Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng
Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
aa

1. Bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Nằm ở trung tâm phía Nam Đồng bằng sông Hồng, tỉnh Nam Định có nhiều tiềm năng lớn để đầu tư, phát triển kinh tế như: Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông mới, được đầu tư khá đồng bộ; hạ tầng điện lực có công suất nằm trong top dẫn đầu cả nước; cùng với nguồn lao động dồi dào, cần cù, chịu khó, được đào tạo cơ bản luôn sẵn sàng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các huyện ven biển của tỉnh Nam Định (gồm Hải Hậu, Giao Thủy, Nghĩa Hưng) rất giàu tiềm năng phát triển công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ… Năm 2024, khai thác, tận dụng những lợi thế sẵn có, kinh tế tỉnh Nam Định tiếp tục ổn định và có những bước phát triển vượt bậc so với năm 2023, cụ thể:

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2024 đạt khoảng 61.222 tỉ đồng, tăng 10,01% so với năm 2023, là mức tăng cao trong vùng (4/11) và cả nước (9/63). GRDP bình quân đầu người đạt 59,83 triệu đồng/người, tăng 14,35% so với năm 2023. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi trong 6 tháng đầu năm, bất thường trong 6 tháng cuối năm, đặc biệt là chịu ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 và mưa lũ sau bão. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 12/2024 tăng 13,93% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung cả năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 14,56% so với năm 2023; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,65%.

Hoạt động thương mại, dịch vụ toàn tỉnh diễn ra sôi động trong năm 2024, đặc biệt là những tháng giáp Tết Nguyên đán, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 12/2024 tăng 8,9% so với tháng trước. Tính chung năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 13,8% so với năm 2023. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt khoảng 4.775 triệu USD, tăng 21,4% so với năm 2023; trong đó xuất khẩu hàng hóa tăng 18,9%, nhập khẩu hàng hóa tăng 25,8%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 1.225 triệu USD.

Tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2024 của tỉnh Nam Định có nhiều tín hiệu khởi sắc. Số doanh nghiệp gia nhập thị trường và quay trở lại hoạt động là 1.806 doanh nghiệp, số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế gấp 2,5 lần so với năm 2023. Đặc biệt, hoạt động sản xuất, kinh doanh quý IV/2024 khởi sắc hơn quý III/2024 với 77,3% doanh nghiệp đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh tốt hơn và giữ ổn định; 22,7% doanh nghiệp đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh khó khăn hơn.

Hoạt động đầu tư, xây dựng cũng được quan tâm, đẩy nhanh tiến độ thực hiện với nhiều công trình trọng điểm, nhất là trong lĩnh vực giao thông liên vùng và hạ tầng khu đô thị, khu dân cư. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2024 đạt 62.420 tỉ đồng, tăng 18% so với năm 2023. Trong đó, vốn Nhà nước là 13.736 tỉ đồng, chiếm 22%, tăng 3%; vốn ngoài Nhà nước là 42.189 tỉ đồng, chiếm 67,6%, tăng 15,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 6.495 tỉ đồng, chiếm 10,4%, tăng 105,9%. Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư đạt tín hiệu tích cực, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước quan tâm đầu tư tại Nam Định, tạo cơ hội mới, thời cơ mới để phát triển kinh tế - xã hội. Tính đến ngày 25/12/2024, tỉnh cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới và điều chỉnh tăng vốn cho 81 dự án (gồm 47 dự án đầu tư trong nước, 34 dự án FDI) với tổng vốn đăng ký là 11.523 tỉ đồng và 343 triệu USD.

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024
Bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024 có nhiều khởi sắc

Năm 2024, mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp, giá nguyên vật liệu vẫn ở mức cao, ảnh hưởng lớn từ thiên tai, bão lũ, nhất là cơn bão số 3, song dưới sự lãnh đạo thống nhất của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo linh hoạt, quyết liệt của chính quyền các cấp, sự giám sát của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (UBND), sự phối hợp của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; cùng sự nỗ lực các sở, ngành, đoàn thể và của toàn thể nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn, tình hình kinh tế tỉnh Nam Định tiếp tục ổn định, đạt được nhiều kết quả tích cực, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực với 100% (14/14) chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch.

2. Dấu ấn hoạt động ngân hàng trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.

NHNN Chi nhánh tỉnh Nam Định chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của UBND tỉnh Nam Định và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)

Năm 2024, bám sát chỉ đạo của UBND tỉnh, NHNN tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/01/2024 của Thống đốc NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2024; Hội nghị trực tuyến về triển khai các giải pháp đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng năm 2024; Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024; Hội nghị triển khai các giải pháp tín dụng ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3, NHNN Chi nhánh tỉnh Nam Định đã chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) diễn ra an toàn, hiệu quả.

Trên thị trường tiền tệ, NHNN Chi nhánh tỉnh Nam Định tích cực chỉ đạo các TCTD triển khai nhiều giải pháp tiết giảm chi phí, nỗ lực phấn đấu giảm lãi suất cho vay, nhất là đối với các đối tượng là động lực tăng trưởng truyền thống, các ngành mới nổi, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, nhà ở xã hội… nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Theo đó, mặt bằng lãi suất cho vay đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại tiếp tục giảm trong năm 2024, giảm khoảng 0,44%/năm so với cuối năm 2023.

Với mục tiêu kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo chỉ tiêu đã được phân bổ, NHNN Chi nhánh tỉnh Nam Định tăng cường quản lý chặt chẽ chất lượng tín dụng, nhất là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, yêu cầu các TCTD trên địa bàn tỉnh tăng cường rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục cấp tín dụng, đẩy mạnh áp dụng công nghệ, chuyển đổi số trong quy trình cấp tín dụng để đẩy nhanh tốc độ, thời gian xử lý hồ sơ; nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian thẩm định xét duyệt, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nhưng vẫn bảo đảm chặt chẽ, an toàn. Đồng thời, tiếp tục nâng cao chất lượng thẩm định, phê duyệt tín dụng, kiểm soát mục đích sử dụng vốn, theo dõi dòng tiền, thực hiện nghiêm quy định nội bộ về luân chuyển cán bộ… nhằm ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh.

Đến ngày 27/12/2024, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn tỉnh đạt 129.431 tỉ đồng, tăng 7,1% so với đầu năm. Tổng dư nợ cho vay đạt 123.043 tỉ đồng, tăng 18,8% so với đầu năm. Cho vay bằng VND chiếm 97,2%; cho vay ngắn hạn chiếm 76,9%; cho vay doanh nghiệp là 36.280 tỉ đồng, chiếm 29,5%; cho vay hợp tác xã là 48 tỉ đồng, chiếm 0,04%; cho vay hộ gia đình, cá nhân là 86.715 tỉ đồng, chiếm 70,46%. Trong đó, dư nợ cho vay của Ngân hàng Phát triển tỉnh Nam Định là 472,3 tỉ đồng. Cùng với đó, chất lượng tín dụng không ngừng được cải thiện. Nợ xấu của các TCTD trên địa bàn chiếm tỉ lệ 0,48% tổng dư nợ cho vay, thấp hơn nhiều so với quy định của NHNN.

Triển khai đồng bộ các giải pháp tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, thực chất, hướng vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế

Trong năm 2024, các TCTD trên địa bàn tỉnh Nam Đỉnh đã tích cực triển khai một số chương trình, chính sách tín dụng ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc NHNN, một số kết quả như sau:

Cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 62.752 tỉ đồng, chiếm 51% tổng dư nợ cho vay, tăng 7.486 tỉ đồng so với thời điểm cuối năm 2023.

Cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 18.333 tỉ đồng, chiếm 14,9% tổng dư nợ cho vay và chiếm 50,5% dư nợ cho vay doanh nghiệp, tăng 2.996 tỉ đồng so với thời điểm cuối năm 2023.

Cho vay các chương trình tín dụng chính sách đạt 4.820 tỉ đồng, tăng 9,8% so với đầu năm 2024, với 100.114 khách hàng, trong đó cho vay nước sạch, vệ sinh môi trường chiếm 34,8%; cho vay hộ cận nghèo chiếm 15,7%; cho vay hộ nghèo chiếm 2,6%; cho vay hộ mới thoát nghèo chiếm 19,6%; cho vay giải quyết việc làm chiếm 18,1%; cho vay học sinh, sinh viên chiếm 5,0%; cho vay các chương trình khác chiếm 4,2%.

Cho vay chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản theo Văn bản số 5631/NHNN-TD ngày 14/7/2023 và Văn bản số 7849/NHNN-TD ngày 23/9/2024 của NHNN có doanh số giải ngân lũy kế đến ngày 30/9/2024 là 242,4 tỉ đồng, tăng 130,6 tỉ đồng so với thời điểm cuối năm 2023, đến nay không còn dư nợ theo chương trình này.

Cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển quản lý nhà ở xã hội có 470 khách hàng đang có quan hệ vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội, số tiền còn dư nợ 184,2 tỉ đồng, giảm 3,4 tỉ đồng so với thời điểm cuối năm 2023.

Đẩy mạnh chuyển đổi số và nâng cao chất lượng hạ tầng thanh toán

Thực hiện Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 15/01/2024 của Thống đốc NHNN về đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng, NHNN Chi nhánh tỉnh Nam Định đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” của hệ thống ngân hàng tỉnh Nam Định năm 2024 và chỉ đạo các TCTD trên địa bàn: (i) Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan trong việc tổ chức triển khai Đề án 06; đẩy mạnh triển khai áp dụng các giải pháp ứng dụng căn cước công dân gắn chíp, ứng dụng VNeID trong định danh, xác thực khách hàng mở và sử dụng tài khoản thanh toán; (ii) Tăng cường áp dụng các giải pháp, công nghệ số trong việc cung ứng sản phẩm dịch vụ, quản trị rủi ro, tối ưu hóa quy trình nghiệp vụ; (iii) Tiếp tục đẩy mạnh tích hợp, kết nối sản phẩm, dịch vụ nền tảng với nhiều ngành, lĩnh vực khác để thiết lập hệ sinh thái số và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ với trải nghiệm liền mạch, xuyên suốt cho khách hàng; (iv) Tích cực triển khai các cơ chế, chính sách mới về hoạt động thanh toán, hoàn thành đối chiếu thông tin sinh trắc học đối với khách hàng cá nhân trước thời điểm 01/01/2025…

Tính đến ngày 20/12/2024, tổng số hồ sơ khách hàng đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học với căn cước công dân gắn chíp hoặc tài khoản VNeID là 749.842 hồ sơ, trong đó khách hàng cá nhân là 748.677 hồ sơ, tỉ lệ khách hàng cá nhân đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học đạt 70,9% (xếp thứ 30 toàn quốc). Một số TCTD đã làm việc ngoài giờ hành chính để hỗ trợ khách hàng, bảo đảm hoàn thành việc đối chiếu thông tin sinh trắc học của khách hàng cá nhân trước ngày 01/01/2025. Bên cạnh đó, các TCTD đã tích cực đẩy mạnh cho vay tiêu dùng bằng phương thức điện tử, trong tháng 11/2024 có 1.147 khách hàng phát sinh mới được TCTD cho vay, dư nợ đến ngày 30/11/2024 đạt 65,6 tỉ đồng.

Ngoài ra, các TCTD tiếp tục triển khai thực hiện Kế hoạch số 81/KH-UBND ngày 15/6/2022 của UBND tỉnh về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trên địa bàn tỉnh Nam Định, giai đoạn 2022 - 2025. Theo đó, công tác TTKDTM tiếp tục được đẩy mạnh thông qua việc tăng cường đầu tư, ứng dụng công nghệ mới để phát triển đa dạng, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thanh toán, bảo đảm an toàn, bảo mật, trong đó các ngân hàng thương mại trên địa bàn đã chủ động, tích cực phối hợp với các sở, ngành liên quan để đẩy mạnh TTKDTM đối với các dịch vụ công và chi trả các chương trình an sinh xã hội, nhất là trong thanh toán tiền học phí, viện phí, chi trả lương hưu, trợ cấp… Đến nay đã có 100% các dịch vụ công trực tuyến lĩnh vực hải quan được thanh toán trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; 99,9% doanh nghiệp đã đăng ký tham gia sử dụng nộp thuế điện tử; 95,6% khách hàng tham gia thanh toán tiền điện; 533 trường học trên địa bàn đã thực hiện thanh toán tiền học phí; 24 bệnh viện, cơ sở y tế đã triển khai thực hiện thanh toán tiền viện phí qua ngân hàng…

Tính đến tháng 12/2024, các ngân hàng thương mại đã phối hợp với những đơn vị liên quan thực hiện thu thuế 501.366 món, với số tiền 11.498 tỉ đồng; thu tiền điện 1.869.901 món, với số tiền 3.960 tỉ đồng; thu tiền nước 469.525 món, với số tiền 266 tỉ đồng; thu cước viễn thông 576.308 món, với số tiền 106 tỉ đồng; thu tiền học phí 1.029.122 món, với số tiền 484 tỉ đồng; thu tiền viện phí 26.404 món, với số tiền 97 tỉ đồng; chi trả các chương trình an sinh xã hội 162.807 món, với số tiền 810 tỉ đồng. Nhìn chung, hoạt động thanh toán qua ngân hàng cơ bản bảo đảm thông suốt, chính xác và an toàn; chất lượng dịch vụ ATM, CDM, thẻ ngân hàng, các dịch vụ thanh toán khác tiếp tục được nâng cao.

Tích cực thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030

Thực hiện Kế hoạch số 79/KH-UBND ngày 03/9/2020 của UBND tỉnh về triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Nam Định, NHNN Chi nhánh tỉnh Nam Định đã chủ động, tích cực phối hợp với các sở, ngành, đơn vị liên quan triển khai hiệu quả Chiến lược này; chỉ đạo các TCTD thông qua mạng lưới hoạt động để tăng cường công tác truyền thông; tích cực phát triển, mở rộng mạng lưới hoạt động, nhất là về khu vực nông thôn, khu vực xa trung tâm, phát triển, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp với từng phân đoạn khách hàng và thị trường, loại hình, nhu cầu sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, nhất là nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp phục vụ đời sống, tiêu dùng của người dân nhằm nâng cao mức độ sẵn có và đầy đủ về dịch vụ tài chính, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, phục vụ hiệu quả quá trình thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia trên địa bàn tỉnh.

Đến nay, sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, cơ bản các mục tiêu đến năm 2025 đã và đang được thực hiện theo đúng định hướng. Theo đó, các TCTD đã tích cực mở rộng mạng lưới hoạt động: Đến tháng 12/2024, toàn tỉnh có 25 chi nhánh TCTD cấp I, 42 quỹ tín dụng nhân dân, 14 chi nhánh ngân hàng thương mại cấp II, 4 đơn vị tổ chức tài chính vi mô, 121 phòng giao dịch, 233 ATM. So với thời điểm cuối năm 2023, tăng 2 phòng giao dịch và 8 ATM, trong đó nhiều đơn vị đã nâng cấp ATM thêm nhiều dịch vụ hiện đại so với ATM truyền thống như nộp, rút tiền mặt, thanh toán, chuyển tiền, gửi tiết kiệm… Bên cạnh đó, các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngày càng được phát triển đa dạng; nhiều sản phẩm, dịch vụ tài chính đã được các TCTD quan tâm, chú trọng phát triển với tiện ích, thuận tiện, chi phí thấp, hướng tới mục tiêu tài chính toàn diện cũng như nâng cao khả năng tiếp cận tài chính cho người dân, doanh nghiệp.

3. Hệ thống ngân hàng tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu kinh tế tỉnh Nam Định, quyết tâm hoàn thành thắng lợi mục tiêu năm 2025

Trên cơ sở chỉ tiêu điều hành tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống các TCTD của NHNN và định hướng phát triển kinh tế tỉnh Nam Định trong năm 2025, hệ thống ngân hàng trên địa bàn quyết tâm hoàn thành mục tiêu năm 2025, tiếp tục phát huy vai trò là đầu tàu kinh tế tỉnh Nam Định với một số mục tiêu cụ thể như sau:

Thứ nhất, các TCTD chủ động xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng theo kế hoạch được giao, trên cơ sở đáp ứng yêu cầu quản trị rủi ro thanh khoản và các rủi ro liên quan; không nới lỏng điều kiện cấp tín dụng để bảo đảm an toàn hoạt động; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên.

Thứ hai, đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như: Chương trình tín dụng 140.000 tỉ đồng cho vay chủ đầu tư và người mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư; chương trình tín dụng 60.000 tỉ đồng cho vay lĩnh vực lâm sản, thủy sản... Phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng ngân hàng phù hợp với từng loại hình, nhu cầu sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp; tăng cường hoạt động kết nối ngân hàng - doanh nghiệp bằng hình thức phù hợp; tiếp tục triển khai các biện pháp để ổn định mặt bằng lãi suất tiền gửi; phấn đấu giảm lãi suất cho vay; rà soát, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm… tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân trong tiếp cận, hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng.

Thứ ba, tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng; thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá việc sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ của khách hàng, nhất là khách hàng thuộc lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, khách hàng và người có liên quan có dư nợ lớn, hạn chế nợ xấu phát sinh. Chú trọng, nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt tín dụng, tuân thủ đúng quy trình khi tiến hành định giá, nhận thế chấp và quản lý tài sản bảo đảm của khách hàng vay vốn, thường xuyên theo dõi tình trạng tài sản bảo đảm để kịp thời phát hiện những thay đổi, biến động về tài sản, trên cơ sở đó có những giải pháp quản lý tài sản bảo đảm và quản lý khoản vay phù hợp.

Thứ tư, thực hiện quyết liệt các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng, phòng ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh; thường xuyên đánh giá nợ xấu, bảo đảm khách quan, trung thực, phản ánh đúng thực trạng chất lượng tín dụng. Đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ xấu, nợ đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. Chủ động phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhất là cơ quan Công an, Tòa án, cơ quan thi hành án các cấp trong quá trình thu hồi nợ xấu.

Thứ năm, thực hiện nghiêm túc các quy định về TTKDTM, trong đó tập trung triển khai các giải pháp bảo đảm an toàn, bảo mật trong mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng, góp phần ngăn chặn các hành vi gian lận, lừa đảo, bảo đảm chính chủ khi sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng trong thanh toán trực tuyến. Tiếp tục nâng cấp, phát triển hạ tầng thanh toán, hoạt động an toàn, hiệu quả; thúc đẩy kết nối với các ngành, lĩnh vực để mở rộng hệ sinh thái số, đẩy mạnh cung ứng dịch vụ TTKDTM trong lĩnh vực công, hành chính công, nhất là y tế, giáo dục… Tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số để phát triển các dịch vụ thanh toán trên thiết bị di động, mã hóa thông tin thẻ, thanh toán phi tiếp xúc, thanh toán QR Code… bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ.

Thứ sáu, tích cực tham gia triển khai các chương trình giáo dục tài chính để triển khai thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia trên địa bàn tỉnh, góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng cho khách hàng nhằm bảo vệ quyền lợi và giảm thiểu rủi ro cho người sử dụng dịch vụ ngân hàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ ngân hàng tỉnh Nam Định năm 2024 của NHNN Chi nhánh tỉnh Nam Định.

2. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 của UBND tỉnh Nam Định.

3. Cục Thống kê tỉnh Nam Định: Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định năm 2024.

Minh Anh
NHNN

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng