Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Công nghệ & ngân hàng số
Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
aa
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Triển khai Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ), NHNN đã ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của NHNN).

Quán triệt nội dung, tinh thần tại Nghị quyết số 57-NQ-TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Chính phủ, mới đây, NHNN đã ban hành Kế hoạch triển khai của ngành Ngân hàng tại Quyết định số 1364/QĐ-NHNN ngày 05/3/2025 triển khai Nghị quyết số 57-NQ-TW và Nghị quyết số 03/NQ-CP. Quan điểm xuyên suốt trong triển khai là “lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm và định hướng chuyển đổi số, cải cách hành chính ngành Ngân hàng; lấy trải nghiệm khách hàng là thước đo”.

Nhiều ngân hàng đạt tỉ lệ trên 95% giao dịch thực hiện trên kênh số

Thời gian qua, NHNN đã trình cấp thẩm quyền ban hành và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) và chuyển đổi số ngân hàng như: Xây dựng, tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2024 quy định về TTKDTM; ban hành 64 thông tư trong năm 2024 quy định chi tiết, hướng dẫn Luật Các TCTD và quy định chi tiết nội dung tại Nghị định số 52/2024/NĐ-CP và các văn bản khác; ban hành Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán Việt Nam đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 234/QĐ-NHNN ngày 19/02/2024 của NHNN), góp phần định hướng phát triển thanh toán số tại Việt Nam...

Hàng năm, NHNN đã ban hành các chỉ thị về đẩy mạnh chuyển đổi số; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng và nhiều công văn cảnh báo về an ninh, an toàn thông tin; thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin giám sát với Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia và Trung tâm Giám sát an ninh mạng quốc gia (Bộ Công an); tham gia các hoạt động của mạng lưới ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia; thiết lập Mạng lưới ứng cứu sự cố an ninh công nghệ thông tin ngành Ngân hàng (gồm các TCTD, trung gian thanh toán).

Về hạ tầng công nghệ số, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (TTLNH) hoạt động ổn định, an toàn, năm 2024 đã xử lý được 125 triệu giao dịch VND với tổng giá trị đạt 234 triệu tỉ đồng, tăng 7,43% về số lượng giao dịch và tăng 32,90% về tổng giá trị giao dịch so với năm 2023. Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử cung ứng khả năng thanh toán theo thời gian thực, hoạt động liên tục 24/7, xử lý giao dịch đa kênh, đa phương tiện, năm 2024, giao dịch qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 29,69% về số lượng và 15,12% về giá trị so với cùng kỳ 2023. Trong hai tháng đầu năm 2025, hệ thống TTLNH tăng 10,85% về số lượng và tăng 32,02% về giá trị; qua hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 11,36% về số lượng và 0,31% về giá trị.

Theo NHNN, đến nay, hầu hết dịch vụ ngân hàng cơ bản đã được thực hiện trên kênh số, nhiều ngân hàng đạt tỉ lệ trên 95% giao dịch thực hiện trên kênh số. Số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân đạt hơn 200 triệu tài khoản. Khoảng 57% TCTD đã thí điểm và triển khai rộng rãi mô hình chi nhánh tự phục vụ cho phép khách hàng thực hiện định danh, đăng ký thông tin sinh trắc học. Hầu hết ngân hàng đã ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, học máy và đưa các dịch vụ tư vấn tự động 24/7 thông qua các hội thoại trên ứng dụng mobile, website. Hơn 70% các TCTD đã và đang triển khai hệ thống Data Warehouse (kho dữ liệu) để phục vụ chấm điểm tín dụng tự động, tối ưu hóa quy trình, nâng cao trải nghiệm khách hàng…

Năm 2024, số lượng giao dịch TTKDTM đạt 17,77 tỉ giao dịch với giá trị đạt 295,18 triệu tỉ đồng (tăng 56,68% về số lượng và 32,79% về giá trị). Trong hai tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm 2024, giao dịch TTKDTM tăng 41,28% về số lượng và 21,91% về giá trị; qua kênh Internet tăng 35,81% về số lượng và 29,69% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 35,13% về số lượng và 18,63% về giá trị, giao dịch qua QR Code tăng 75,54% về số lượng và 196,62% về giá trị.

Trong xây dựng và triển khai Chính phủ điện tử, NHNN tiếp tục thực hiện tích hợp, kết nối Cổng dịch vụ công (DVC), hệ thống thông tin một cửa điện tử với các hệ thống liên quan theo yêu cầu của Chính phủ và phục vụ yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính của NHNN; từng bước số hóa, điện tử hóa quy trình tiếp nhận, xử lý và trả kết quả hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của NHNN tại bộ phận một cửa.

Đồng thời, NHNN phối hợp với Bộ Công an trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030) và đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo thuận lợi cho các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, bảo mật, tiện ích, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, qua đó phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho đời sống của người dân. Cụ thể, NHNN đã triển khai hệ thống kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC) cho hệ thống dịch vụ công trực tuyến (cấp chứng thư số); đã kết nối kỹ thuật và hoàn thành việc xây dựng hệ thống thông tin kết nối, khai thác CSDLQGvDC phục vụ việc quản lý Nhà nước về phòng, chống rửa tiền. Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) đã phối hợp với Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06) Bộ Công an thực hiện 06 đợt rà soát, đối chiếu dữ liệu theo phương thức offline khoảng 57 triệu lượt hồ sơ khách hàng vay.

Theo NHNN, tính đến hết ngày 11/4/2025, toàn ngành Ngân hàng đã có hơn 108,1 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân (CIF) được đối chiếu sinh trắc học qua căn cước công dân (CCCD) gắn chíp hoặc ứng dụng VNeID, trong đó: 60 TCTD đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp qua thiết bị tại quầy; 56 TCTD và 39 tổ chức trung gian thanh toán đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắp chíp qua ứng dụng điện thoại; 32 TCTD và 15 tổ chức trung gian thanh toán đang triển khai ứng dụng VNeID trong đó có 18 đơn vị đã triển khai thực tế.

Hóa giải thách thức trong chuyển đổi số ngân hàng

Mặc dù gặt hái được nhiều “trái ngọt” nhưng quá trình chuyển đổi số ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Chi phí đầu tư cho hạ tầng công nghệ và chuyển đổi số rất lớn trong khi nguồn lực tài chính của một số TCTD còn hạn chế. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực then chốt (kiến trúc giải pháp, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây...) còn thiếu, khó tuyển dụng và giữ chân.

Bên cạnh đó, xu hướng gia tăng tội phạm sử dụng công nghệ cao và lừa đảo với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp đặt ra nhiều khó khăn cho việc đảm bảo an toàn bảo mật hệ thống công nghệ, duy trì hoạt động thanh toán được thực hiện liên tục, an toàn; đồng thời cũng tiềm ẩn rủi ro tội phạm lợi dụng sử dụng dịch vụ thanh toán cho các hành vi gian lận, lừa đảo, mục đích bất hợp pháp, chưa kể những lo ngại về an toàn thông tin khi ứng dụng dữ liệu dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử với ngành Ngân hàng. Nếu dữ liệu cá nhân, thông tin tài chính của công dân bị lộ, hoặc sử dụng sai mục đích có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, từ xâm phạm quyền riêng tư đến các hành vi lừa đảo, gian lận tài chính. Do đó, việc sử dụng dữ liệu phải tuân thủ các quy định về pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên nhất là các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Hơn nữa, trước tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập kinh tế quốc tế, xuất hiện những vấn đề mới, phức tạp cần được đánh giá kỹ tác động chính sách và sự phù hợp với thực tế, cũng như liên quan đến nhiều lĩnh vực trong và ngoài Ngành, từ đó có thể ảnh hưởng đến tiến độ của việc xây dựng và ban hành chính sách.

Ngoài ra, thói quen sử dụng tiền mặt của không ít người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và tâm lý e ngại của một bộ phận người dân khi tiếp cận với công nghệ thanh toán mới cùng với lo ngại về an ninh an toàn khi sử dụng các phương thức thanh toán trực tuyến cũng là một trở ngại. Chưa kể, vẫn còn một bộ phận khách hàng do thiếu thông tin, chưa ý thức được đầy đủ sự quan trọng của việc bảo mật thông tin, dữ liệu cá nhân, hậu quả của hành vi cho thuê, cho mượn, mua bán thông tin tài khoản, thẻ ngân hàng... dẫn đến tội phạm lợi dụng cho mục đích gian lận, lừa đảo, bất hợp pháp.

Về phía NHNN, thời gian tới, để chuyển đổi số ngân hàng tiếp tục góp phần kiến tạo nền kinh tế số, hiện thực hóa các mục tiêu của chuyển đổi số quốc gia, NHNN cần tiếp tục:

Thứ nhất, về hành lang pháp lý, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để bổ sung, sửa đổi theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.

Thứ hai, về mặt công nghệ, nghiên cứu, xây dựng các kho dữ liệu dùng chung cho ngành Ngân hàng để hướng tới các quyết định dựa trên dữ liệu. Tiến tới triển khai các hạ tầng tính toán, lưu trữ, dữ liệu, ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển các hạ tầng dùng chung của Ngành như hạ tầng thanh toán, hạ tầng thông tin tín dụng, các kho dữ liệu chuyên ngành để làm hạt nhân và theo kịp được nhu cầu phát triển các TCTD, trung gian thanh toán. Hoàn thiện hạ tầng công nghệ phục vụ chuyển đổi số, tăng cường kết nối, hợp tác với các ngành, lĩnh vực khác (kết nối CSDLQGvDC, cơ sở dữ liệu căn cước, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác...) nhằm tạo thuận lợi cho việc tích hợp, kết nối, chia sẻ thông tin với các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để mở rộng hệ sinh thái số và phát triển dịch vụ ngân hàng số, thanh toán số.

Thứ ba, triển khai mở rộng việc kết nối, khai thác hệ thống SIMO (hệ thống giám sát các tài khoản thanh toán, ví điện tử nghi ngờ gian lận, giả mạo) cũng như kết nối, khai thác nguồn dữ liệu về danh sách tài khoản đã tham gia vào quá trình luân chuyển dòng tiền lừa đảo được Bộ Công an thu thập, chia sẻ để cảnh báo đến khách hàng khi thực hiện các giao dịch thanh toán trực tuyến.

Thứ tư, tiếp tục giám sát, đôn đốc các đơn vị trong ngành Ngân hàng thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, triển khai Đề án 06 tại Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW bảo đảm tiến độ, chất lượng.

Thứ năm, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an và các bộ, ngành để triển khai các nhiệm vụ tại Đề án 06, Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNNVN về triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06, Đề án chuyển đổi số của NHNN triển khai tiện ích cốt lõi phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm kết nối với Đề án 06.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế để cập nhật công nghệ mới, kinh nghiệm về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng; tham gia các diễn đàn, hội nghị, mạng lưới quốc tế về chuyển đổi số, tài chính số, an toàn thông tin; tăng cường hợp tác trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, giao diện lập trình mở (Open API)…

Về phía các TCTD, trung gian thanh toán, cần tăng cường công tác bảo đảm an ninh, an toàn, giảm thiểu tối đa các rủi ro phát sinh trong quá trình cung ứng, thực hiện các hoạt động ngân hàng trên môi trường số. Nghiên cứu triển khai nền tảng ngân hàng lõi kỹ thuật số hiện đại cho phép các ngân hàng hoạt động nhanh hơn, thông minh hơn và theo cách tiết kiệm chi phí, dễ dàng mở rộng quy mô và sản phẩm. Đẩy mạnh triển khai ngân hàng mở, Open API nhằm tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ đổi mới sáng tạo phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Tăng cường triển khai các dịch vụ (mở tài khoản, cho vay, bảo lãnh…) bằng phương tiện điện tử nhằm nâng cao trải nghiệm của khách hàng (giao dịch 24/7, mọi lúc mọi nơi); triển khai lưu trữ chứng từ điện tử giúp tiết kiệm chi phí, rút ngắn thủ tục, thời gian phục vụ khách hàng và nâng cao hiệu quả khai thác, tra cứu. Hoàn thành đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của chủ tài khoản thanh toán, ví điện tử hoặc người đại diện hợp pháp. Thúc đẩy cho vay bằng phương tiện điện tử hướng tới tự động hóa toàn bộ quy trình để rút ngắn thời gian cho vay. Ứng dụng dữ liệu từ CSDLQGvDC trong đánh giá khách hàng vay. Tăng cường sử dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các công nghệ mới nhằm cung cấp dịch vụ cá nhân hóa nâng cao trải nghiệm khách hàng; phát hiện giao dịch gian lận, lừa đảo. Triển khai gói tín dụng cho vay doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, công nghệ số theo quy định.

Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế về công nghệ số; thực hiện hợp tác về an ninh, bảo mật, phòng chống rủi ro mạng và gian lận quốc tế. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin. Tiếp tục phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Công an trong công tác rà soát đối tượng nghi ngờ, giả mạo giấy tờ với dữ liệu sinh trắc của CCCD phục vụ công tác phòng, chống tội phạm.

Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, thông tin đến khách hàng dưới nhiều hình thức để hướng dẫn, nâng cao nhận thức, kỹ năng cho khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường mạng./.

Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

2. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

3. Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW.

4. Nghị định 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2024 của Chính phủ quy định về thanh toán không dùng tiền mặt.

Thanh Phương
NHNN

Tin bài khác

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - tài chính khiến đồng nội tệ mất giá và niềm tin suy yếu, tiền mã hóa thường nổi lên như lựa chọn bảo toàn sức mua. Các cú sốc vĩ mô có thể đóng vai trò chất xúc tác thúc đẩy mở rộng hệ sinh thái tài sản mã hóa (hay tiền mã hóa).
Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Trong ngành Ngân hàng, sự hội tụ của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo không chỉ nâng cao hiệu quả vận hành mà còn củng cố quản trị rủi ro từ việc số hóa hồ sơ đến dự báo biến động thị trường. Bài viết sau đây tập trung vào ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong quản lý tài sản tại ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Việc triển khai rCBDC cũng đặt ra nhiều thách thức, bao gồm nguy cơ phi trung gian hóa ngân hàng, yêu cầu về hạ tầng công nghệ an toàn và bảo mật cao, cũng như vấn đề niềm tin của công chúng. Bên cạnh đó, việc cho phép sử dụng rCBDC trong giao dịch xuyên biên giới có thể tiềm ẩn rủi ro đối với dòng vốn và ổn định tiền tệ quốc gia.
Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC), căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia. Việc tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích cho cả hệ thống quản lý nhà nước và dịch vụ tài chính - ngân hàng, từ cải thiện tính chính xác trong xác thực, đến nâng cao trải nghiệm khách hàng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế số.
Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Blockchain không chỉ là một công nghệ hỗ trợ mà còn có thể trở thành hạ tầng cốt lõi cho quá trình chuyển đổi số ngành tài chính - ngân hàng. Trong một thế giới mà giao dịch được thực hiện từ xa, khách hàng không cần đến quầy giao dịch và mọi dữ liệu đều có thể được xác minh tức thời, thì danh tính số là “chìa khóa” mở ra toàn bộ hệ sinh thái tài chính kỹ thuật số.
“Bẫy năng suất AI”: Khi công nghệ thông minh tạo ra áp lực vô tận

“Bẫy năng suất AI”: Khi công nghệ thông minh tạo ra áp lực vô tận

Bài viết này sẽ phân tích chi tiết “bẫy năng suất AI”, từ cơ chế hoạt động và các biểu hiện thực tế trong môi trường doanh nghiệp đến những tác động tâm lý và xã hội mà nó gây ra. Mục tiêu là làm rõ lý do tại sao một công nghệ được thiết kế để giảm tải công việc lại có thể tạo ra những áp lực mới đối với người lao động, và tại sao nhận thức về nghịch lý này lại quan trọng đối với tương lai công việc trong thời đại AI.
Bảo đảm an toàn khi cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng trong thời đại số

Bảo đảm an toàn khi cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng trong thời đại số

Trước xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, khó lường, để bảo đảm an toàn trong cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số, bên cạnh sự nỗ lực của ngành Ngân hàng cần sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan trong công tác an ninh, an toàn thông tin và phòng, chống lừa đảo qua mạng; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên không gian mạng.
Trung tâm dữ liệu xanh: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam

Trung tâm dữ liệu xanh: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam

Trên thế giới, phát triển các trung tâm dữ liệu xanh đã và đang trở thành xu hướng chung, nhất là ở các nước phát triển; trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng từng bước định hình và khuyến khích phát triển năng lượng xanh cho các trung tâm dữ liệu của mình…
Xem thêm
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô