 đạt 8,0% trở lên.
2 Tính toán theo kịch bản tăng trưởng kinh tế cả năm 2025 đạt 8,5% tại Nghị quyết số 226/NQ-CP của Chính phủ.
3 Tỉ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP tăng từ 9,93% năm 1990 lên 17,13% năm 2010 và 24,43% vào năm 2024.
4 Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng các năm trong giai đoạn 2011 - 2025 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 7,42%; 6,80%; 6,59%; 7,21%; 6,97%; 7,30%; 6,97%; 7,25%; 7,52%; 1,87%; 0,27%; 11,37%, 6,87%; 7,06% và 8,49%.
5 Phát triển đầy đủ các dịch vụ từ truyền thống như thương mại, vận tải, du lịch đến các dịch vụ hiện đại như tài chính, viễn thông, công nghệ thông tin.
6 Việt Nam đã làm chủ nhiều kỹ thuật mổ ghép tạng - tương đương các nước phát triển.
7 Điển hình là các ngành thương mại; tài chính ngân hàng; giao thông đô thị; đào tạo trực tuyến.
8 Tác giả tự tính toán.
9 Tốc độ tăng năng suất lao động của 3 khu vực nông, lâm, thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ các năm 2021, 2022, 2023 lần lượt là (2,5%; 5,8%; 4,75%); (5,23%; 3,47%; 2,25%); (5,04%; 3,41%; 3,88%).
10 Chỉ số IIP ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,9% năm 2021; 7,7% năm 2022, năm 2023 đạt 1,52%, năm 2024 đạt khoảng 9,6%, thấp hơn nhiều mục tiêu Kế hoạch 2021 - 2025 là tăng 12,5% - 13%.
11 Nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh các kênh huy động vốn trung dài hạn còn gặp khó khăn, mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 là 16%, cao hơn mức 15% (thực tế đạt 15,08%) của năm 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. WB (9/2025), Báo cáo Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam.
2. ADB (9/2025), Asian Development Outlook.
3. Cục Thống kê (10/2025), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng đầu năm 2025.
4. Cục Thống kê (2022 - 2024), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm, các năm 2021, 2022, 2023, 2024.
5. Cục Thống kê (2024), Niên giám Thống kê 2024. Nxb Thống Kê. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/06/nien-giam-thong-ke-2024/
6. IMF (9/2025), Kết luận về đợt Tham vấn Điều IV năm 2025.
7. IMF (2021 - 2024), Vietnam: Staff Report for the Article IV Consultation.
8. OECD (2021 - 2025), Báo cáo kinh tế của OECD về Việt Nam.
Tin bài khác


Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
