Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Công nghệ & ngân hàng số
Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
aa
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Triển khai Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ), NHNN đã ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của NHNN).

Quán triệt nội dung, tinh thần tại Nghị quyết số 57-NQ-TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Chính phủ, mới đây, NHNN đã ban hành Kế hoạch triển khai của ngành Ngân hàng tại Quyết định số 1364/QĐ-NHNN ngày 05/3/2025 triển khai Nghị quyết số 57-NQ-TW và Nghị quyết số 03/NQ-CP. Quan điểm xuyên suốt trong triển khai là “lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm và định hướng chuyển đổi số, cải cách hành chính ngành Ngân hàng; lấy trải nghiệm khách hàng là thước đo”.

Nhiều ngân hàng đạt tỉ lệ trên 95% giao dịch thực hiện trên kênh số

Thời gian qua, NHNN đã trình cấp thẩm quyền ban hành và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) và chuyển đổi số ngân hàng như: Xây dựng, tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2024 quy định về TTKDTM; ban hành 64 thông tư trong năm 2024 quy định chi tiết, hướng dẫn Luật Các TCTD và quy định chi tiết nội dung tại Nghị định số 52/2024/NĐ-CP và các văn bản khác; ban hành Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán Việt Nam đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 234/QĐ-NHNN ngày 19/02/2024 của NHNN), góp phần định hướng phát triển thanh toán số tại Việt Nam...

Hàng năm, NHNN đã ban hành các chỉ thị về đẩy mạnh chuyển đổi số; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng và nhiều công văn cảnh báo về an ninh, an toàn thông tin; thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin giám sát với Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia và Trung tâm Giám sát an ninh mạng quốc gia (Bộ Công an); tham gia các hoạt động của mạng lưới ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia; thiết lập Mạng lưới ứng cứu sự cố an ninh công nghệ thông tin ngành Ngân hàng (gồm các TCTD, trung gian thanh toán).

Về hạ tầng công nghệ số, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (TTLNH) hoạt động ổn định, an toàn, năm 2024 đã xử lý được 125 triệu giao dịch VND với tổng giá trị đạt 234 triệu tỉ đồng, tăng 7,43% về số lượng giao dịch và tăng 32,90% về tổng giá trị giao dịch so với năm 2023. Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử cung ứng khả năng thanh toán theo thời gian thực, hoạt động liên tục 24/7, xử lý giao dịch đa kênh, đa phương tiện, năm 2024, giao dịch qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 29,69% về số lượng và 15,12% về giá trị so với cùng kỳ 2023. Trong hai tháng đầu năm 2025, hệ thống TTLNH tăng 10,85% về số lượng và tăng 32,02% về giá trị; qua hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 11,36% về số lượng và 0,31% về giá trị.

Theo NHNN, đến nay, hầu hết dịch vụ ngân hàng cơ bản đã được thực hiện trên kênh số, nhiều ngân hàng đạt tỉ lệ trên 95% giao dịch thực hiện trên kênh số. Số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân đạt hơn 200 triệu tài khoản. Khoảng 57% TCTD đã thí điểm và triển khai rộng rãi mô hình chi nhánh tự phục vụ cho phép khách hàng thực hiện định danh, đăng ký thông tin sinh trắc học. Hầu hết ngân hàng đã ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, học máy và đưa các dịch vụ tư vấn tự động 24/7 thông qua các hội thoại trên ứng dụng mobile, website. Hơn 70% các TCTD đã và đang triển khai hệ thống Data Warehouse (kho dữ liệu) để phục vụ chấm điểm tín dụng tự động, tối ưu hóa quy trình, nâng cao trải nghiệm khách hàng…

Năm 2024, số lượng giao dịch TTKDTM đạt 17,77 tỉ giao dịch với giá trị đạt 295,18 triệu tỉ đồng (tăng 56,68% về số lượng và 32,79% về giá trị). Trong hai tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm 2024, giao dịch TTKDTM tăng 41,28% về số lượng và 21,91% về giá trị; qua kênh Internet tăng 35,81% về số lượng và 29,69% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 35,13% về số lượng và 18,63% về giá trị, giao dịch qua QR Code tăng 75,54% về số lượng và 196,62% về giá trị.

Trong xây dựng và triển khai Chính phủ điện tử, NHNN tiếp tục thực hiện tích hợp, kết nối Cổng dịch vụ công (DVC), hệ thống thông tin một cửa điện tử với các hệ thống liên quan theo yêu cầu của Chính phủ và phục vụ yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính của NHNN; từng bước số hóa, điện tử hóa quy trình tiếp nhận, xử lý và trả kết quả hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của NHNN tại bộ phận một cửa.

Đồng thời, NHNN phối hợp với Bộ Công an trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030) và đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo thuận lợi cho các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, bảo mật, tiện ích, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, qua đó phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho đời sống của người dân. Cụ thể, NHNN đã triển khai hệ thống kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC) cho hệ thống dịch vụ công trực tuyến (cấp chứng thư số); đã kết nối kỹ thuật và hoàn thành việc xây dựng hệ thống thông tin kết nối, khai thác CSDLQGvDC phục vụ việc quản lý Nhà nước về phòng, chống rửa tiền. Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) đã phối hợp với Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06) Bộ Công an thực hiện 06 đợt rà soát, đối chiếu dữ liệu theo phương thức offline khoảng 57 triệu lượt hồ sơ khách hàng vay.

Theo NHNN, tính đến hết ngày 11/4/2025, toàn ngành Ngân hàng đã có hơn 108,1 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân (CIF) được đối chiếu sinh trắc học qua căn cước công dân (CCCD) gắn chíp hoặc ứng dụng VNeID, trong đó: 60 TCTD đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp qua thiết bị tại quầy; 56 TCTD và 39 tổ chức trung gian thanh toán đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắp chíp qua ứng dụng điện thoại; 32 TCTD và 15 tổ chức trung gian thanh toán đang triển khai ứng dụng VNeID trong đó có 18 đơn vị đã triển khai thực tế.

Hóa giải thách thức trong chuyển đổi số ngân hàng

Mặc dù gặt hái được nhiều “trái ngọt” nhưng quá trình chuyển đổi số ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Chi phí đầu tư cho hạ tầng công nghệ và chuyển đổi số rất lớn trong khi nguồn lực tài chính của một số TCTD còn hạn chế. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực then chốt (kiến trúc giải pháp, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây...) còn thiếu, khó tuyển dụng và giữ chân.

Bên cạnh đó, xu hướng gia tăng tội phạm sử dụng công nghệ cao và lừa đảo với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp đặt ra nhiều khó khăn cho việc đảm bảo an toàn bảo mật hệ thống công nghệ, duy trì hoạt động thanh toán được thực hiện liên tục, an toàn; đồng thời cũng tiềm ẩn rủi ro tội phạm lợi dụng sử dụng dịch vụ thanh toán cho các hành vi gian lận, lừa đảo, mục đích bất hợp pháp, chưa kể những lo ngại về an toàn thông tin khi ứng dụng dữ liệu dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử với ngành Ngân hàng. Nếu dữ liệu cá nhân, thông tin tài chính của công dân bị lộ, hoặc sử dụng sai mục đích có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, từ xâm phạm quyền riêng tư đến các hành vi lừa đảo, gian lận tài chính. Do đó, việc sử dụng dữ liệu phải tuân thủ các quy định về pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên nhất là các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Hơn nữa, trước tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập kinh tế quốc tế, xuất hiện những vấn đề mới, phức tạp cần được đánh giá kỹ tác động chính sách và sự phù hợp với thực tế, cũng như liên quan đến nhiều lĩnh vực trong và ngoài Ngành, từ đó có thể ảnh hưởng đến tiến độ của việc xây dựng và ban hành chính sách.

Ngoài ra, thói quen sử dụng tiền mặt của không ít người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và tâm lý e ngại của một bộ phận người dân khi tiếp cận với công nghệ thanh toán mới cùng với lo ngại về an ninh an toàn khi sử dụng các phương thức thanh toán trực tuyến cũng là một trở ngại. Chưa kể, vẫn còn một bộ phận khách hàng do thiếu thông tin, chưa ý thức được đầy đủ sự quan trọng của việc bảo mật thông tin, dữ liệu cá nhân, hậu quả của hành vi cho thuê, cho mượn, mua bán thông tin tài khoản, thẻ ngân hàng... dẫn đến tội phạm lợi dụng cho mục đích gian lận, lừa đảo, bất hợp pháp.

Về phía NHNN, thời gian tới, để chuyển đổi số ngân hàng tiếp tục góp phần kiến tạo nền kinh tế số, hiện thực hóa các mục tiêu của chuyển đổi số quốc gia, NHNN cần tiếp tục:

Thứ nhất, về hành lang pháp lý, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để bổ sung, sửa đổi theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.

Thứ hai, về mặt công nghệ, nghiên cứu, xây dựng các kho dữ liệu dùng chung cho ngành Ngân hàng để hướng tới các quyết định dựa trên dữ liệu. Tiến tới triển khai các hạ tầng tính toán, lưu trữ, dữ liệu, ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển các hạ tầng dùng chung của Ngành như hạ tầng thanh toán, hạ tầng thông tin tín dụng, các kho dữ liệu chuyên ngành để làm hạt nhân và theo kịp được nhu cầu phát triển các TCTD, trung gian thanh toán. Hoàn thiện hạ tầng công nghệ phục vụ chuyển đổi số, tăng cường kết nối, hợp tác với các ngành, lĩnh vực khác (kết nối CSDLQGvDC, cơ sở dữ liệu căn cước, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác...) nhằm tạo thuận lợi cho việc tích hợp, kết nối, chia sẻ thông tin với các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để mở rộng hệ sinh thái số và phát triển dịch vụ ngân hàng số, thanh toán số.

Thứ ba, triển khai mở rộng việc kết nối, khai thác hệ thống SIMO (hệ thống giám sát các tài khoản thanh toán, ví điện tử nghi ngờ gian lận, giả mạo) cũng như kết nối, khai thác nguồn dữ liệu về danh sách tài khoản đã tham gia vào quá trình luân chuyển dòng tiền lừa đảo được Bộ Công an thu thập, chia sẻ để cảnh báo đến khách hàng khi thực hiện các giao dịch thanh toán trực tuyến.

Thứ tư, tiếp tục giám sát, đôn đốc các đơn vị trong ngành Ngân hàng thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, triển khai Đề án 06 tại Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW bảo đảm tiến độ, chất lượng.

Thứ năm, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an và các bộ, ngành để triển khai các nhiệm vụ tại Đề án 06, Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNNVN về triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06, Đề án chuyển đổi số của NHNN triển khai tiện ích cốt lõi phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm kết nối với Đề án 06.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế để cập nhật công nghệ mới, kinh nghiệm về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng; tham gia các diễn đàn, hội nghị, mạng lưới quốc tế về chuyển đổi số, tài chính số, an toàn thông tin; tăng cường hợp tác trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, giao diện lập trình mở (Open API)…

Về phía các TCTD, trung gian thanh toán, cần tăng cường công tác bảo đảm an ninh, an toàn, giảm thiểu tối đa các rủi ro phát sinh trong quá trình cung ứng, thực hiện các hoạt động ngân hàng trên môi trường số. Nghiên cứu triển khai nền tảng ngân hàng lõi kỹ thuật số hiện đại cho phép các ngân hàng hoạt động nhanh hơn, thông minh hơn và theo cách tiết kiệm chi phí, dễ dàng mở rộng quy mô và sản phẩm. Đẩy mạnh triển khai ngân hàng mở, Open API nhằm tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ đổi mới sáng tạo phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Tăng cường triển khai các dịch vụ (mở tài khoản, cho vay, bảo lãnh…) bằng phương tiện điện tử nhằm nâng cao trải nghiệm của khách hàng (giao dịch 24/7, mọi lúc mọi nơi); triển khai lưu trữ chứng từ điện tử giúp tiết kiệm chi phí, rút ngắn thủ tục, thời gian phục vụ khách hàng và nâng cao hiệu quả khai thác, tra cứu. Hoàn thành đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của chủ tài khoản thanh toán, ví điện tử hoặc người đại diện hợp pháp. Thúc đẩy cho vay bằng phương tiện điện tử hướng tới tự động hóa toàn bộ quy trình để rút ngắn thời gian cho vay. Ứng dụng dữ liệu từ CSDLQGvDC trong đánh giá khách hàng vay. Tăng cường sử dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các công nghệ mới nhằm cung cấp dịch vụ cá nhân hóa nâng cao trải nghiệm khách hàng; phát hiện giao dịch gian lận, lừa đảo. Triển khai gói tín dụng cho vay doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, công nghệ số theo quy định.

Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế về công nghệ số; thực hiện hợp tác về an ninh, bảo mật, phòng chống rủi ro mạng và gian lận quốc tế. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin. Tiếp tục phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Công an trong công tác rà soát đối tượng nghi ngờ, giả mạo giấy tờ với dữ liệu sinh trắc của CCCD phục vụ công tác phòng, chống tội phạm.

Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, thông tin đến khách hàng dưới nhiều hình thức để hướng dẫn, nâng cao nhận thức, kỹ năng cho khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường mạng./.

Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

2. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

3. Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW.

4. Nghị định 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2024 của Chính phủ quy định về thanh toán không dùng tiền mặt.

Thanh Phương
NHNN

Tin bài khác

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Bài viết phân tích toàn diện những ảnh hưởng sâu rộng của Blockchain tới từng khâu trong quy trình kiểm toán, từ thu thập dữ liệu thời gian thực, xác minh qua hợp đồng thông minh, đến phát hiện gian lận nhờ tính bất biến và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, việc ứng dụng thực tế còn đối mặt với nhiều rào cản, từ chi phí đầu tư, thiếu nhân lực chuyên môn đến hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Do đó, để hiện thực hóa tiềm năng của Blockchain, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý, tổ chức đào tạo, doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng khung pháp lý, nâng cao năng lực, và phát triển các mô hình kiểm toán thời gian thực dựa trên Blockchain.
Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Chiều 20/8/2025, tại Hà Nội, Trường Đại học Đại Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Quản lý nhà nước đối với sự phát triển Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam”. Hội thảo đã tạo diễn đàn trao đổi học thuật cũng như thực tiễn giữa các nhà khoa học, chuyên gia trong nước, quốc tế, cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, định hình khung khổ pháp lý, cũng như đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững của Fintech tại Việt Nam.
Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Xem thêm
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng