Tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Hoạt động ngân hàng
Trong bối cảnh sản xuất lương thực toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức khi thời tiết cực đoan làm sụt giảm sản lượng nông sản, các cuộc xung đột cả về quân sự và thương mại ngày càng leo thang… đe dọa đến an ninh lương thực toàn cầu, thì việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
aa

Tóm tắt: Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng, việc tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng cho các cá nhân và hộ gia đình trở thành một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, việc tăng cường tiếp cận tín dụng không chỉ giúp các cá nhân, hộ gia đình có thể tiếp cận nguồn vốn phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, mà còn góp phần nâng cao đời sống, thúc đẩy hoạt động sản xuất, tạo ra nhiều cơ hội phát triển bền vững. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024, từ đó, đề xuất các khuyến nghị nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng đối với cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững và hiệu quả.

Từ khóa: Tín dụng, tín dụng hộ gia đình, tín dụng nông thôn.

PERSONAL AND HOUSEHOLD CREDIT IN AGRICULTURAL AND RURAL AREAS IN THAI NGUYEN PROVINCE

Abstract: In the context of accelerating economic development and deepening international integration, enhancing access to credit for individuals and households has become a critical factor in promoting socio-economic stability and growth. In Thai Nguyen province, improving credit accessibility not only enables individuals and households to secure financial resources for consumption, production, and business activities, but also helps improve living standards, stimulate production, and create opportunities for sustainable development. This paper aims to analyze and evaluate the current status of individual and household credit in the agricultural and rural sector of Thai Nguyen province during the period 2018 - 2024, and propose recommendations to strengthen credit accessibility for individuals and households in the province, towards the goal of sustainable and effective socio-economic development.

Keywords: Credit, household credit, rural credit.

1. Giới thiệu

Nông nghiệp được coi là một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất của mọi nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trong đó, sản xuất nông nghiệp ở nông thôn vẫn chiếm tỉ trọng lớn, góp phần giải quyết việc làm cho đại đa số lao động. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy, nông dân ở khu vực nông thôn các nước đang phát triển vẫn đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng để tăng đầu tư cho sản xuất, nâng cao đời sống.

Thái Nguyên có nhiều tiềm năng và lợi thế trong phát triển ngành nông nghiệp với trên 60% dân số sống trong khu vực nông thôn. Năm 2024, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng 6,22% so với năm 2023. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,2%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm trong tốc độ tăng GRDP; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 5,93%, đóng góp 3,36 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,31%, đóng góp 2,74 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong 6 tháng đầu năm 2024 duy trì đà tăng trưởng tốt, nhưng do chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của cơn bão số 3 (bão Yagi xảy ra đầu tháng 9/2024) đã khiến tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 chỉ tăng 1,2% so với năm 2023, mức tăng thấp nhất từ năm 2018 trở lại đây1.

Trong bối cảnh sản xuất lương thực toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức khi thời tiết cực đoan làm sụt giảm sản lượng nông sản, các cuộc xung đột cả về quân sự và thương mại ngày càng leo thang… đe dọa đến an ninh lương thực toàn cầu, thì việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.

Nhận thức được vai trò quan trọng của tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn, xuất phát từ những lý do về mặt khoa học và thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng tín dụng cá nhân, hộ gia đình trong khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, từ đó đề xuất khuyến nghị nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

2. Thực trạng tín dụng cá nhân, hộ gia đình trong khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn. Tính đến ngày 31/12/2024, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 30 chi nhánh ngân hàng thương mại, 01 chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội, 01 chi nhánh ngân hàng phát triển khu vực Bắc Kạn - Thái Nguyên, 03 quỹ tín dụng nhân dân và 01 chi nhánh tổ chức tài chính vi mô. Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn đạt 118.658 tỉ đồng; dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đạt 118.369 tỉ đồng, tăng lần lượt 10,8% và 23,2% so với cuối năm 2023.

Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng của hệ thống ngân hàng. Đây là nguồn lực tài chính chủ yếu để các ngân hàng mở rộng tín dụng và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Biểu đồ 1: Huy động vốn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024

Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN
Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN

Biểu đồ 1 cho thấy huy động vốn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024 tăng trưởng liên tục về quy mô, song tốc độ tăng trưởng lại có dấu hiệu chậm dần qua các năm.

Cụ thể, tổng huy động vốn từ năm 2018 đến 2024 tăng đều từ 53.989 tỉ đồng lên 118.658 tỉ đồng. Trong đó, giai đoạn 2018 - 2019 ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng nhất với tốc độ 21,2%, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động huy động vốn trong giai đoạn này, nhờ vào điều kiện kinh tế thuận lợi, chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương, cũng như niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng.

Tuy nhiên, từ năm 2020 trở đi, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần. Đặc biệt trong giai đoạn 2020 - 2024, mức tăng trưởng giảm liên tục từ 13,4% xuống chỉ còn 10,8% vào năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu đến từ tác động của đại dịch Covid-19 khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, thu nhập của người dân bị ảnh hưởng, dẫn tới khả năng tiết kiệm và gửi tiền vào ngân hàng suy giảm. Bên cạnh đó, áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng gia tăng, sự phát triển của các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất động sản cũng khiến dòng tiền phân tán, làm giảm tốc độ tăng trưởng huy động vốn.

Hoạt động tín dụng

Biểu đồ 2: Dư nợ cho vay trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024

Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN
Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN

Biểu đồ 2 thể hiện hoạt động tín dụng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024 cho thấy xu hướng tăng trưởng liên tục về quy mô tín dụng, nhưng tốc độ tăng trưởng có sự biến động rõ rệt giữa các năm.

Tổng dư nợ cho vay trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên tăng từ 50.467 tỉ đồng năm 2018 lên 118.369 tỉ đồng năm 2024, thể hiện vai trò ngày càng quan trọng của hoạt động tín dụng trong phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng qua các năm không ổn định.

Giai đoạn 2018 - 2019, tốc độ tăng trưởng tín dụng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đạt 9,3%, sau đó tăng mạnh lên 13,2% vào năm 2019. Đến năm 2020, tác động của đại dịch Covid-19 khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, nhu cầu vay vốn giảm sút nên tốc độ tăng trưởng tín dụng trên địa bàn tỉnh giảm xuống còn 9,3%. Bước sang giai đoạn 2021 - 2024, tín dụng có sự phục hồi mạnh mẽ. Năm 2021, tăng trưởng tín dụng đạt 14,4% và tiếp tục tăng lên 16,2% vào năm 2022. Điều này phản ánh sự phục hồi của nền kinh tế sau đại dịch, doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, nhu cầu vay vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh tăng. Năm 2023, mặc dù tăng trưởng giảm nhẹ xuống 15,6%, nhưng đến năm 2024, tốc độ tăng trưởng tín dụng bứt phá mạnh mẽ, đạt mức cao nhất trong giai đoạn với 23,2% - cao hơn mức tăng trưởng tín dụng của toàn ngành Ngân hàng (15,08%). Nguyên nhân đến từ sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp, sự gia tăng đầu tư từ các doanh nghiệp FDI, cũng như nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Một trong những yếu tố tạo nên chuyển biến mạnh mẽ này là từ quyết sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã được các TCTD tích cực triển khai như: Chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; giảm lãi suất cho vay; xem xét cho khách hàng vay mới để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh… Cùng với đó là sự mở rộng các lĩnh vực đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại địa phương đã tăng sức cầu tín dụng.

Trong năm 2024, NHNN tiếp tục giữ nguyên mức lãi suất điều hành, đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất cho vay; yêu cầu các TCTD công khai lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân; cũng như thông tin về lãi suất cho vay các gói, chương trình tín dụng, sản phẩm (nếu có) trên trang thông tin điện tử của ngân hàng nhằm cung cấp thêm thông tin cho khách hàng tham khảo khi tiếp cận vốn vay. Đến cuối năm 2024, mặt bằng lãi suất cho vay đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại đã giảm 0,44% so với năm 2023.

Tín dụng nông nghiệp, nông thôn

Dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024 nhìn chung có xu hướng tăng đều qua các năm, thể hiện sự quan tâm và đẩy mạnh đầu tư của hệ thống TCTD vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể, dư nợ tăng từ 14.869 tỉ đồng năm 2018 lên 27.266 tỉ đồng năm 2024, tăng gần gấp đôi sau 7 năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tín dụng lại có sự biến động mạnh qua các năm.

Giai đoạn 2018 - 2020, tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức cao và ổn định; trung bình đạt 16,5%/năm. Sang năm 2021, tăng trưởng tín dụng trên địa bàn tỉnh giảm mạnh xuống còn 8,3%, phản ánh những khó khăn chung của nền kinh tế cũng như lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói iêng. Năm 2022, tăng trưởng tín dụng phục hồi lên 11,4%, nhưng đến năm 2023 lại giảm sâu, chỉ đạt 0,9% - mức thấp nhất trong cả giai đoạn. Điều này cho thấy tín dụng vào khu vực nông nghiệp, nông thôn gặp nhiều thách thức. Sang năm 2024, tín dụng nông nghiệp, nông thôn đã phục hồi trở lại, với mức tăng trưởng 11,2%, cho thấy tín hiệu tích cực và niềm tin vào sự phục hồi của lĩnh vực này (Biểu đồ 3).

Biểu đồ 3: Dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024

Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN
Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN

Nhìn chung, dù dư nợ tăng trưởng tốt nhưng sự biến động về tốc độ tăng trưởng tín dụng là vấn đề cần được quan tâm, đưa ra giải pháp nhằm đảm bảo dòng vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn được ổn định và bền vững hơn trong những năm tiếp theo.

Tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn

Dữ liệu về dư nợ và tăng trưởng tín dụng nông nghiệp, nông thôn của cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024 tại Bảng 1 cho thấy xu hướng tăng trưởng ổn định, nhưng có những biến động đáng chú ý trong từng giai đoạn.

Bảng 1: Dư nợ tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2018 - 2024

Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN
Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN

Cụ thể, dư nợ tín dụng của cá nhân, hộ gia đình tăng đều qua các năm, từ 12.358 tỉ đồng năm 2018 lên 22.186 tỉ đồng năm 2024, khẳng định vai trò quan trọng của nhóm đối tượng này trong tổng dư nợ. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cá nhân, hộ gia đình giai đoạn 2018 - 2020 duy trì ở mức khá cao và ổn định, dao động từ 9% đến 11,9%. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2021 - 2023, tăng trưởng tín dụng cá nhân bắt đầu chững lại, đặc biệt năm 2023 chỉ còn 8%, mức thấp nhất trong cả giai đoạn. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng nông nghiệp, nông thôn chung sụt giảm mạnh, từ 8,3% năm 2021 xuống chỉ còn 0,9% năm 2023. Nguyên nhân chính là do tác động của đại dịch Covid-19 kéo dài khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, thị trường tiêu thụ nông sản gặp khó khăn, giá cả bấp bênh làm giảm nhu cầu vay vốn.

Tín hiệu tích cực xuất hiện trở lại vào năm 2024 khi tăng trưởng tín dụng cá nhân phục hồi lên 10,9%, kéo theo tăng trưởng chung nông nghiệp, nông thôn đạt 11,2%. Điều này cho thấy niềm tin vào thị trường và sản xuất nông nghiệp đã dần được khôi phục, nhu cầu vay vốn tăng trở lại. Trong bối cảnh đó, có thể thấy rằng tín dụng cá nhân, hộ gia đình đóng vai trò là trụ cột giữ nhịp tăng trưởng cho tín dụng nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn.

Biểu đồ 4: Dư nợ và tăng trưởng tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn năm 2024 của một số tỉnh

Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN
Nguồn: Hệ thống báo cáo điện tử của NHNN

Biểu đồ 4 về dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn của cá nhân và hộ gia đình năm 2024 tại 6 tỉnh: Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh và Lạng Sơn, phản ánh rõ sự chênh lệch về quy mô tín dụng cũng như tốc độ tăng trưởng giữa các địa phương trong khu vực miền núi và Trung du Bắc Bộ.

Về quy mô dư nợ, Bắc Giang đứng đầu với con số 41.308 tỉ đồng, tiếp theo là Bắc Ninh (34.069 tỉ đồng) và Thái Nguyên (22.186 tỉ đồng). Các tỉnh còn lại như Lạng Sơn (17.113 tỉ đồng), Cao Bằng (7.656 tỉ đồng) và Bắc Kạn (5.752 tỉ đồng) có dư nợ thấp hơn đáng kể. Điều này phản ánh sự khác biệt trong năng lực sản xuất, phát triển kinh tế và nhu cầu vay vốn tín dụng giữa các địa phương. Đơn cử, Bắc Giang và Bắc Ninh là hai tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa cao, có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn nên nhu cầu vốn phục vụ mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao rất lớn.

Về tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng, Bắc Ninh dẫn đầu với mức tăng 11,7%, tiếp đến là Thái Nguyên (10,9%) và Lạng Sơn (10,1%). Ngược lại, Cao Bằng (3%) và Bắc Kạn (4,1%) có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. Bắc Giang dù có dư nợ cao nhất, nhưng tăng trưởng chỉ đạt 8,2%. Tốc độ tăng trưởng cao tại Bắc Ninh và Thái Nguyên được lý giải bởi đây là hai địa phương thu hút mạnh dòng vốn FDI, có nhiều dự án phát triển nông nghiệp công nghệ cao, dẫn đến nhu cầu tín dụng lớn.

Xu hướng chung cho thấy các địa phương có nền kinh tế phát triển, công nghiệp hóa mạnh, hạ tầng tốt sẽ có quy mô dư nợ và tốc độ tăng trưởng tín dụng nông nghiệp, nông thôn cao hơn. Ngược lại, các tỉnh miền núi sẽ có quy mô tín dụng nhỏ và tăng trưởng chậm. Điều này đòi hỏi cần có các chính sách tín dụng đặc thù, ưu đãi hơn cho vùng khó khăn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn một cách bền vững và đồng đều giữa các địa phương.

3. Một số khuyến nghị

Tín dụng của cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn 2018 - 2024 đã đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Trong thời gian tới, để thúc đẩy tín dụng cá nhân, hộ gia đình trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, bài viết đề xuất một số khuyến nghị sau:

Thứ nhất, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước

Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành hoàn thiện các quy định và tạo điều kiện cho TCTD khai thác hiệu quả Trung tâm Dữ liệu quốc gia, kết hợp với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) để cung ứng các dịch vụ, sản phẩm tài chính - ngân hàng ngày càng tiện ích, phổ biến với chi phí thấp.

Các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phối kết hợp chặt chẽ với các chi nhánh TCTD trên địa bàn để đảm bảo hỗ trợ tốt nhất người dân trong việc tiếp cận vốn tín dụng chính thức.

Tăng cường giáo dục tài chính cho cá nhân, hộ gia đình; tổ chức các chương trình đào tạo, tập huấn về quản lý tài chính, lập kế hoạch kinh doanh và sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay sẽ giúp người dân nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng tín dụng một cách hiệu quả.

Có thêm các chính sách ưu đãi, khuyến khích cá nhân, hộ gia đình mở rộng sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao; đồng thời tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và kết nối tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo động lực cho người dân yên tâm vay vốn đầu tư phát triển sản xuất.

Thứ hai, đối với chi nhánh TCTD

Đẩy mạnh ứng dụng Fintech để tăng hiệu quả và mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ tài chính đến các khu vực nông thôn; tiếp tục chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng để góp phần giảm chi phí hoạt động, từ đó có thêm điều kiện giảm lãi suất cho vay; đảm bảo an toàn hệ thống công nghệ thông tin, thanh toán điện tử, thanh toán thẻ trên địa bàn.

Phát triển các sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu của nông dân; các ngân hàng nên thiết kế thêm những sản phẩm tín dụng đặc thù, đáp ứng nhu cầu cụ thể, phù hợp với đặc thù của từng vùng sản xuất nông nghiệp, như các khoản vay ngắn hạn cho mùa vụ, vay trung và dài hạn cho đầu tư cơ sở hạ tầng nông nghiệp. ​

Phát triển các dịch vụ cho vay theo nhóm, trong đó, hộ gia đình có thể thành lập nhóm, cùng giúp nhau đảm bảo giá trị tài sản thế chấp các khoản vay, đồng thời san sẻ trách nhiệm trả nợ.

Nghiên cứu rút ngắn thời gian ra quyết định tín dụng và đơn giản hóa thủ tục cho vay; phát triển mạng lưới để người dân có thể tiếp cận vốn một cách thuận lợi hơn. Tăng cường sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể xã hội ở địa bàn nông thôn trong việc truyền tải các chính sách tín dụng ưu đãi tới người dân.

Thứ ba, đối với cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu tiếp cận tín dụng

Chủ động nắm bắt thông tin về các tổ chức cung ứng tín dụng chính thức trên địa bàn; tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức hội, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức tín dụng để có thể tiếp cận và sử dụng, quản lý vốn một cách chủ động, hiệu quả cho phát triển sản xuất, kinh doanh.

Tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, kinh doanh, đồng thời, nâng cao trình độ nhận thức về quản lý tài chính để có thể sử dụng đồng vốn vay một cách hiệu quả nhất.

Phát triển các mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản; tích cực tham gia vào các hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp trong chuỗi giá trị nông sản, từ đó tăng khả năng tiếp cận tín dụng và nâng cao hiệu quả sản xuất.

1 Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản so với cùng kỳ năm trước các năm từ 2018 đến 2024 lần lượt là 4,15%; 3,48%; 4,15%; 4,24%; 4,23%; 4,07%; 1,2%.

Tài liệu tham khảo:

1. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên (2024), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 12, quý IV và năm 2024 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

2. NHNN chi nhánh tỉnh Thái Nguyên (2024), Báo cáo kết quả hoạt động ngân hàng năm 2024.

3. NHNN (2024), Báo cáo kết quả hoạt động ngân hàng năm 2024 và phương hướng nhiệm vụ năm 2025.

4. NHNN (2018, 2019, 2020, 2021, 2022, 2023, 2024), Hệ thống báo cáo điện tử.

5. Tạ Nhật Linh (2019). Access to Rural Credit Markets in Developing Countries, the Case of Vietnam: A Literature Review, Sustainability.

6. Trần Thị Thanh Tú (2015). Determinant of Access to Rural Credit and Its Effect on Living Standard: Case Study about Poor Households in Northwest, Vietnam (Note 1), International Journal of Financial Research, Số 02, tập 6.

TS. Bùi Văn Khoa, TS. Ngô Thị Thu Mai
NHNN chi nhánh Khu vực 5

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14 thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14 thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn triển khai mạnh mẽ các giải pháp tín dụng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội địa phương, thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô