Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống
Tóm tắt: QTDND là mô hình tổ chức tín dụng (TCTD) hợp tác xã, giữ vai trò quan trọng trong cung ứng vốn cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần hạn chế tín dụng đen và bảo đảm an sinh xã hội ở cơ sở. Tuy nhiên, đặc điểm phân tán về quy mô, hạn chế về năng lực quản trị - điều hành có khả năng dẫn đến trường hợp QTDND rơi vào tình trạng yếu, kém, mất an toàn, phải đặt vào diện kiểm soát đặc biệt và xử lý theo các kịch bản cơ cấu lại hoặc phá sản. Bài viết phân tích bản chất và tính đặc thù của QTDND, khung pháp lý xử lý phá sản QTDND; làm rõ vai trò của NHNN, Co-opBank và BHTGVN trong các giai đoạn kiểm soát đặc biệt, thanh lý tài sản và chi trả tiền gửi. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường phòng ngừa rủi ro, hoàn thiện cơ chế giám sát dựa trên rủi ro và củng cố ổn định hệ thống QTDND theo hướng an toàn, bền vững.
Từ khóa: QTDND, phá sản, kiểm soát đặc biệt, bảo hiểm tiền gửi.
THE LEGAL FRAMEWORK FOR HANDLING THE BANKRUPTCY OF PEOPLE'S CREDIT FUNDS AIMS TO PROTECT DEPOSITORS AND SAFEGUARD SYSTEM STABILITY
Abstract: People's Credit Funds are cooperative credit institutions, playing an important role in providing capital to the agricultural and rural areas, contributing to limiting black credit and ensuring social security at the grassroots level. However, their decentralized scale and constraints in management and operational capacity may expose People's Credit Funds to weaknesses and instability, potentially requiring special supervision and subsequent restructuring or bankruptcy. This article examines the nature and unique characteristics of People’s Credit Funds, the legal framework governing their bankruptcy; clarifies the roles of the State Bank of Vietnam, Co-opBank, and Deposit Insurance of Vietnam in the stages of special control, asset liquidation, and deposit payment. On that basis, the article proposes a number of recommendations to strengthen risk prevention, improve the risk-based supervision mechanism and consolidate the stability of the People's Credit Fund system in a safe and sustainable direction.
Keywords: People's Credit Fund, bankruptcy, special control, deposit insurance.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh Luật Các TCTD năm 2024 được Quốc hội thông qua với nhiều quy định mới về xử lý TCTD yếu, kém, trong đó có cơ chế đặc thù đối với phá sản QTDND, yêu cầu hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và nâng cao hiệu quả thực thi đặt ra ngày càng cấp thiết. Đối với cơ quan quản lý, giám sát, việc hiểu rõ trình tự, điều kiện và các chủ thể tham gia trong từng giai đoạn kiểm soát đặc biệt, cơ cấu lại và phá sản QTDND là cơ sở để chủ động phòng ngừa, can thiệp sớm và xử lý rủi ro một cách trật tự, hạn chế tối đa tác động dây chuyền. Đối với bản thân các QTDND, khuôn khổ mới về xử lý phá sản không chỉ là công cụ kỷ luật thị trường mà còn là “hàng rào an toàn” bảo vệ người gửi tiền, nhất là người gửi tiền cá nhân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
2. Bản chất và tính đặc thù của QTDND trong hệ thống tài chính hợp tác xã
2.1. Vị thế và vai trò của QTDND
QTDND là mô hình TCTD hợp tác xã hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên. Trong nhiều năm qua, hệ thống QTDND đã trở thành kênh cung ứng vốn quan trọng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa - nơi người dân khó tiếp cận với dịch vụ ngân hàng thương mại.
Theo các báo cáo của NHNN và Co-opBank, QTDND hiện hoạt động tại hầu hết các tỉnh, thành phố; phục vụ hàng triệu thành viên, chủ yếu là hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh nhỏ. Mặc dù quy mô tổng tài sản và nguồn vốn chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong toàn hệ thống TCTD, QTDND đã góp phần đáng kể vào việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác và hạn chế tín dụng đen, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
Do gắn chặt với cộng đồng địa phương, niềm tin của người dân đối với QTDND không chỉ dựa trên uy tín tài chính mà còn dựa trên quan hệ xã hội, sự gắn kết cộng đồng và vai trò hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn.
2.2. Các rủi ro hệ thống và yếu tố có thể dẫn đến đổ vỡ
Bên cạnh vai trò tích cực, hoạt động của QTDND tiềm ẩn nhiều rủi ro cố hữu: Năng lực quản trị, điều hành tại một số QTDND còn hạn chế; cơ chế kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ có lúc, có nơi chưa phát huy hiệu quả; trình độ cán bộ còn chênh lệch khá lớn giữa các vùng và các quỹ; song song với đó, rủi ro về đạo đức (lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cho vay ưu đãi người có liên quan, thao túng quyết định tín dụng) vẫn là nguyên nhân chính dẫn đến yếu, kém, mất khả năng chi trả.
Thực tiễn cho thấy không ít QTDND rơi vào tình trạng mất an toàn do các nguyên nhân như: Mở rộng tín dụng vượt quá khả năng quản lý, giám sát; sử dụng vốn sai mục đích, đầu tư ngoài địa bàn, ngoài đối tượng; thiếu minh bạch trong hạch toán, trích lập dự phòng rủi ro...
Đáng chú ý, quy mô hoạt động giữa các QTDND rất phân tán: Nguồn vốn hoạt động có quỹ chỉ có vài tỉ đồng, nhưng cũng có quỹ lên đến hàng nghìn tỉ đồng. Trong khi đó, khung quy định an toàn được thiết kế áp dụng chung cho toàn hệ thống. Điều này tạo ra khoảng trống chính sách khi các QTDND quy mô lớn chỉ tuân thủ “mức tối thiểu” về an toàn, nhưng khi đổ vỡ lại có tác động rất lớn đến địa bàn và hệ thống.
Khi một QTDND mất khả năng thanh toán, hậu quả không chỉ dừng lại ở thiệt hại tài chính cho người gửi tiền, mà còn là sự đổ vỡ niềm tin của cộng đồng, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và ổn định xã hội. Vì vậy, việc xử lý QTDND yếu, kém luôn được đặt trong bối cảnh ưu tiên ổn định hệ thống và ổn định xã hội, chứ không chỉ nhìn dưới góc độ một doanh nghiệp phá sản thuần túy.
3. Khung pháp lý xử lý phá sản QTDND
3.1. Nền tảng pháp lý và tính đặc thù của phá sản TCTD
Khung pháp lý về xử lý QTDND yếu, kém và phá sản QTDND được thiết kế trên cơ sở kết hợp nhiều đạo luật và văn bản dưới luật, trong đó trụ cột là Luật Các TCTD năm 2024, Luật Phá sản năm 2014 (chương về phá sản TCTD), Luật BHTG, các nghị định của Chính phủ và thông tư của NHNN hướng dẫn kiểm soát đặc biệt, cơ cấu lại và xử lý TCTD yếu, kém.
TCTD nói chung và QTDND nói riêng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có thể tác động nhanh và sâu rộng tới an toàn hệ thống tài chính, ổn định kinh tế - xã hội. Do đó, quy trình phá sản TCTD mang tính đặc thù, chặt chẽ, có sự tham gia bắt buộc của NHNN, khác biệt căn bản so với thủ tục phá sản doanh nghiệp thông thường.
Luật Các TCTD năm 2024 đã hoàn thiện hành lang pháp lý việc nhận diện sớm TCTD yếu, kém; áp dụng các biện pháp can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt; cơ cấu lại thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại; trường hợp không thể phục hồi, chuyển sang phương án phá sản với cơ chế bảo vệ người gửi tiền chặt chẽ hơn.
3.2. Điều kiện tiên quyết để mở thủ tục phá sản QTDND
Theo Luật Phá sản năm 2014, QTDND được coi là lâm vào tình trạng phá sản khi không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn theo yêu cầu của chủ nợ. Tuy nhiên, đối với TCTD, thủ tục phá sản chỉ được khởi động khi đáp ứng điều kiện bổ sung từ phía cơ quan quản lý nhà nước.
Cụ thể, Tòa án chỉ thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản QTDND khi đã có văn bản của NHNN về việc chấm dứt kiểm soát đặc biệt và chấm dứt hoặc không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng chi trả.
Điều này khẳng định vai trò của NHNN là “người gác cổng” pháp lý: Chỉ khi các công cụ can thiệp hành chính (kiểm soát đặc biệt và các biện pháp phục hồi) đã được triển khai nhưng không đem lại kết quả, NHNN mới mở đường cho thủ tục tư pháp phá sản. Như vậy, phá sản QTDND là giải pháp cuối cùng, được áp dụng sau khi đã cân nhắc đầy đủ các phương án cơ cấu lại và hỗ trợ hệ thống.
3.3. Thủ tục tư pháp rút gọn và chủ thể yêu cầu phá sản
Thủ tục phá sản TCTD về cơ bản vẫn gồm các bước: Nộp đơn, mở thủ tục phá sản, quản lý và thanh lý tài sản, tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản quy định cơ chế rút gọn đặc thù đối với TCTD: Sau khi Tòa án quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán không áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, mà chuyển thẳng sang giai đoạn thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản.
Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản QTDND gồm: Chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần, người lao động, chủ sở hữu, thành viên góp vốn. Trong phạm vi chức năng, khi phát hiện QTDND lâm vào tình trạng phá sản, NHNN có trách nhiệm thông báo bằng văn bản để các chủ thể này xem xét thực hiện quyền yêu cầu phá sản theo quy định.
4. Kiểm soát đặc biệt - giai đoạn can thiệp hành chính bắt buộc
4.1. Căn cứ áp dụng kiểm soát đặc biệt
Kiểm soát đặc biệt là biện pháp hành chính - giám sát của NHNN đối với TCTD yếu, kém, trong đó có QTDND. QTDND có thể bị đặt vào diện kiểm soát đặc biệt khi rơi vào một hoặc nhiều trường hợp như: Nguy cơ mất khả năng chi trả, không bảo đảm các tỉ lệ an toàn thanh khoản trong một khoảng thời gian liên tục; tỉ lệ nợ xấu vượt các ngưỡng an toàn so với tổng dư nợ hoặc vốn tự có; lỗ lũy kế vượt quá giới hạn cho phép so với vốn điều lệ và các quỹ dự trữ; vi phạm nghiêm trọng các quy định về an toàn hoạt động và quản trị điều hành.
Dựa trên mức độ rủi ro và vi phạm, NHNN sẽ quyết định đặt QTDND vào diện giám sát tăng cường hoặc kiểm soát đặc biệt toàn diện, đồng thời giới hạn, thậm chí đình chỉ một số hoạt động nhất định của QTDND.
4.2. Ban Kiểm soát đặc biệt và cơ chế phối hợp
Ban Kiểm soát đặc biệt được thành lập theo quyết định của Thống đốc NHNN hoặc Giám đốc NHNN chi nhánh theo phân cấp, thành phần thường bao gồm: Đại diện NHNN (chủ trì); đại diện BHTGVN; đại diện Co-opBank khi QTDND là thành viên; một số cán bộ, chuyên gia ngân hàng; đại diện QTDND trong phạm vi không tạo xung đột lợi ích.
Ban Kiểm soát đặc biệt có nhiệm vụ: (i) Đánh giá toàn diện tình hình tài chính, hoạt động của QTDND; (ii) Yêu cầu QTDND xây dựng và triển khai phương án khắc phục; (iii) Kiểm soát, phê duyệt một số giao dịch quan trọng; (iv) Đề xuất NHNN tiếp tục, điều chỉnh hoặc chấm dứt kiểm soát đặc biệt; (v) Phối hợp với BHTGVN và Co-opBank xây dựng phương án xử lý khi QTDND không thể phục hồi, trong đó có phương án phá sản.
Sự tham gia của BHTGVN và Co-opBank ngay từ giai đoạn kiểm soát đặc biệt giúp các bên chủ động hơn trong chuẩn bị nguồn lực, xây dựng kịch bản chi trả tiền gửi và xử lý hệ quả khi QTDND phải phá sản.
4.3. Thời hạn và các kịch bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt
Thời hạn kiểm soát đặc biệt được xác định tối đa trong một khoảng thời gian nhất định (theo quy định của NHNN), có thể gia hạn trên cơ sở đánh giá kết quả khắc phục và mức độ rủi ro.
Kiểm soát đặc biệt chấm dứt khi: QTDND khắc phục được nguyên nhân yếu, kém, bảo đảm các tỉ lệ an toàn, được NHNN cho phép hoạt động bình thường trở lại; QTDND được tổ chức lại (sáp nhập, hợp nhất, mua lại…); QTDND không thể phục hồi, NHNN quyết định chấm dứt kiểm soát đặc biệt và lựa chọn phương án phá sản theo Luật Các TCTD năm 2024 và Luật Phá sản năm 2014.
5. Vai trò của Co-opBank trong xử lý QTDND yếu, kém
5.1. Nhiệm vụ điều hòa vốn và hỗ trợ hệ thống
Co-opBank là TCTD hợp tác đặc thù, do Nhà nước hỗ trợ vốn và giao nhiệm vụ làm đầu mối liên kết hệ thống QTDND. Co-opBank có các chức năng chính: Nhận tiền gửi và cho vay điều hòa vốn đối với QTDND thành viên; hỗ trợ thanh khoản cho QTDND gặp khó khăn tạm thời nhưng vẫn có khả năng phục hồi; cung cấp dịch vụ thanh toán, ngân hàng điện tử, hiện đại hóa công nghệ cho hệ thống QTDND; tham gia các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển QTDND.
Với vị thế này, Co-opBank vừa phải đảm bảo an toàn, hiệu quả kinh doanh, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị là giúp hệ thống QTDND phát triển an toàn, bền vững.
5.2. Trách nhiệm trong phương án xử lý và phá sản QTDND
Trong bối cảnh QTDND bị đặt vào diện kiểm soát đặc biệt, Co-opBank thường được NHNN chỉ định tham gia: Hỗ trợ vốn điều hòa, cho vay đặc biệt để xử lý tạm thời khó khăn thanh khoản; phối hợp rà soát chất lượng tài sản, xây dựng phương án tái cơ cấu; tham gia Ban Kiểm soát đặc biệt, cùng BHTGVN và NHNN xây dựng phương án xử lý, bao gồm cả phương án phá sản khi QTDND không thể phục hồi.
Luật Các TCTD năm 2024 chính thức ghi nhận và cụ thể hóa vai trò của Co-opBank trong việc hỗ trợ xử lý QTDND yếu, kém, đồng thời đặt ra yêu cầu phải phân tách rõ ràng giữa rủi ro hỗ trợ hệ thống và rủi ro kinh doanh thông thường, bảo đảm an toàn tài chính cho chính Co-opBank.
6. Thủ tục phá sản tư pháp và phân chia tài sản thanh lý
6.1. Quy trình thanh lý và tuyên bố phá sản
Sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt và chấm dứt (hoặc không áp dụng) biện pháp phục hồi, Tòa án nhân dân cấp tỉnh mới thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản QTDND.
Quy trình cơ bản gồm: (i) Mở thủ tục phá sản: Tòa án xem xét đủ điều kiện theo Luật Phá sản, ra quyết định mở thủ tục phá sản QTDND; (ii) Không áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh: Đối với TCTD, Tòa án chuyển thẳng sang giai đoạn thanh lý tài sản; (iii) Quản lý và thanh lý tài sản: Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được chỉ định để kiểm kê, định giá, xử lý tài sản; (iv) Tuyên bố phá sản: Sau khi phân chia tài sản theo thứ tự ưu tiên, Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản QTDND.
Thực tiễn cho thấy việc thanh lý tài sản QTDND gặp khó khăn do tài sản bảo đảm có tính thanh khoản thấp, giá trị thu hồi thường thấp hơn nhiều so với sổ sách, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán cho người gửi tiền và các chủ nợ khác.
6.2. Thứ tự ưu tiên phân chia tài sản
Thứ tự ưu tiên phân chia tài sản của QTDND phá sản được xác lập nhằm dung hòa mục tiêu bảo vệ hệ thống, bảo vệ người lao động và người gửi tiền. Khái quát, tài sản của QTDND phá sản được dùng để thanh toán theo thứ tự: (i) Các khoản vay đặc biệt, hỗ trợ thanh khoản nhằm bảo đảm an toàn hệ thống; (ii) Chi phí phá sản, chi phí quản lý và thanh lý tài sản; (iii) Các khoản nợ lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động; (iv) Các khoản phải trả người gửi tiền (sau khi BHTGVN đã chi trả trong hạn mức bảo hiểm); (v) Nghĩa vụ tài chính với Nhà nước; (vi) Các khoản nợ còn lại đối với chủ nợ khác; (vii) Chủ sở hữu, thành viên góp vốn (nếu còn tài sản).
Trong nhiều trường hợp, tài sản còn lại sau thanh lý không đủ để thanh toán hết cho người gửi tiền, đặc biệt là phần tiền gửi vượt hạn mức bảo hiểm, tạo áp lực lớn về xã hội và tâm lý. Đây là lý do Luật Các TCTD năm 2024 phải tăng cường cơ chế bảo vệ người gửi tiền thông qua công cụ bảo hiểm tiền gửi.
7. Cơ chế bảo vệ người gửi tiền theo Luật Các TCTD năm 2024
7.1. Hạn mức bảo hiểm tiền gửi linh hoạt
Trước đây, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định một hạn mức chi trả cố định đối với mỗi người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm. Trong bối cảnh nhiều người gửi tiền có số dư lớn, hạn mức này bị đánh giá là chưa bảo vệ đầy đủ.
Luật Các TCTD năm 2024 cho phép trong trường hợp QTDND bị kiểm soát đặc biệt và phải chuyển sang phá sản, có thể áp dụng cơ chế hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi linh hoạt: Ban Kiểm soát đặc biệt phối hợp với BHTGVN, Co-opBank và QTDND xây dựng phương án phá sản, trong đó có đề xuất hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi; NHNN trình Thủ tướng Chính phủ quyết định hạn mức chi trả tối đa, có thể lên tới tổng số tiền gửi được bảo hiểm của từng cá nhân tại QTDND.
Nhờ đó, người gửi tiền cá nhân tại QTDND có cơ hội được bảo vệ gần như toàn bộ số tiền gửi được bảo hiểm, giảm thiểu nguy cơ mất mát và bất ổn xã hội khi QTDND phá sản.
7.2. Gắn chi trả bảo hiểm tiền gửi với phương án phá sản
Cơ chế mới gắn chặt quy trình chi trả bảo hiểm tiền gửi với quá trình kiểm soát đặc biệt và xây dựng phương án phá sản: Trong giai đoạn kiểm soát đặc biệt, BHTGVN tham gia Ban Kiểm soát đặc biệt, nắm bắt đầy đủ thông tin về cơ cấu tiền gửi, chuẩn bị nguồn chi trả; hạn mức chi trả đặc thù được đề xuất trên cơ sở thực trạng QTDND và khả năng tài chính của BHTGVN, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Khi phương án phá sản được phê duyệt, BHTGVN phối hợp tổ chức chi trả cho người gửi tiền theo hạn mức đã được chấp thuận.
Cách thiết kế này giúp rút ngắn thời gian chi trả, tăng mức độ bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì niềm tin của công chúng đối với hệ thống QTDND.
8. Kết luận và một số khuyến nghị
8.1. Đánh giá chung
Khung pháp lý về xử lý QTDND yếu, kém và phá sản QTDND hiện nay đã được hoàn thiện theo hướng: Xác lập rõ vai trò trung tâm của NHNN trong nhận diện, can thiệp sớm và quyết định kịch bản xử lý; thiết kế cơ chế kiểm soát đặc biệt, cơ cấu lại gắn với trách nhiệm của Co-opBank và BHTGVN; bổ sung công cụ bảo hiểm tiền gửi linh hoạt theo Luật Các TCTD năm 2024, tăng cường bảo vệ người gửi tiền cá nhân.
Tuy vậy, việc triển khai thực tiễn vẫn đối mặt với không ít thách thức, như thời gian thanh lý tài sản kéo dài, giá trị thu hồi thấp, khó khăn trong xử lý trách nhiệm cá nhân liên quan và áp lực cân đối giữa mục tiêu bảo vệ hệ thống với kỷ luật thị trường.
8.2. Một số khuyến nghị
Để nâng cao hiệu quả xử lý QTDND yếu, kém, hạn chế tối đa phải phá sản, tác giả đề xuất xem xét một số khuyến nghị sau đây:
Thứ nhất, tăng cường phòng ngừa rủi ro đạo đức. Hoàn thiện tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, điều hành QTDND theo Luật Các TCTD năm 2024; siết chặt quản lý giao dịch với người có liên quan; nâng cao vai trò kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ.
Thứ hai, phát triển mô hình giám sát dựa trên rủi ro. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm đối với QTDND, gắn xếp hạng rủi ro với phân bổ nguồn lực thanh tra, giám sát; tăng cường giám sát từ xa kết hợp thanh tra tại chỗ.
Thứ ba, củng cố vai trò của Co-opBank và BHTGVN. Nâng cao năng lực tài chính và quản trị của Co-opBank để thực hiện tốt vai trò đầu mối liên kết; tăng cường năng lực phân tích, dự báo, chi trả của BHTGVN, rút ngắn thời gian chi trả và tối ưu hóa quy trình phối hợp.
Thứ tư, cải thiện cơ chế định giá và thanh lý tài sản. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về định giá, bán đấu giá tài sản bảo đảm, đặc biệt ở khu vực nông thôn; nâng cao minh bạch và cạnh tranh trong xử lý tài sản để tối đa hóa giá trị thu hồi.
Tóm lại, phá sản QTDND là công cụ cần thiết để bảo đảm kỷ luật thị trường, nhưng chỉ nên được sử dụng như “phương án cuối cùng” sau khi đã áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, can thiệp sớm và cơ cấu lại. Việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và củng cố vai trò của Co-opBank, BHTGVN sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo đảm hệ thống QTDND phát triển an toàn, lành mạnh, đóng góp hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2014), Luật Phá sản số 51/2014/QH13.
2. Quốc hội (2012), Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13.
3. Quốc hội (2024), Luật Các TCTD số 32/2024/QH15.
4. Thủ tướng Chính phủ (2024), Quyết định số 257/QĐ-TTg ngày 29/3/2024 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Các TCTD số 32/2024/QH15.
5. NHNN (2022), Thông tư số 08/2022/TT-NHNN ngày 30/6/2022 quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng.
6. BHTGVN (2024), các bài viết, báo cáo về vai trò của BHTGVN trong xử lý TCTD yếu, kém và bảo vệ người gửi tiền, https://www.div.gov.vn
7. Tạp chí Ngân hàng (2024 - 2025), một số bài viết về xử lý TCTD yếu, kém và bảo vệ người gửi tiền, Tạp chí điện tử Ngân hàng, https://tapchinganhang.gov.vn
Tin bài khác
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số