Nâng cao chất lượng thành viên của Quỹ tín dụng nhân dân - Góc nhìn từ phía các quy định kết nạp và quản lý thành viên

Hoạt động ngân hàng
Hiện nay, tại Việt Nam, có gần 1.200 Quỹ tín dụng Nhân dân (QTDND) đang hoạt động trên địa bàn 57/63 tỉnh, thành phố phục vụ cho hơn 1,6 triệu thành viên là các cá nhân, hộ gia đình ở khu vực nông ng...
aa

Hiện nay, tại Việt Nam, có gần 1.200 Quỹ tín dụng Nhân dân (QTDND) đang hoạt động trên địa bàn 57/63 tỉnh, thành phố phục vụ cho hơn 1,6 triệu thành viên là các cá nhân, hộ gia đình ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khó khăn, khó tiếp cận với các dịch vụ tài chính - ngân hàng...



Nâng cao chất lượng thành viên là yếu tố then chốt để QTDND phát triển ổn định và bền vững

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, tại Việt Nam, có gần 1.200 Quỹ tín dụng Nhân dân (QTDND) đang hoạt động trên địa bàn 57/63 tỉnh, thành phố phục vụ cho hơn 1,6 triệu thành viên là các cá nhân, hộ gia đình ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khó khăn, khó tiếp cận với các dịch vụ tài chính - ngân hàng. Hệ thống QTDND đã trở thành một động lực xóa đói giảm nghèo và đóng góp tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông nghiệp, nông thôn theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của hệ thống QTDND, trong thời gian qua, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật mới đối với hệ thống QTDND nhằm tạo ra bước chuyển cho hệ thống trước khi bước vào một giai đoạn phát triển mới. Việc chuẩn hóa các quy định liên quan đến hoạt động của hệ thống QTDND đã phát huy hiệu quả tích cực, trong đó có các quy định nhằm nâng cao chất lượng thành viên tại các QTDND. Tuy nhiên, vẫn có những quy định chưa có tiếng nói chung, sự đồng thuận của nhiều QTDND, đặc biệt là quy định về kết nạp thành viên mới tại các QTDND hiện nay. Bài viết sẽ phân tích vấn đề nâng cao chất lượng thành viên của QTDND dưới góc nhìn từ các quy định về kết nạp và quản lý thành viên, từ đó đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thành viên một cách bền vững, phù hợp với mô hình và đặc thù của hệ thống QTDND tại Việt Nam hiện nay.

2. Tổng quan về mô hình hoạt động của QTDND và thành viên của QTDND

2.1. Tổng quan về mô hình hoạt động của QTDND

QTDND là tổ chức tín dụng (TCTD) do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. QTDND hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống.

QTDND là loại hình TCTD hợp tác, được thành lập và hoạt động theo địa giới hành chính, đó là một xã, phường, thị trấn hoặc liên xã, phường, thị trấn... Các dịch vụ tài chính chủ yếu được hệ thống QTDND cung cấp cho người dân gồm: Huy động vốn, hoạt động cho vay, cung ứng các dịch vụ chuyển tiền, thực hiện các nghiệp vụ thu hộ, chi hộ cho các thành viên; nhận ủy thác và làm đại lý một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, quản lý tài sản theo quy định; gửi tiền tại Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) để điều hòa vốn, mở tài khoản thanh toán để sử dụng dịch vụ thanh toán tại NHHTX; cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính cho các thành viên, làm đại lý kinh doanh bảo hiểm.

Mô hình tổ chức hệ thống QTDND ở Việt Nam hình thành 2 cấp: cấp cơ sở bao gồm QTDND cơ sở và cấp liên kết (liên đoàn) là NHHTX. Về cơ bản, hai loại hình Hợp tác xã (HTX) tín dụng này đều tuân theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động giống nhau của một pháp nhân được tổ chức theo các nguyên tắc HTX, được hạch toán độc lập, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình, tuân thủ theo các quy định như: Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật HTX; Luật Các TCTD; Thông tư số 04/2015/TT-NHNN ngày 31/3/2015 của NHNN quy định về QTDND (Thông tư số 04/2015/TT-NHNN). Thông tư này quy định về việc cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, địa bàn hoạt động, quản trị, điều hành, kiểm soát, vốn điều lệ, vốn góp, chuyển nhượng vốn góp, hoàn trả vốn góp, thành viên, đại hội thành viên, hoạt động và quyền hạn, nghĩa vụ của QTDND. Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về NHHTX, QTDND và quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND (Thông tư số 21/2019/TT-NHNN)... Những nguyên tắc đó đảm bảo cho hệ thống QTDND phát triển an toàn, bền vững.

Từ khi ra đời cho đến nay, hệ thống QTDND đã khẳng định được vai trò của mình trong thúc đẩy các cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính cho người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn không ít QTDND hoạt động thiếu hiệu quả, có sai phạm gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín của hệ thống QTDND và an ninh tiền tệ tại địa phương. Vì vậy, trong thời gian qua, Chính phủ, NHNN ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật mới đối với hệ thống QTDND nhằm tạo ra bước chuyển cho hệ thống trước khi bước vào một giai đoạn phát triển mới. Nói cách khác, những giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại đang hiện hữu trong hệ thống QTDND và cũng là nền tảng để thực hiện đề án tái cơ cấu các TCTD, cũng như đề án cơ cấu lại hệ thống QTDND, góp phần bảo đảm ổn định, an toàn, lành mạnh và hiệu quả, tránh đổ vỡ hệ thống. Tuy nhiên, trong đó vẫn có những quy định chưa có tiếng nói chung, sự đồng thuận của không ít QTDND, đặc biệt là quy định về kết nạp thành viên mới tại các QTDND hiện nay.

2.2. Thành viên của QTDND

Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 04/2015/TT-NHNN quy định: Thành viên QTDND là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định tại Thông tư này và tán thành Điều lệ, tự nguyện tham gia góp vốn thành lập QTDND. Thành viên là một khái niệm pháp lý gắn chặt, đặc trưng và thể hiện bản chất mô hình hoạt động của QTDND. Hoạt động của QTDND chủ yếu xoay quanh và nhằm mục đích phục vụ thành viên của mình.

Về mối quan hệ giữa thành viên và QTDND: Khác với khách hàng của các TCTD khác, thành viên của QTDND vừa là khách hàng (vay vốn hoặc gửi tiết kiệm) vừa là cổ đông của QTDND. Điều này thể hiện ở vốn góp của thành viên vào QTDND, bao gồm: vốn góp xác lập tư cách thành viên và vốn góp thường niên (nay là vốn góp bổ sung). Theo quy định hiện nay, hoạt động cho vay của QTDND chủ yếu nhằm mục đích tương trợ giữa các thành viên để thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống của các thành viên QTDND. Ngoài ra, QTDND có thể cho vay một số thành viên khác như khách hàng là tổ chức, cá nhân không phải là thành viên, có tiền gửi tại QTDND trên cơ sở bảo đảm bằng số tiền gửi do chính QTDND phát hành; các hộ nghèo không phải là thành viên, đăng ký hộ khẩu và thường trú trên địa bàn hoạt động của QTDND.

Đối với hoạt động huy động vốn, QTDND được nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của thành viên, tổ chức, cá nhân khác bằng đồng Việt Nam. Tuy nhiên, tổng mức nhận tiền gửi từ thành viên của QTDND có địa bàn hoạt động trên một xã tối thiểu bằng 50% tổng mức nhận tiền gửi của QTDND; tổng mức nhận tiền gửi từ thành viên của QTDND có địa bàn hoạt động liên xã tối thiểu bằng 60% tổng mức nhận tiền gửi của QTDND; tổng mức nhận tiền gửi từ thành viên của QTDND có tổng tài sản 500 tỷ đồng trở lên tối thiểu bằng 70% tổng mức nhận tiền gửi của QTDND (khoản 19 Điều 2 Thông tư số 21/2019/TT-NHNN).

Căn cứ theo quy định và thực tế hoạt động thì các QTDND chủ yếu huy động và cho vay đối với các thành viên của mình. Điều đó cho thấy, hoạt động của QTDND phụ thuộc rất lớn vào quy mô số lượng và chất lượng của thành viên. Như vậy, có thể khẳng định, thành viên là trung tâm trong mọi hoạt động của QTDND. Muốn phát triển QTDND một cách bền vững thì phải xuất phát từ gốc rễ là phát triển bền vững hệ thống thành viên của QTDND.

Về mặt bản chất, QTDND là một liên minh của người dân, với mục tiêu cải thiện đời sống của họ thông qua tiếp cận các dịch vụ tài chính với giá cả phải chăng. Lợi nhuận do các QTDND tạo ra được trả lại cho các thành viên dưới hình thức giảm phí, lãi suất tiết kiệm cao hơn và lãi suất cho vay thấp hơn. Đây chính là bản chất “tương trợ”, là sứ mệnh hoạt động của QTDND, làm cho QTDND khác biệt so với các TCTD khác trên thị trường. Ngoài ra, thành viên còn tham gia giám sát quá trình hoạt động của chính QTDND.

3. Thực trạng vấn đề kết nạp và quản lý thành viên tại các QTDND trong thời gian qua

Xác định được tầm quan trọng của chất lượng thành viên đối với sự phát triển bền vững QTDND, NHNN đã ban hành và liên tục bổ sung các quy định về thành viên từ kết nạp, quản lý đến chấm dứt tư cách thành viên nhằm đưa hoạt động của các QTDND vào đúng bản chất và mục tiêu hoạt động của mô hình QTDND. Tuy nhiên, bên cạnh những quy định mang lại hiệu quả thiết thực, vẫn còn một số quy định về quản lý thành viên chưa được sự đồng thuận cao trong quá trình thực hiện của các QTDND.

Thứ nhất, quy định về mức vốn góp xác lập tư cách thành viên và vốn góp thường niên

Khi Thông tư số 04/2015/TT-NHNN ra đời, quy định về nâng số vốn góp xác lập tư cách thành viên tối thiểu là 300.000 đồng (có tăng hơn so với giai đoạn trước), không ít QTDND cho rằng quy định này phần nào tạo khó khăn cho việc kết nạp thành viên mới, đặc biệt là thành viên vay vốn. Bởi lẽ, lãi suất cho vay tại QTDND thường cao hơn phần lớn các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Nếu quy định tăng mức vốn góp xác lập tư cách thành viên thì các QTDND khó mở rộng cho vay đối với các thành viên mới. Tuy nhiên, xét dưới góc độ quản lý Nhà nước, quy định này sẽ hạn chế tình trạng thành viên ảo, có nghĩa là chỉ kết nạp vì mục tiêu vay vốn. Phần vốn góp của thành viên ở mức hợp lý sẽ góp phần nâng cao ý thức của thành viên về quyền và nghĩa vụ của mình đối với QTDND, mặt khác còn tạo sự gắn kết lâu dài, bền vững của thành viên với QTDND. Sau giai đoạn đầu, các QTDND còn một số lúng túng để thích ứng với quy định mới về mức góp vốn của thành viên thì đến nay việc kết nạp và quản lý thành viên của các QTDND đã đi vào quy củ và phát huy hiệu quả tích cực.

Thứ hai, quy định về thủ tục kết nạp thành viên mới

Theo quy định hiện nay, việc kết nạp thành viên mới phải thông qua Đại hội thành viên. QTDND không được cho vay các thành viên mới khi chưa được Đại hội thành viên thông qua. Quy định này nhằm đảm bảo chất lượng kết nạp thành viên tại các QTDND, hướng các QTDND hoạt động đúng sứ mệnh và mục tiêu của mình. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, quy định này cũng đã ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn vốn của người dân, tạo khó khăn nhất định cho QTDND (nhất là các QTDND mới thành lập) trong việc cho vay thành viên mới.

Cho dù còn nhiều tranh luận từ phía các QTDND, nhưng NHNN hoàn toàn có đủ cơ sở pháp lý cho việc ban hành quy định về kết nạp thành viên. Với vai trò cơ quan quản lý Nhà nước thì mục tiêu của các quy định kết nạp thành viên mới là rất rõ ràng. Tuy nhiên, có thể đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong việc kết nạp thành viên của các QTDND hiện nay như sau:

Thuận lợi:

Như đã phân tích ở trên, xét về mặt bản chất mô hình hoạt động của QTDND, thành viên luôn đóng vai trò trung tâm. Chất lượng thành viên là yếu tố quan trọng để thúc đẩy QTDND phát triển bền vững. Vì vậy, việc chuẩn hóa quy định kết nạp thành viên mới sẽ mang lại hiệu quả thiết thực cho QTDND về lâu dài, cụ thể:

- Góp phần hạn chế tình trạng kết nạp thành viên chỉ để phục vụ nhu cầu vay vốn tức thời, dẫn đến tình trạng thành viên ảo trong tương lai tại QTDND. Đây là một hiện tượng khá phổ biến tại các QTDND hiện nay.

- Thay đổi tư duy từ chính QTDND và chính thành viên tiềm năng của QTDND. Có nghĩa là việc tham gia thành viên của QTDND phải dựa trên cơ sở của việc hiểu về mô hình QTDND, quyền và lợi ích khi là thành viên của QTDND, chứ không phải đợi đến khi có nhu cầu vay vốn thì mới đăng ký làm thành viên của QTDND. Điều đó yêu cầu bản thân QTDND phải làm tốt công tác tuyên truyền, thu hút để phát triển thành viên mới một cách bài bản và có kế hoạch.

- Trao quyền duyệt danh sách kết nạp thành viên cho Đại hội thành viên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc xét duyệt, nâng cao chất lượng thành viên được kết nạp. Tránh việc các QTDND xem việc kết nạp thành viên chỉ là một thủ tục trong quy trình cho vay (đối với khách hàng mới) và nhiều trường hợp bản thân thành viên cũng không hiểu về quyền và nghĩa vụ

của mình.

Khó khăn:

Việc thực hiện kết nạp thành viên mới theo quy định hiện nay trong một số trường hợp có thể tạo ra độ trễ nhất định, phần nào tạo khó khăn cho hoạt động của QTDND, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Việc này đã ảnh hưởng đến khả năng phát triển thành viên, hiệu quả hoạt động của QTDND, đặc biệt là đối với các QTDND vừa mới thành lập, cụ thể là:

- Đối với việc phát triển thành viên từ người có nhu cầu vay vốn. Thực tế cho thấy, khi người dân có nhu cầu vay vốn thì mới đăng ký làm thành viên của QTDND để vay vốn. Việc phải chờ đến Đại hội mới đủ tư cách là thành viên để vay vốn sẽ tạo độ trễ cho việc đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân và vì vậy, không ít người dân có xu hướng từ chối vay vốn tại QTDND để tìm kiếm một kênh vay vốn khác thuận lợi hơn về thời gian.

- Đối với người dân có nhu cầu gửi tiền, việc vận động họ tham gia làm thành viên của QTDND trong bối cảnh hiện nay đã rất khó khăn, tuy nhiên khi vận động được lại phải chờ tới Đại hội thì lại càng khó khăn hơn cho QTDND.

- Việc theo dõi, hạch toán khoản tiền góp vốn cho đến khi trở thành thành viên chính thức rất phức tạp. Hơn nữa, hàng năm, QTDND thu tiền góp vốn của thành viên, đến cuối năm phải tính trả lãi thấp hơn lãi suất tiền gửi tối đa có kỳ hạn, không kỳ hạn của quỹ. Vấn đề này gây nhiều khó khăn cho QTDND trong việc phân mức, tính từng kỳ hạn để trả lãi cho thành viên.

Quy định kết nạp thành viên mới thể hiện rất rõ ràng ý chí của NHNN trong việc nâng cao chất lượng thành viên, từ đó đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống QTDND. Tuy nhiên, trong bối cảnh hệ thống QTDND tại Việt Nam chưa có sự phát triển đồng đều, nhiều QTDND mới thành lập không lâu nên việc áp dụng quy định kết nạp thành viên mới như đã nêu vẫn còn tạo ra những áp lực và khó khăn nhất định đến việc phát triển thành viên của QTDND.

4. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thành viên tại QTDND

Nâng cao chất lượng thành viên là yếu tố then chốt để QTDND phát triển ổn định và bền vững. Tuy nhiên, việc chuẩn hóa các quy định về việc kết nạp và quản lý thành viên không phải là giải pháp duy nhất để nâng cao chất lượng thành viên của QTDND. Việc kết nạp thành viên chỉ là bước đầu, để thành viên có thể phát triển tốt, gắn kết lâu dài với QTDND thì cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ. Tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:

Một là, nhóm giải pháp liên quan đến việc kết nạp và quản lý thành viên

Để đạt được mục tiêu vừa đảm bảo nâng cao chất lượng thành viên kết nạp, vừa tạo sự thuận lợi cho hoạt động phát triển thành viên của QTDND thì cần thực hiện theo lộ trình, từng bước điều chỉnh quy định kết nạp thành viên để phù hợp với đặc thù hoạt động của hệ thống QTDND trong bối cảnh tương quan với hoạt động của các TCTD khác, cụ thể là:

- Trong giai đoạn trước mắt, NHNN cần tạo điều kiện cho các QTDND được tổ chức Đại hội thành viên bất thường để tổ chức kết nạp thành viên mới. Quy định rõ đây là Đại hội bất thường theo chuyên đề kết nạp thành viên, vì vậy các điều kiện và quy định để tổ chức Đại hội bất thường phải phù hợp với mục đích kết nạp thành viên và có sự phân biệt với các Đại hội bất thường khác của QTDND. Việc tổ chức Đại hội bất thường để kết nạp thành viên phải tổ chức gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí cho QTDND nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu nâng cao chất lượng xét duyệt kết nạp thành viên. Ngoài ra, cần cho phép QTDND tự lựa chọn thời gian, số lần tổ chức Đại hội bất thường để kết nạp thành viên căn cứ vào yêu cầu thực tế của quỹ.

- Trong dài hạn, NHNN cần có sự khảo sát, đánh giá hiệu quả của việc yêu cầu kết nạp thành viên mới phải thông qua Đại hội thành viên. Trường hợp nhận thấy các quy định này không thật sự tác động lớn vào việc nâng cao chất lượng thành viên, trong khi làm tăng chi phí và độ trễ hoạt động phát triển thành viên, ảnh hưởng đến hoạt động của QTDND thì NHNN nên có sự điều chỉnh theo hướng trao quyền cho Hội đồng quản trị chủ động kết nạp thành viên trong kế hoạch tăng thêm hàng năm đã được Đại hội thường niên thông qua. Theo đó, chỉnh sửa điểm 4a khoản 15 Điều 2 Thông tư số 21/2019/TT-NHNN thành “Đại hội ủy quyền cho Hội đồng quản trị kết nạp thành viên, cho ra thành viên sau khi đã lập danh sách, thẩm định điều kiện thành viên xin tham gia và báo cáo Đại hội”. Quy định như vậy không trái với quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 80 Luật Các TCTD và quy định pháp luật hiện hành về ủy quyền: “Đại hội là cơ quan cao nhất của pháp nhân QTDND. Chủ tịch Hội đồng quản trị/hoặc Giám đốc là thành viên Hội đồng quản trị là người đại diện pháp nhân”. Bộ luật Dân sự không cấm Đại hội ủy quyền cho người đại diện pháp nhân, vì đây là quan hệ dân sự.

Hai là, nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và sự gắn kết của thành viên với QTDND

Đây là nhóm giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thành viên của QTDND một cách bền vững, tạo sự gắn kết lâu dài giữa thành viên và QTDND. Yếu tố này có vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững của mô hình QTDND. Các giải pháp này bao gồm:

- Đẩy mạnh triển khai giáo dục tài chính cho thành viên của QTDND: Đối với hệ thống QTDND tại Việt Nam, với đặc thù khách hàng chủ yếu là đối tượng người có thu nhập thấp, phần lớn ở khu vực nông thôn. Do đó, khách hàng tại các QTDND là đối tượng rất cần được tiếp cận chương trình giáo dục tài chính, vì nó sẽ mang lại những lợi ích thiết thực, góp phần tăng sự gắn kết bền vững giữa thành viên và QTDND, nâng cao chất lượng của thành viên, cụ thể là:

+ Giáo dục tài chính giúp các khách hàng phân tích được các quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong quá trình sử dụng các dịch vụ tài chính của QTDND nói riêng và các dịch vụ tài chính nói chung. Trong đó, hiểu về mô hình hoạt động của QTDND, quyền và lợi ích của thành viên là yếu tố rất quan trọng tạo sự gắn kết bền vững và có hiệu quả giữa QTDND và khách hàng.

+ Giáo dục tài chính giúp cho các khách hàng của QTDND hiểu được các khái niệm cơ bản về tài chính, từ đó hiểu được cách thức quản lý tài chính hộ gia đình. Đây là những kỹ năng quan trọng góp phần đảm bảo ổn định và bền vững trong đời sống gia đình, đặc biệt là các gia đình có thu nhập thấp, gia đình ở nông thôn. Hiểu và vận dụng tốt việc quản lý các dòng thu nhập, chi tiêu, có ý thức và thói quen tiết kiệm còn là cơ sở để nâng cao trách nhiệm và khả năng trả nợ trong trường hợp khách hàng có vay vốn tại QTDND.

+ Giáo dục tài chính góp phần nâng cao các kiến thức và kỹ năng kinh doanh của thành viên, từ đó cải thiện những công việc kinh doanh hiện tại của họ, hiệu quả sản xuất kinh doanh được gia tăng. Kiến thức về kinh doanh sẽ giúp khách hàng vay vốn tại QTDND có điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay thông qua việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tính toán thu nhập - chi phí để sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả; biết cách xây dựng phương án vay vốn, lựa chọn sản phẩm vốn vay phù hợp với đặc thù gia đình và năng lực trả nợ.

- Phát triển theo đúng mô hình và sứ mệnh của QTDND: Như đã phân tích, về mặt bản chất, QTDND là một liên minh của người dân với mục tiêu cải thiện đời sống của họ thông qua tiếp cận các dịch vụ tài chính với giá cả phải chăng. Lợi nhuận do các QTDND tạo ra phải được trả lại cho các thành viên dưới hình thức giảm phí, lãi suất tiết kiệm cao hơn và lãi suất cho vay thấp hơn. Đây chính là bản chất “tương trợ”, là sứ mệnh hoạt động của QTDND, làm cho QTDND khác biệt so với các TCTD khác trên thị trường. Như vậy, để thu hút thành viên, cũng như tạo sự gắn kết bền vững của thành viên với QTDND thì bản thân các QTDND phải thực hiện đúng sứ mệnh của mình, trong đó lấy thành viên làm trung tâm của hoạt động, có nhiều chính sách ưu đãi cho thành viên của mình. Việc các QTDND xa rời sứ mệnh hoạt động này, kéo dãn khoảng cách giữa lãi suất tiết kiệm và lãi suất cho vay đối với thành viên vì mục tiêu lợi nhuận, tạo ra tình trạng thành viên không mặn mà, thiếu gắn kết lâu dài với QTDND.

5. Kết luận

Đề án củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thống đốc NHNN phê duyệt ngày 30/01/2019 (Quyết định số 209/QĐ-NHNN) đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu về việc tổ chức hoạt động của QTDND phải đảm bảo bản chất mô hình kinh tế tập thể, gắn với mục tiêu tương trợ giữa các thành viên, tăng cường gắn kết trách nhiệm và quyền lợi giữa các thành viên của QTDND. Như vậy, các quy định về việc kết nạp, quản lý thành viên tại các QTDND theo hướng ngày càng chuẩn hóa, gần đây nhất là các quy định tại Thông tư số 21/2019/TT-NHNN là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc kết nạp thành viên chỉ là bước đầu, để thành viên có thể phát triển tốt, gắn kết lâu dài với QTDND thì cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ. Ngoài ra, các quy định cần có sự nghiên cứu, bổ sung để phù hợp với bối cảnh hệ thống QTDND tại Việt Nam chưa có sự phát triển đồng đều, đặc biệt là đối với các QTDND mới thành lập.

Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định số 209/QĐ-NHNN ngày 31/01/2019 của Thống đốc NHNN phê duyệt Đề án củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

2. Thông tư số 04/2015/TT-NHNN ngày 31/3/2015 của NHNN quy định về QTDND.

3. Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về NHHTX, QTDND và quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND.

4. https://thoibaonganhang.vn/nang-cao-chat-luong-tin-dung-tai-quy-tin-dung-nhan-dan-108269.html.

5.https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/phat-trien-tai-chinh-ca-nhan-cua-ho-gia-dinh-o-nong-thon-thong-qua-quy-tin-dung-nhan-dan-329211.html.

6.http://baochinhphu.vn/Tra-loi-cong-dan/Ngan-hang-Nha-nuoc-ghi-nhan-kien-nghi-cua-quy-tin-dung-nhan-dan/378211.vgp.

7.https://www.mycreditunion.gov/about-credit-unions/credit-union-different-than-a-bank.



PGS., TS. Mai Thanh Quế - Học viện Ngân hàng

TS. Trần Thanh Long - Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc