Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Hoạt động ngân hàng
Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
aa

Thời gian qua, kinh tế trong nước tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực, lĩnh vực sản xuất bước đầu ghi nhận khó khăn do ảnh hưởng từ các biện pháp thuế quan của Mỹ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, nhiều chỉ tiêu kinh tế đạt mức tăng cao hơn hoặc tương đương cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, một số chỉ số cho thấy xu hướng tăng chậm lại, như xuất khẩu tăng 13% (so với mức tăng 15% của cùng kỳ năm 2024), cán cân thương mại đạt xuất siêu 3,79 tỉ USD (so với 9,06 tỉ USD cùng kỳ năm trước).

Đáng chú ý, chỉ số PMI giảm mạnh từ 50,5 điểm trong tháng 3/2025 xuống còn 45,6 điểm trong tháng 4/2025. Sự sụt giảm này phản ánh rõ nét việc sản lượng, đơn đặt hàng mới, việc làm và hoạt động mua hàng đều giảm đáng kể trước thông tin về thuế quan từ Mỹ.

Lạm phát tháng 4/2025 tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát với chỉ số CPI tăng nhẹ 0,07% so với tháng trước. Mức tăng chủ yếu đến từ nhóm hàng phi cơ bản, khi giá gạo, xăng dầu và nhiên liệu giảm theo xu hướng thị trường thế giới, trong khi giá một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như thịt lợn, nhà ở cho thuê, điện nước sinh hoạt và dịch vụ ăn uống tăng do nhu cầu cao trong dịp lễ và mùa nắng nóng. So với cùng kỳ, lạm phát cơ bản đạt 3,14%; bình quân 4 tháng là 3,05%, thấp hơn mức lạm phát chung, cho thấy áp lực lạm phát vẫn đang được kiểm soát tốt.

Trong bối cảnh đó, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, hiệu quả; đồng thời phối hợp đồng bộ, hài hòa và chặt chẽ với chính sách tài khóa cũng như các chính sách vĩ mô khác, nhằm hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng.

Tín dụng tích cực hỗ trợ nền kinh tế

Giữa bức tranh kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro từ bên ngoài, tín dụng nổi lên như một điểm sáng, phản ánh rõ nét sự hồi phục của nhu cầu vốn và khả năng điều hành linh hoạt của hệ thống ngân hàng.

Tín dụng phản ánh sự linh hoạt trong điều hành của hệ thống ngân hàng
Tín dụng phản ánh sự linh hoạt của hệ thống ngân hàng trong điều hành chính sách tiền tệ (Nguồn ảnh: Internet)

Nhằm tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, góp phần hỗ trợ nền kinh tế, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi theo chỉ đạo của NHNN và quán triệt tinh thần Công điện số 19/CĐ-TTg ngày 24/02/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải pháp giảm lãi suất. Mức giảm dao động từ 0,1 - 1,0%/năm, tùy theo kỳ hạn và hình thức gửi tiền.

Cùng với đó, các TCTD triển khai nhiều gói tín dụng ưu đãi nhằm kích cầu, đặc biệt tập trung vào cho vay tiêu dùng và cho vay nhà ở xã hội dành cho người nghèo, người có thu nhập thấp. Việc thúc đẩy tín dụng tiêu dùng được xác định là một trong ba động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế, bên cạnh đầu tư công và xuất khẩu, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Kết quả mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm; các TCTD đã công bố thông tin lãi suất cho vay trên website của ngân hàng nhằm cung cấp thêm thông tin cho khách hàng tham khảo khi tiếp cận vốn vay. Đến ngày 20/5/2025, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các NHTM ở mức 6,25%/năm, giảm 0,68%/năm so với cuối năm 2024.

NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tập trung triển khai hiệu quả chính sách tín dụng chung và tín dụng theo ngành, lĩnh vực. Một số nội dung trọng tâm gồm: (i) Tiếp tục thực hiện các giải pháp giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; (ii) Đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; đồng thời kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; (iii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, đồng thời sẵn sàng chia sẻ một phần lợi nhuận để giảm lãi suất, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn thuận lợi hơn; (iv) Tiếp tục triển khai các chương trình tín dụng chuyên biệt theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với một số ngành, lĩnh vực trọng điểm; (v) Xem xét điều chỉnh hạn mức tín dụng, tạo điều kiện tiếp cận vốn cho các ngành hàng thiết yếu, trong đó có ngành lúa gạo.

Tính đến ngày 19/5/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 16,49 triệu tỉ đồng, tăng 5,59% so với cuối năm 2024 và tăng 18,67% so với cùng kỳ năm trước (trong khi cùng kỳ năm 2024 chỉ tăng 2,41% so với cuối năm 2023).

Tín dụng tiếp tục giữ vai trò “đầu tàu” trong hoạt động của ngành Ngân hàng năm 2025, phản ánh sự chủ động, linh hoạt trong điều hành và khả năng phản ứng chính sách kịp thời của NHNN. Tuy nhiên, để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy bền vững cho tăng trưởng lợi nhuận và ổn định hệ thống, các TCTD cần chú trọng nâng cao năng lực nội tại, tối ưu hóa chi phí vốn và tăng cường khả năng thích ứng với biến động kinh tế vĩ mô.

Dù vẫn là điểm sáng trong bức tranh toàn ngành, tín dụng cũng đang đối mặt với không ít thách thức, đòi hỏi sự theo dõi sát sao và các giải pháp điều hành phù hợp trong thời gian tới.

Đẩy mạnh các chương trình tín dụng

Hiện nay, bên cạnh các NHTM nhà nước, một số NHTM cổ phần cũng đã đăng ký tham gia Chương trình tín dụng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững với tổng số vốn đăng ký bổ sung là 25.000 tỉ đồng. Như vậy, tổng quy mô chương trình đến thời điểm hiện tại đã đạt 145.000 tỉ đồng.

Qua thống kê, có 38/63 UBND tỉnh đã gửi văn bản hoặc công bố trên cổng thông tin điện tử về danh mục dự án tham gia Chương trình tín dụng cho vay nhà ở xã hội với tổng số 100 dự án. Đến ngày 31/3/2025, doanh số giải ngân của Chương trình đạt 3.652 tỉ đồng, trong đó 3.109,3 tỉ đồng cho chủ đầu tư tại 22 dự án; 542,7 tỉ đồng cho người mua nhà tại 21 dự án.

Thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, hướng tới mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt từ 8% trở lên, NHNN đã ban hành Văn bản số 2756/NHNN-TD ngày 15/4/2025 chỉ đạo các NHTM mở rộng Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản. Cụ thể, phạm vi và đối tượng thụ hưởng của Chương trình được mở rộng thành Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, với quy mô tín dụng nâng lên khoảng 100.000 tỉ đồng. Đây là bước đi quan trọng nhằm hỗ trợ các lĩnh vực sản xuất chủ lực, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Kết quả đến cuối tháng 4/2025, doanh số giải ngân lũy kế của Chương trình đạt trên 80.000 tỉ đồng cho gần 20.200 lượt khách hàng vay vốn, đạt khoảng 80% doanh số cam kết triển khai Chương trình (theo quy mô 100.000 tỉ đồng).

Chương trình tín dụng hỗ trợ liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long ngoài Agribank là ngân hàng chủ lực thực hiện và luôn sẵn sàng nguồn vốn cho vay, không giới hạn quy mô, còn có 6 NHTM đăng ký tham gia Chương trình trong giai đoạn thí điểm (đến hết năm 2025) với quy mô khoảng 16.300 tỉ đồng.

Mặc dù các NHTM đã sẵn sàng nguồn vốn để cho vay theo Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, tuy nhiên, đến cuối tháng 5/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường mới chỉ tổng hợp danh sách các hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp tham gia; chưa công bố danh mục vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và các mô hình liên kết lúa gạo. Do đó, các NHTM chưa thể triển khai cho vay có hỗ trợ lãi suất theo nội dung của Chương trình.

Dù chưa chính thức áp dụng chính sách ưu đãi lãi suất trong khuôn khổ Chương trình, các NHTM vẫn đang chủ động cho vay phục vụ sản xuất, chế biến, thu mua, tạm trữ và tiêu thụ lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 3 tháng đầu năm 2025, doanh số cho vay đạt khoảng 114.000 tỉ đồng; dư nợ đến cuối tháng 3/2025 đạt 127.000 tỉ đồng. Trong đó, dư nợ tín dụng phục vụ trồng trọt chiếm khoảng 18%; chế biến, bảo quản chiếm khoảng 12%; thu mua, tiêu thụ chiếm tỉ trọng lớn nhất với khoảng 70%.

Tiếp tục hỗ trợ, ưu tiên tăng trưởng kinh tế

Trong thời gian tới, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trọng tâm tập trung vào các nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Ngân hàng có trình độ chuyên môn, năng lực điều hành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ thuộc diện được sắp xếp, bố trí công tác mới sau quá trình tinh gọn bộ máy.

Thứ hai, theo dõi sát diễn biến kinh tế thế giới và trong nước, chủ động, linh hoạt và kịp thời trong điều hành chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ cần được phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm hỗ trợ ưu tiên tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, đồng thời góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và lạm phát, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Đồng thời, triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù cho một số ngành, lĩnh vực, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Thứ tư, theo dõi sát diễn biến thị trường vàng, triển khai các giải pháp ổn định thị trường theo đúng quy định pháp luật và chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm mục tiêu ổn định thị trường vàng và thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ. Đồng thời, trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

Thứ năm, thể chế hóa các quy định và xây dựng kế hoạch tổng thể nhằm triển khai hiệu quả Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”. Tập trung xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, triển khai phương án cơ cấu lại các NHTM đang được kiểm soát đặc biệt. Đồng thời, đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng và ngăn ngừa nợ xấu mới phát sinh.

Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các TCTD; tập trung vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Kiên quyết phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trên thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động thanh tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo tình hình triển khai Nghị quyết số 01/NQ-CP; hoạt động ngân hàng tháng 5/2025 của NHNN.

2. Báo cáo thống kê tình hình kinh tế - xã hội tháng 4/2025 và 4 tháng năm 2025 của Cục Thống kê (Bộ Tài chính).

ThS. Trần Trọng Triết
An Giang

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng