Thủ tướng: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân

Thị trường tài chính
Chiều ngày 02/4/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân đã chủ trì phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo, tiếp tục cho ý kiến, hoàn thiện thêm một bước dự thảo Đề án để chuẩn bị trình Bộ Chính trị.
aa
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân đã chủ trì phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo, tiếp tục cho ý kiến, hoàn thiện thêm một bước dự thảo Đề án để chuẩn bị trình Bộ Chính trị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân đã chủ trì phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo, tiếp tục cho ý kiến, hoàn thiện thêm một bước dự thảo Đề án để chuẩn bị trình Bộ Chính trị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Cùng tham dự phiên họp có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo; Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn; Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Trần Sỹ Thanh; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương.

Tại phiên họp, Ban Chỉ đạo cho ý kiến về dự thảo Đề án, dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị, dự thảo tờ trình của Đảng ủy Chính phủ; các đại biểu thảo luận, tập trung đánh giá thực trạng, tình hình phát triển kinh tế tư nhân, vị trí, vai trò, những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế của khu vực này, phân tích các nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, kinh nghiệm quốc tế, một số quan điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới.

Theo các báo cáo, ý kiến tại phiên họp, kinh tế tư nhân được chính thức thừa nhận trong Văn kiện Đại hội VI năm 1986 của Đảng; nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân dần được thay đổi cùng với quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ việc không được thừa nhận (trước năm 1986) sang được thừa nhận và coi là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành phần (giai đoạn 1986 - 1999); được khẳng định là thành phần quan trọng lâu dài, trở thành động lực phát triển kinh tế (giai đoạn 2000 - 2015); được tập trung phát triển mạnh, là động lực quan trọng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (giai đoạn từ 2016).

Thủ tướng nhấn mạnh: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng nhấn mạnh: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Qua 40 năm đổi mới, đến nay, kinh tế tư nhân đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế.

Khu vực kinh tế tư nhân hiện có hơn 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, là lực lượng nòng cốt tạo ra của cải, vật chất, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội.

Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, 82% tổng số lao động. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường thế giới.

Tuy nhiên, hầu hết doanh nghiệp tư nhân có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị còn hạn chế; năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; tư duy kinh doanh mang tính thời vụ, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối giữa các doanh nghiệp trong nước và với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Bên cạnh đó, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản chưa được bảo đảm đầy đủ. Kinh tế tư nhân còn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao.

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia nhằm đạt mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, đòi hỏi phải có nhận thức, tư duy mới, giải pháp đột phá để khơi dậy niềm tin, tạo xung lực mới cho kinh tế tư nhân.

Dự thảo Đề án đề xuất các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chung và 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp riêng biệt cho nhóm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa đang tăng trưởng và doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh.

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo nêu rõ, đây là Đề án có nội dung khó, phạm vi rộng, đối tượng nghiên cứu nhiều, ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ liên quan toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân mà còn liên quan các cấp, các ngành, các địa phương, sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới.

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục quán triệt, kế thừa các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, giải pháp trong các nghị quyết của Đảng, các bài viết, chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm có liên quan về kinh tế tư nhân.

Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương dự phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương dự phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương dự phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương dự phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương dự phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương dự phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng giao các cơ quan tiếp thu các ý kiến, tiếp tục hoàn thiện Đề án để trình cấp có thẩm quyền, với quan điểm nguồn lực bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn, động lực bắt nguồn từ đổi mới và sáng tạo, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân và doanh nghiệp.

Về phạm vi của Đề án, thời gian thực hiện tới năm 2030 và tầm nhìn tới năm 2045, không gian khu vực kinh tế tư nhân bao gồm cả tất cả các loại hình doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể.

Về tư tưởng chỉ đạo trong xây đựng đề án, Thủ tướng cho rằng phải có đột phá mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển kinh tế tư nhân, với tư duy vượt qua giới hạn của chính mình, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn chính xác những "đòn bẩy, điểm tựa", có tính khả thi, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân, đóng góp quan trọng vào thực hiện 2 mục tiêu 100 năm (tới năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và tới 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước).

Lưu ý cách diễn đạt cần giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm nhưng thực hiện có hiệu quả, Thủ tướng nhấn mạnh cần giải phóng toàn bộ sức sản xuất của nền kinh tế thông qua phát triển kinh tế tư nhân; huy động mọi nguồn lực của khu vực tư nhân vào phát triển đất nước; khai thác hiệu quả mọi nguồn lực, lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định (nội lực gồm con người, thiên nhiên và truyền thống văn hóa - lịch sử), kết hợp hiệu quả, hài hòa với nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ, quản trị…) là quan trọng, đột phá, thường xuyên trong phát triển kinh tế tư nhân.

Về quan điểm, Thủ tướng nêu rõ, phải thống nhất nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong tổng thể nền kinh tế, khẳng định đây là động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng.

Bảo đảm quyền tài sản, quyền sở hữu; bảo đảm quyền tự do kinh doanh rộng nhất, nhiều nhất có thể dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau; quyền tiếp cận bình đẳng với tài nguyên, tài sản của đất nước; chuyển trạng thái từ thụ động tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, kinh tế tư nhân sang trạng thái chủ động, tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân đi đúng hướng, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích nhân dân.

Về mục tiêu, Thủ tướng đề nghị nghiên cứu, đặt mục tiêu cao hơn về đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP, tăng năng suất lao động…

Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương dự phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Về tư tưởng chỉ đạo trong xây đựng Đề án, Thủ tướng cho rằng phải có đột phá mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển kinh tế tư nhân, với tư duy vượt qua giới hạn của chính mình, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn chính xác những "đòn bẩy, điểm tựa", có tính khả thi... - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Về nhiệm vụ, giải pháp, Thủ tướng cho rằng cần nhấn mạnh thêm về một số nhiệm vụ, giải pháp, mà trước hết là nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, xã hội và người dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kinh tế tư nhân, tạo thống nhất cao, nhận thức đúng tầm, khơi dậy niềm tin, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân.

Thứ hai, xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế với tinh thần thể chế phải thông thoáng, cắt bỏ những thủ tục rườm rà, không gây phiền hà, gây ách tắc cho người dân và doanh nghiệp, giảm tối đa thời gian, chi phí tuân thủ; đặc biệt là bảo đảm việc thành lập doanh nghiệp đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng nhất có thể với thời gian quy định cụ thể (ví dụ bao nhiêu ngày, giờ, phút…) và thực hiện hoàn toàn trên môi trường số.

Thứ ba, về huy động nguồn lực, phải đa dạng hóa nguồn lực, đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng để người dân, doanh nghiệp tiếp cận các công việc, cơ hội kinh doanh thuận lợi, dễ dàng, phù hợp nhất; đẩy mạnh hợp tác công tư theo các mô hình "lãnh đạo công, quản trị tư", "đầu tư công, quản lý tư", "đầu tư tư, sử dụng công".

Để giải phóng nguồn lực trong dân, phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền sở hữu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và doanh nghiệp; không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự, giải quyết các vấn đề kinh tế bằng biện pháp kinh tế.

Cùng với đó, thúc đẩy kinh doanh bền vững; phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm nền tảng, động lực; ứng phó biến đổi khí hậu; có cơ chế, chính sách khuyến khích các lĩnh vực ưu tiên.

Thủ tướng giao các cơ quan tiếp thu các ý kiến, tiếp tục hoàn thiện Đề án để trình cấp có thẩm quyền, với quan điểm nguồn lực bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn, động lực bắt nguồn từ đổi mới và sáng tạo, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân và doanh nghiệp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng giao các cơ quan tiếp thu các ý kiến, tiếp tục hoàn thiện Đề án để trình cấp có thẩm quyền, với quan điểm nguồn lực bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn, động lực bắt nguồn từ đổi mới và sáng tạo, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân và doanh nghiệp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ tư, phải tin tưởng vào kinh tế tư nhân, phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng cho kinh tế tư nhân, khuyến khích mọi người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế, mang lại hiệu quả cho xã hội, làm giàu cho chính mình, gia đình và làm giàu cho đất nước.

Thủ tướng cho rằng cần thúc đẩy quản trị thông minh; phát triển hạ tầng để giảm chi phí đầu vào, chi phí logistics, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp, năng năng suất lao động. Huy động, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp tư nhân trong tham gia các công trình trọng điểm quốc gia, thực hiện 3 đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nhân lực.

Thủ tướng nêu rõ, cần "mạnh dạn, tin tưởng giao việc khó cho thành phần kinh tế tư nhân"; có cơ chế giao kinh tế tư nhân tham gia phát triển, hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng, an ninh.

Về tổ chức thực hiện, Thủ tướng lưu ý, cùng với việc xây dựng dự thảo Đề án, Nghị quyết để trình Bộ Chính trị, cần xây dựng chương trình hành động của Chính phủ để ban hành, tổ chức thực hiện ngay sau khi Đề án, Nghị quyết được Bộ Chính trị thông qua; đồng thời khẩn trương xây dựng các dự thảo luật, nghị quyết trình Quốc hội. Trong đó, Thủ tướng giao Bộ Tài chính nghiên cứu xây dựng dự án luật về kinh tế tư nhân.

Theo Hà Văn/baochinhphu.vn

Tin bài khác

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là cơ chế áp thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu vào EU, với mục đích bảo đảm rằng hàng hóa sản xuất bên ngoài EU không được hưởng lợi từ việc phát thải cao hơn tiêu chuẩn của EU, được đề xuất chính thức vào tháng 7/2021 và bắt đầu áp dụng thử nghiệm vào năm 2023, với việc triển khai toàn diện dự kiến từ năm 2026.
Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Trong kỷ nguyên số hóa toàn diện, hành vi tiêu dùng đang chuyển dịch mạnh mẽ, đặc biệt trong phương thức thanh toán, mô hình mua trước trả sau ngày càng phổ biến nhờ tính linh hoạt, không yêu cầu thẻ tín dụng và không phát sinh lãi suất trong ngắn hạn.
Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Tại Việt Nam, hầu hết doanh nghiệp vẫn đối mặt với thách thức về dự báo dòng tiền và quản lý vốn lưu động, dẫn đến áp lực về thanh toán và chi phí vốn cao. Do đó, việc học tập kinh nghiệm quản trị dòng tiền của các doanh nghiệp lớn trên thế giới là điều cần thiết giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao hiệu quả sử dụng dòng tiền, góp phần cải thiện năng lực tài chính và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của công nghệ, tài chính số đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Tài chính toàn diện - với mục tiêu bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính chất lượng và chi phí phải chăng, đang ngày càng được quan tâm trên toàn thế giới. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được tài chính toàn diện là hiểu biết tài chính số, giúp người dân có thể tận dụng các công cụ và dịch vụ tài chính hiện đại một cách hiệu quả.
Phát huy vai trò của tổ chức tài chính vi mô trong nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ

Phát huy vai trò của tổ chức tài chính vi mô trong nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ

Tại Việt Nam, tài chính vi mô (TCVM) đã phát triển mạnh mẽ trong hai thập kỷ qua với sự tham gia của nhiều tổ chức tài chính, cả chính thức lẫn phi chính thức đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho phụ nữ nghèo và các nhóm yếu thế. Tuy nhiên, việc nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Điều này xuất phát từ các yếu tố như mức độ hiểu biết tài chính còn hạn chế, khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng số chưa cao và các rào cản văn hóa - xã hội khác.
Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin...
Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Các tổ chức tài chính vi mô thường thiết kế sản phẩm tín dụng vi mô phù hợp với đặc thù từng địa phương, từ đó giảm bớt rào cản về thủ tục, tài sản thế chấp, và tạo điều kiện cho những người chưa từng tham gia hệ thống tài chính chính thức tiếp cận dịch vụ. Việc triển khai tín dụng vi mô còn gắn liền với mạng lưới hỗ trợ cộng đồng, tư vấn sử dụng vốn và đồng hành cùng người vay trong suốt quá trình kinh doanh, giúp giảm thiểu rủi ro vỡ nợ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Xem thêm
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng