Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Hoạt động ngân hàng
Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
aa

Thời gian qua, kinh tế trong nước tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực, lĩnh vực sản xuất bước đầu ghi nhận khó khăn do ảnh hưởng từ các biện pháp thuế quan của Mỹ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, nhiều chỉ tiêu kinh tế đạt mức tăng cao hơn hoặc tương đương cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, một số chỉ số cho thấy xu hướng tăng chậm lại, như xuất khẩu tăng 13% (so với mức tăng 15% của cùng kỳ năm 2024), cán cân thương mại đạt xuất siêu 3,79 tỉ USD (so với 9,06 tỉ USD cùng kỳ năm trước).

Đáng chú ý, chỉ số PMI giảm mạnh từ 50,5 điểm trong tháng 3/2025 xuống còn 45,6 điểm trong tháng 4/2025. Sự sụt giảm này phản ánh rõ nét việc sản lượng, đơn đặt hàng mới, việc làm và hoạt động mua hàng đều giảm đáng kể trước thông tin về thuế quan từ Mỹ.

Lạm phát tháng 4/2025 tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát với chỉ số CPI tăng nhẹ 0,07% so với tháng trước. Mức tăng chủ yếu đến từ nhóm hàng phi cơ bản, khi giá gạo, xăng dầu và nhiên liệu giảm theo xu hướng thị trường thế giới, trong khi giá một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như thịt lợn, nhà ở cho thuê, điện nước sinh hoạt và dịch vụ ăn uống tăng do nhu cầu cao trong dịp lễ và mùa nắng nóng. So với cùng kỳ, lạm phát cơ bản đạt 3,14%; bình quân 4 tháng là 3,05%, thấp hơn mức lạm phát chung, cho thấy áp lực lạm phát vẫn đang được kiểm soát tốt.

Trong bối cảnh đó, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, hiệu quả; đồng thời phối hợp đồng bộ, hài hòa và chặt chẽ với chính sách tài khóa cũng như các chính sách vĩ mô khác, nhằm hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng.

Tín dụng tích cực hỗ trợ nền kinh tế

Giữa bức tranh kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro từ bên ngoài, tín dụng nổi lên như một điểm sáng, phản ánh rõ nét sự hồi phục của nhu cầu vốn và khả năng điều hành linh hoạt của hệ thống ngân hàng.

Tín dụng phản ánh sự linh hoạt trong điều hành của hệ thống ngân hàng
Tín dụng phản ánh sự linh hoạt của hệ thống ngân hàng trong điều hành chính sách tiền tệ (Nguồn ảnh: Internet)

Nhằm tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, góp phần hỗ trợ nền kinh tế, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi theo chỉ đạo của NHNN và quán triệt tinh thần Công điện số 19/CĐ-TTg ngày 24/02/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải pháp giảm lãi suất. Mức giảm dao động từ 0,1 - 1,0%/năm, tùy theo kỳ hạn và hình thức gửi tiền.

Cùng với đó, các TCTD triển khai nhiều gói tín dụng ưu đãi nhằm kích cầu, đặc biệt tập trung vào cho vay tiêu dùng và cho vay nhà ở xã hội dành cho người nghèo, người có thu nhập thấp. Việc thúc đẩy tín dụng tiêu dùng được xác định là một trong ba động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế, bên cạnh đầu tư công và xuất khẩu, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Kết quả mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm; các TCTD đã công bố thông tin lãi suất cho vay trên website của ngân hàng nhằm cung cấp thêm thông tin cho khách hàng tham khảo khi tiếp cận vốn vay. Đến ngày 20/5/2025, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các NHTM ở mức 6,25%/năm, giảm 0,68%/năm so với cuối năm 2024.

NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tập trung triển khai hiệu quả chính sách tín dụng chung và tín dụng theo ngành, lĩnh vực. Một số nội dung trọng tâm gồm: (i) Tiếp tục thực hiện các giải pháp giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; (ii) Đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; đồng thời kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; (iii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, đồng thời sẵn sàng chia sẻ một phần lợi nhuận để giảm lãi suất, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn thuận lợi hơn; (iv) Tiếp tục triển khai các chương trình tín dụng chuyên biệt theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với một số ngành, lĩnh vực trọng điểm; (v) Xem xét điều chỉnh hạn mức tín dụng, tạo điều kiện tiếp cận vốn cho các ngành hàng thiết yếu, trong đó có ngành lúa gạo.

Tính đến ngày 19/5/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 16,49 triệu tỉ đồng, tăng 5,59% so với cuối năm 2024 và tăng 18,67% so với cùng kỳ năm trước (trong khi cùng kỳ năm 2024 chỉ tăng 2,41% so với cuối năm 2023).

Tín dụng tiếp tục giữ vai trò “đầu tàu” trong hoạt động của ngành Ngân hàng năm 2025, phản ánh sự chủ động, linh hoạt trong điều hành và khả năng phản ứng chính sách kịp thời của NHNN. Tuy nhiên, để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy bền vững cho tăng trưởng lợi nhuận và ổn định hệ thống, các TCTD cần chú trọng nâng cao năng lực nội tại, tối ưu hóa chi phí vốn và tăng cường khả năng thích ứng với biến động kinh tế vĩ mô.

Dù vẫn là điểm sáng trong bức tranh toàn ngành, tín dụng cũng đang đối mặt với không ít thách thức, đòi hỏi sự theo dõi sát sao và các giải pháp điều hành phù hợp trong thời gian tới.

Đẩy mạnh các chương trình tín dụng

Hiện nay, bên cạnh các NHTM nhà nước, một số NHTM cổ phần cũng đã đăng ký tham gia Chương trình tín dụng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững với tổng số vốn đăng ký bổ sung là 25.000 tỉ đồng. Như vậy, tổng quy mô chương trình đến thời điểm hiện tại đã đạt 145.000 tỉ đồng.

Qua thống kê, có 38/63 UBND tỉnh đã gửi văn bản hoặc công bố trên cổng thông tin điện tử về danh mục dự án tham gia Chương trình tín dụng cho vay nhà ở xã hội với tổng số 100 dự án. Đến ngày 31/3/2025, doanh số giải ngân của Chương trình đạt 3.652 tỉ đồng, trong đó 3.109,3 tỉ đồng cho chủ đầu tư tại 22 dự án; 542,7 tỉ đồng cho người mua nhà tại 21 dự án.

Thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, hướng tới mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt từ 8% trở lên, NHNN đã ban hành Văn bản số 2756/NHNN-TD ngày 15/4/2025 chỉ đạo các NHTM mở rộng Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản. Cụ thể, phạm vi và đối tượng thụ hưởng của Chương trình được mở rộng thành Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, với quy mô tín dụng nâng lên khoảng 100.000 tỉ đồng. Đây là bước đi quan trọng nhằm hỗ trợ các lĩnh vực sản xuất chủ lực, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Kết quả đến cuối tháng 4/2025, doanh số giải ngân lũy kế của Chương trình đạt trên 80.000 tỉ đồng cho gần 20.200 lượt khách hàng vay vốn, đạt khoảng 80% doanh số cam kết triển khai Chương trình (theo quy mô 100.000 tỉ đồng).

Chương trình tín dụng hỗ trợ liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long ngoài Agribank là ngân hàng chủ lực thực hiện và luôn sẵn sàng nguồn vốn cho vay, không giới hạn quy mô, còn có 6 NHTM đăng ký tham gia Chương trình trong giai đoạn thí điểm (đến hết năm 2025) với quy mô khoảng 16.300 tỉ đồng.

Mặc dù các NHTM đã sẵn sàng nguồn vốn để cho vay theo Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, tuy nhiên, đến cuối tháng 5/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường mới chỉ tổng hợp danh sách các hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp tham gia; chưa công bố danh mục vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và các mô hình liên kết lúa gạo. Do đó, các NHTM chưa thể triển khai cho vay có hỗ trợ lãi suất theo nội dung của Chương trình.

Dù chưa chính thức áp dụng chính sách ưu đãi lãi suất trong khuôn khổ Chương trình, các NHTM vẫn đang chủ động cho vay phục vụ sản xuất, chế biến, thu mua, tạm trữ và tiêu thụ lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 3 tháng đầu năm 2025, doanh số cho vay đạt khoảng 114.000 tỉ đồng; dư nợ đến cuối tháng 3/2025 đạt 127.000 tỉ đồng. Trong đó, dư nợ tín dụng phục vụ trồng trọt chiếm khoảng 18%; chế biến, bảo quản chiếm khoảng 12%; thu mua, tiêu thụ chiếm tỉ trọng lớn nhất với khoảng 70%.

Tiếp tục hỗ trợ, ưu tiên tăng trưởng kinh tế

Trong thời gian tới, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trọng tâm tập trung vào các nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Ngân hàng có trình độ chuyên môn, năng lực điều hành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ thuộc diện được sắp xếp, bố trí công tác mới sau quá trình tinh gọn bộ máy.

Thứ hai, theo dõi sát diễn biến kinh tế thế giới và trong nước, chủ động, linh hoạt và kịp thời trong điều hành chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ cần được phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm hỗ trợ ưu tiên tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, đồng thời góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và lạm phát, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Đồng thời, triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù cho một số ngành, lĩnh vực, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Thứ tư, theo dõi sát diễn biến thị trường vàng, triển khai các giải pháp ổn định thị trường theo đúng quy định pháp luật và chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm mục tiêu ổn định thị trường vàng và thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ. Đồng thời, trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

Thứ năm, thể chế hóa các quy định và xây dựng kế hoạch tổng thể nhằm triển khai hiệu quả Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”. Tập trung xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, triển khai phương án cơ cấu lại các NHTM đang được kiểm soát đặc biệt. Đồng thời, đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng và ngăn ngừa nợ xấu mới phát sinh.

Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các TCTD; tập trung vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Kiên quyết phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trên thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động thanh tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo tình hình triển khai Nghị quyết số 01/NQ-CP; hoạt động ngân hàng tháng 5/2025 của NHNN.

2. Báo cáo thống kê tình hình kinh tế - xã hội tháng 4/2025 và 4 tháng năm 2025 của Cục Thống kê (Bộ Tài chính).

ThS. Trần Trọng Triết
An Giang

Tin bài khác

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam đang đối mặt với nhiều biến động khó lường, cùng với quá trình chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, rủi ro liên quan đến thẻ tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Việc kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ, quản trị rủi ro chủ động và nâng cao nhận thức người tiêu dùng sẽ là nền tảng quan trọng giúp thị trường thẻ tín dụng Việt Nam phát triển an toàn, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện và củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô