Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Thị trường tài chính
Thế giới hiện nay đang trải qua một giai đoạn chuyển đổi sâu sắc, với những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Việt Nam cũng đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối các thành tựu của thời kỳ độc lập và đổi mới. Trong bối cảnh này, phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Điều này không chỉ hỗ trợ tăng trưởng bền vững mà còn góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.
aa

Tóm tắt: Là một cấu phần của thị trường tài chính, sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết với hệ thống ngân hàng1. Để đạt được các mục tiêu về quy mô và thanh khoản của TTCK, hệ thống ngân hàng vẫn là cấu phần chủ lực. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển của thị trường tài chính hiện nay, chỉ ra những hạn chế, thách thức, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển đồng bộ, hiệu quả TTCK và hệ thống ngân hàng trong thời gian tới.

Từ khóa: TTCK; thị trường tài chính; hệ thống ngân hàng; bền vững.

SYNCHRONIZING THE STOCK MARKET AND BANKING SYSTEM FOR THE SUSTAINABLE ECONOMY DEVELOPMENT

Abstract: As a component of the financial market, the development of the stock market will be less sustainable if it lacks connection with the banking system. To achieve the goals of scale and liquidity of the stock market, the banking system is considered as a key component. The article is based on analyzing the current state of development of the financial market and banking system, pointing out limitations and challenges; thereby, proposing a number of solutions to synchronously and effectively develop the stock market and banking system in the future.

Keywords: Stock market; financial market; banking system; sustainable.

1. Đặt vấn đề

Thế giới hiện nay đang trải qua một giai đoạn chuyển đổi sâu sắc, với những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Giai đoạn từ nay đến năm 2030 là thời điểm hình thành trật tự thế giới mới, mở ra cả cơ hội và thách thức cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong khi đó, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối các thành tựu của thời kỳ độc lập và đổi mới. Để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, với nền công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao vào năm 2030, đạt được mục tiêu là một quốc gia xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, cần đẩy mạnh khơi thông mọi nguồn lực và sử dụng hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh này, phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Điều này không chỉ hỗ trợ tăng trưởng bền vững mà còn góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.

Trong đó, TTCK - một cấu phần quan trọng của thị trường tài chính, luôn có mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng. TTCK huy động vốn trung và dài hạn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các sản phẩm khác; hệ thống ngân hàng cung cấp tín dụng, bảo lãnh, các dịch vụ tài chính khác để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế. “Nếu TTCK là một cạnh cắt của thị trường tài chính, thì các ngân hàng vừa là nền móng vừa là xi măng”2. Văn kiện tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phát triển thị trường tài chính đồng bộ, phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng và phát triển TTCK trở thành kênh huy động vốn dài hạn trong nền kinh tế, giảm dần sự phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài.

2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển thị trường tài chính

Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ phải tiếp tục phát triển thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ và giải quyết tình trạng đô la hóa; song song với đó, cần có giải pháp để từng bước hình thành TTCK. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Theo đó, một trong những giải pháp để hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: “Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài hạn. Tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả TTCK, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn nước ngoài”.

Đánh giá kết quả 5 năm thực hiện các văn kiện của Đại hội IX, tại Đại hội X (năm 2006), Đảng nhận định, mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, song thị trường tài chính phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Đại hội X đã đưa ra chính sách và giải pháp phát triển thị trường tài chính theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; tăng nhanh quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động; vận hành an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả; khuyến khích mở rộng các hoạt động dịch vụ hỗ trợ phát triển thị trường tài chính; bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia thị trường. Phát triển mạnh thị trường vốn “theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh TTCK thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích hình thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua TTCK. Hình thành đồng bộ thể chế về TTCK".

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường”, trong đó “Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả. Phát triển và kiểm soát có hiệu quả TTCK. Phát triển lành mạnh, bền vững thị trường bất động sản, ngăn chặn tình trạng đầu cơ; hoàn thiện cơ chế vận hành sàn giao dịch bất động sản...”.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016), một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm được đưa ra là phát triển thị trường tài chính, các thị trường mua bán nợ, công cụ tài chính phái sinh, cho thuê tài sản... nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tiền tệ; mở cửa thị trường tín dụng và dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả của TTCK, thị trường trái phiếu để trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, từng bước giảm phụ thuộc vào ngân hàng…

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021) đã đặt ra nhiệm vụ tiếp tục cơ cấu lại thị trường tài chính - tiền tệ đáp ứng yêu cầu huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm... trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại.

Điểm mới cần lưu ý lần này là đưa mục tiêu phát triển công nghệ vào thực tiễn khi yêu cầu đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... Áp dụng chuẩn mực quốc tế cho các hoạt động kế toán, kiểm toán, ngân hàng thương mại...

Về phía cơ quan quản lý nhà nước, ngày 21/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 368/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030, đặt ra mục tiêu chung đến năm 2030 là: Xây dựng nền tài chính quốc gia phát triển bền vững, hiện đại và hội nhập, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia. Thực hiện chính sách động viên hợp lý, cải thiện dư địa tài khóa, tạo điều kiện thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, giải quyết hài hòa các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội và môi trường, bảo đảm an ninh quốc phòng và an sinh xã hội gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030.

Chiến lược đặt ra một số mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể như: "Phát triển TTCK ổn định, hoạt động an toàn, hiệu quả, có cơ cấu hợp lý, cân đối giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn, giữa thị trường cổ phiếu với thị trường trái phiếu và TTCK phái sinh. Đến năm 2025, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 100% GDP; dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP; trong đó, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 20% GDP. Đến năm 2030, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 120% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 58% GDP; trong đó, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP".

Với mục tiêu cơ cấu lại toàn diện TTCK trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn chủ yếu của nền kinh tế, năm 2019, Quốc hội đã thông qua Luật Chứng khoán; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 37/2020/QĐ-TTg ngày 23/12/2000 thành lập, tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam; Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/01/2019 phê duyệt Đề án cơ cấu lại TTCK và thị trường bảo hiểm đến năm 2020, định hướng đến năm 2025; Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 29/12/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2030 với mục tiêu cụ thể là: Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 100% GDP vào năm 2025 và đạt 120% GDP vào năm 2030. Dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP (trong đó dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 20% GDP) vào năm 2025 và đạt tối thiểu 58% GDP (trong đó dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP) vào năm 2030.

Đối với thị trường bảo hiểm, năm 2022, Quốc hội đã ban hành Luật Kinh doanh bảo hiểm nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của quá trình quản lý, cùng với hệ thống các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã tạo lập hành lang pháp lý, góp phần thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển. Công tác quản lý, giám sát nhà nước về kinh doanh bảo hiểm được thực hiện kết hợp giữa quản lý, giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Bên cạnh đó, Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 20303 đã đề ra mục tiêu “phát triển thị trường bảo hiểm theo hướng hiện đại, tiếp cận các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với yêu cầu từ thực tiễn, bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm”.

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Về phía ngành Ngân hàng, ngày 08/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, xác định rất rõ quan điểm phát triển: “Hệ thống tiền tệ, ngân hàng và hoạt động các tổ chức tín dụng là huyết mạch của nền kinh tế, tiếp tục giữ vai trò trọng yếu trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam. Ổn định hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong ổn định tiền tệ và ổn định tài chính, là điều kiện tiên quyết để ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững, và phải được bảo đảm bằng sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, cùng sự phát triển hài hòa, cân đối giữa khu vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm”.

Chiến lược đã đề ra mục tiêu phát triển chung đối với hệ thống các tổ chức tín dụng: “Các tổ chức tín dụng trong nước đóng vai trò chủ lực; hoạt động minh bạch, cạnh tranh, an toàn, hiệu quả bền vững; cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình; dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế, hướng tới đạt trình độ phát triển của nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN vào năm 2025; năng động, sáng tạo để thích ứng với quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa; đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng ngày càng gia tăng của nền kinh tế, tiến tới tài chính toàn diện vào năm 2030, bảo đảm mọi người dân và doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận đầy đủ, thuận tiện các dịch vụ tài chính, ngân hàng có chất lượng, đóng góp tích cực cho phát triển bền vững”...

Với việc thực hiện nhiệm vụ, giải pháp hướng tới hoàn thành các mục tiêu cụ thể cho sự phát triển của TTCK, bảo hiểm và hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính được kỳ vọng sẽ bảo đảm chức năng cung ứng vốn cả trung, dài hạn và ngắn hạn cho nền kinh tế, giảm tải áp lực hiện hữu cho hệ thống ngân hàng và cũng giảm rủi ro cho hệ thống tài chính nói chung, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

3. Thực trạng cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam

Quá trình triển khai các định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường tài chính đã khẳng định được tính đúng đắn, phù hợp, kịp thời vào thực tiễn. Đến nay, thị trường tài chính Việt Nam có thể được phân chia theo ba lĩnh vực chủ yếu sau: Ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.

Mặc dù lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm có những bước phát triển mạnh mẽ trong hai thập niên trở lại đây, lĩnh vực ngân hàng (hệ thống các tổ chức tín dụng) vẫn đóng vai trò chủ chốt khi đóng góp gần 2/3 tổng số vốn cung ứng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tỉ trọng các cấu phần trong hệ thống tài chính đã có sự thay đổi đáng kể trong thời gian qua theo xu hướng tăng dần tỉ trọng vốn hóa của TTCK và bảo hiểm. Cụ thể, dữ liệu giai đoạn gần đây cho thấy các cấu phần của thị trường tài chính Việt Nam đang thể hiện xu thế trở nên cân đối hơn, góp phần đa dạng hóa các kênh cung ứng, phân bổ vốn, phân bổ rủi ro, giảm dần sự phụ thuộc vào hệ thống tín dụng.

Các năm 2020 và 2021, quy mô thị trường vốn/GDP của Việt Nam đã có sự tăng trưởng để dần bắt kịp với tỉ lệ tín dụng ngân hàng cho khu vực tư nhân/GDP. Vốn cho nền kinh tế từ thị trường vốn trong các năm 2021, 2022 và 2023 đều có xu hướng giảm so với năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.

Trong giai đoạn 2016 - 2023, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu ngày càng tăng. Đến hết năm 2023, giá trị vốn hóa đạt 58,1% GDP, tăng 23,54 điểm phần trăm so với năm 2016. Đối với thị trường trái phiếu, quy mô thị trường trái phiếu Chính phủ niêm yết đạt 17,6% GDP, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt 11,9% GDP (giảm đáng kể so với mức đỉnh 17,1% năm 2020). Đối với thị trường bảo hiểm, năm 2023, doanh thu phí bảo hiểm đạt gần 230 nghìn tỉ đồng, đóng góp khoảng 2,2% vào GDP.

Năm 2024, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng 20%, đạt mức tương đương 70% GDP năm 20234. TTCK Việt Nam ghi nhận mức tăng 12,1% so với năm 2023, chốt phiên cuối năm ở mốc 1.266,78 điểm. Đây cũng là năm thứ 2 liên tiếp thị trường có mức tăng trưởng 2 con số.

Cùng với nỗ lực của các cơ quan quản lý, thị trường đã có nhiều chuyển biến tích cực trong quá trình hướng tới nâng hạng lên thị trường mới nổi. Trong đó, phải kể đến việc ban hành Thông tư số 68/2024/TT-BTC ngày 18/9/2024 của Bộ trưởng Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định về giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch chứng khoán... Bên cạnh đó, Luật Chứng khoán cũng đã được sửa đổi, bổ sung năm 2024 (Luật số 56/2024/QH15)... Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có 9,2 triệu tài khoản chứng khoán, chiếm 9,3% dân số, vượt mục tiêu 5% được đề ra trong Đề án Cơ cấu lại TTCK và thị trường bảo hiểm đến năm 2020, định hướng đến năm 20255.

Năm 2024, nhiều công ty chứng khoán tiếp tục phát hành chứng khoán thành công, thực hiện tăng vốn thông qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó nổi bật là SSI, VCI, VIX, VND, LPBS… Đã có khoảng 22 công ty chứng khoán phát hành tăng vốn; gần 2,5 tỉ chứng khoán được chào bán, phát hành, các công ty chứng khoán đã huy động thêm gần 25.000 tỉ đồng để củng cố tiềm lực vốn cho kinh doanh. Việc các công ty chứng khoán đẩy mạnh tăng vốn cho thấy sự chủ động nguồn lực để đón cơ hội mới từ hệ thống công nghệ thông tin mới vận hành, nâng hạng…, sẽ tạo ra bước ngoặt phát triển mới của TTCK năm 20256.

Có thể nhận thấy, quy mô và độ sâu thị trường tuy đã có những bước tiến vượt bậc nhưng vẫn còn nhỏ so với một số nước phát triển trong khu vực. Ngoài ra, trong xu thế cải thiện của cấu phần TTCK về quy mô và thanh khoản, cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam vẫn tồn tại sự mất cân đối khá lớn giữa hệ thống ngân hàng và TTCK. Việc mất cân đối về mặt cấu trúc trong một thời gian dài tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho từng cấu phần nói riêng và cho thị trường tài chính nói chung, nhất là khi một cấu phần phải “gánh vác” thêm cả chức năng và nhiệm vụ cho các cấu phần khác.

Theo đánh giá, đến cuối năm 2024, chỉ số dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã chiếm hơn 120%, gây áp lực cân đối vốn cho các ngân hàng. Để chia sẻ áp lực vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, tỉ lệ cho vay trung và dài hạn ở các ngân hàng luôn ở mức cao dẫn đến tiềm ẩn rủi ro thanh khoản và lãi suất cho hệ thống ngân hàng. Thị trường cổ phiếu, mặc dù quy mô vốn hóa đã cải thiện đáng kể nhưng nguồn vốn đi vào khu vực kinh tế thực thông qua phát hành cổ phiếu trên thị trường sơ cấp còn hạn chế. Trên thị trường trái phiếu, dư nợ trái phiếu vẫn ở mức thấp, với tỉ trọng lớn giá trị trái phiếu phát hành thuộc về các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bất động sản…

Không chỉ tồn tại bất cập về quy mô, thị trường vốn còn gặp phải một số tồn tại khác như:

(i) Cơ sở nhà đầu tư trên thị trường chưa thực sự đa dạng khi nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí chỉ chiếm tỉ trọng thấp; (ii) Một bộ phận trái phiếu doanh nghiệp chưa được niêm yết, phát hành riêng lẻ, nhà đầu tư khó nắm bắt thông tin, khả năng thanh khoản thấp, giao dịch trên thị trường thứ cấp còn hạn chế; (iii) Quy mô doanh nghiệp được niêm yết nhỏ hơn các nước trong khu vực, ảnh hưởng đến năng lực huy động vốn trên thị trường; (iv) Chất lượng hàng hóa chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu nhà đầu tư; (v) Thực trạng minh bạch thông tin về doanh nghiệp niêm yết còn nhiều hạn chế trong khi các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư vẫn còn thiếu hiệu quả;(vi) Tình trạng vi phạm các quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp khiến suy giảm niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường.

Về phía hệ thống ngân hàng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế thể hiện ở các khía cạnh sau: (i) Quy mô và năng lực tài chính của một số tổ chức tín dụng vẫn còn nhỏ so với khu vực, năng lực cạnh tranh còn hạn chế; (ii) Mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng còn tiềm ẩn nguy cơ bị tổn thương; (iii) Năng lực quản trị, kiểm soát rủi ro của một số tổ chức tín dụng đã được cải thiện căn bản nhưng vẫn còn hạn chế và chưa đồng bộ; (iv) Mạng lưới các tổ chức tín dụng còn tập trung tại các đô thị lớn trong khi phân bố khá mỏng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; (v) Tiến trình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc...

Những phân tích kể trên cho thấy, thời gian qua, mặc dù thị trường vốn đã phát triển khá nhanh kể từ khi có những chủ trương, định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng hiện tại, hệ thống ngân hàng vẫn đang và nhiều khả năng sẽ tiếp tục là nguồn cung vốn chính cho nền kinh tế trong thời gian tới. Dù vậy, bản thân hệ thống ngân hàng cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, cả về nội tại lẫn thách thức từ bên ngoài. Việc phát triển cân bằng hệ thống tài chính trở nên cần thiết hơn bao giờ hết nhằm bảo đảm thị trường tài chính hoạt động đúng với chức năng, góp phần vào thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

4. Một số khuyến nghị

Xuất phát từ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030 và năm 2045 và để có thể đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm: huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân: phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, hệ thống tài chính cần phải thực hiện tốt chức năng huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Một số gợi ý cho thời gian tới như sau:

Thứ nhất, tiếp tục phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, hài hòa giữa hai cấu phần chủ chốt là TTCK và hệ thống ngân hàng.

Để hình thành một thị trường tài chính phát triển bền vững, là kênh huy động và phân bổ vốn hiệu quả cho nền kinh tế thì trước tiên bản thân mỗi cấu phần của thị trường phải thực hiện tốt vai trò và chức năng của riêng mình. Đối với TTCK, cần phát triển thị trường ổn định, an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững, hội nhập; TTCK trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng, chủ yếu cho nền kinh tế; duy trì tăng trưởng về quy mô, duy trì cơ cấu hợp lý giữa các cấu phần, mở rộng, đa dạng đối tượng phát hành, chú trọng nâng cao chất lượng và tăng cường năng lực chống chịu rủi ro. Đối với hệ thống ngân hàng, cần thúc đẩy hoạt động minh bạch, cạnh tranh, an toàn, hiệu quả và bền vững; phát triển dựa trên nền tảng quản trị, công nghệ tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế; đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình; đáp ứng nhu cầu về vốn và dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế, đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai, phát triển toàn diện cả hai cấu phần TTCK và hệ thống ngân hàng.

Về phía TTCK, cần nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK thông qua triển khai hiệu quả hoạt động của các Sở Giao dịch chứng khoán và các tổ chức lưu ký, bù trừ; tạo điều kiện để khuyến khích sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ trước, trong và sau giao dịch theo quy định của pháp luật cũng như các thông lệ và chuẩn mực quốc tế; hiện đại hóa hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ các giao dịch của thị trường và hoạt động quản lý nhà nước, bảo đảm hoạt động thị trường luôn được thông suốt, an toàn và ổn định trong bối cảnh các rủi ro liên quan tới an ninh, an toàn mạng đang diễn ra phổ biến.

Về phía hệ thống ngân hàng, cần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động và áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế trong quản trị và hoạt động, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam; đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa hệ thống ngân hàng, phát triển sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng dựa trên ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số để ứng dụng hiệu quả và an toàn vào hoạt động kinh doanh.

Thứ ba, sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý về thị trường tài chính, tạo điều kiện nền tảng để phát triển TTCK và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, gắn với xử lý nợ xấu.

Cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong việc hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán, phù hợp với Luật Chứng khoán (sửa đổi), khắc phục một số bất cập phát sinh trong thực tiễn hoạt động của TTCK. Trong đó, cần tập trung hoàn thiện quy định pháp luật về giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư, giám sát và hạn chế rủi ro trên thị trường, tăng cường tính răn đe, đảm bảo trật tự, an toàn, minh bạch thị trường, củng cố niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và tiếp tục khẩn trương nghiên cứu xây dựng Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) bảo đảm đồng bộ với các luật chuyên ngành, phù hợp với các mục tiêu đặt ra tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”.

Đặc biệt, cần tiếp tục nghiên cứu và ban hành các quy định pháp luật đối với công tác can thiệp của Nhà nước đối với thị trường tài chính trong các trường hợp khẩn cấp, cần thiết trong bối cảnh diễn biến kinh tế, chính trị thế giới có nhiều chuyển biến sâu sắc, khó lường. Việc tăng cường sự phổ biến của các công cụ phòng ngừa rủi ro là hết sức cấp thiết để các tổ chức tài chính nói riêng và các chủ thể kinh tế nói chung tăng cường năng lực quản lý rủi ro, chủ động phòng ngừa, ứng phó với rủi ro.

Thứ tư, nâng cao vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý, giám sát khi phát triển thị trường tài chính theo hướng nâng cao các yếu tố thị trường.

Cơ quan quản lý nhà nước không chỉ có trách nhiệm giám sát, điều tiết thị trường vận hành thông suốt, an toàn và hiệu quả, mà còn đóng vai trò bảo đảm sự ổn định của thị trường khi rủi ro mang tính hệ thống xảy ra. Mặc dù các tổ chức tài chính được hoạt động tự chủ hơn trong hành lang pháp lý hiện đại, tiếp cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế, nhưng vai trò của cơ quan quản lý lại càng quan trọng hơn trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, cần xây dựng và triển khai các quy định pháp lý, hình thành các lực lượng phản ứng, phối hợp giữa các cơ quan quản lý và phát triển các phương án ứng phó khẩn cấp, biện pháp phục hồi sau các sự kiện bất lợi.

Cần tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan để nâng cao hiệu quả công tác giám sát liên thông, kịp thời nhận diện, cảnh báo sớm rủi ro, có cơ chế xử lý khủng hoảng hệ thống và từng tổ chức đơn lẻ tiềm ẩn rủi ro cao trong bối cảnh vai trò của hệ thống tài chính đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ngày càng được tăng cường.

1 TS. Phùng Khắc Kế, Vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, https://www.sbv.gov.vn/

2 Nghị định số 20/2022/NĐ-CP ngày 10/3/2022; Nghị định số 46/2023/NĐ-CP ngày 05/5/2023; Nghị định số 21/2023/NĐ-CP ngày 05/5/2023.

3 Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 05/01/2023.

4 https://consosukien.vn/chung-khoan-viet-nam-2025-ky-vong-bung-no-voi-viec-nang-hang-thi-truong.htm

5 https://congly.vn/dau-an-thi-truong-chung-khoan-viet-nam-nam-2024-va-trien-vong-2025-465632.html

6 https://baochinhphu.vn/cong-bo-10-su-kien-chung-khoan-noi-bat-nam-2024-102241228173140334.htm

Tài liệu tham khảo:

1. TS. Phùng Khắc Kế, Vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, https://www.sbv.gov.vn/

2. Nghị định số 20/2022/NĐ-CP ngày 10/3/2022; Nghị định số 46/2023/NĐ-CP ngày 05/5/2023; Nghị định số 21/2023/NĐ-CP ngày 05/5/2023.

3. Thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Thống kê năm 2000.

4. Nghị định số 20/2022/NĐ-CP ngày 10/3/2022; Nghị định số 46/2023/NĐ-CP ngày 05/5/2023; Nghị định số 21/2023/NĐ-CP ngày 05/5/2023.

5. Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 05/01/2023.

6. https://congly.vn/dau-an-thi-truong-chung-khoan-viet-nam-nam-2024-va-trien-vong-2025-465632.html

7. https://baochinhphu.vn/cong-bo-10-su-kien-chung-khoan-noi-bat-nam-2024-102241228173140334.htm

8. Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 21/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030.

9. Một số tài liệu tham khảo khác.

ThS. Hoàng Thị Hường
Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp

Tin bài khác

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Trong kỷ nguyên số hóa toàn diện, hành vi tiêu dùng đang chuyển dịch mạnh mẽ, đặc biệt trong phương thức thanh toán, mô hình mua trước trả sau ngày càng phổ biến nhờ tính linh hoạt, không yêu cầu thẻ tín dụng và không phát sinh lãi suất trong ngắn hạn.
Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Tại Việt Nam, hầu hết doanh nghiệp vẫn đối mặt với thách thức về dự báo dòng tiền và quản lý vốn lưu động, dẫn đến áp lực về thanh toán và chi phí vốn cao. Do đó, việc học tập kinh nghiệm quản trị dòng tiền của các doanh nghiệp lớn trên thế giới là điều cần thiết giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao hiệu quả sử dụng dòng tiền, góp phần cải thiện năng lực tài chính và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của công nghệ, tài chính số đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Tài chính toàn diện - với mục tiêu bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính chất lượng và chi phí phải chăng, đang ngày càng được quan tâm trên toàn thế giới. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được tài chính toàn diện là hiểu biết tài chính số, giúp người dân có thể tận dụng các công cụ và dịch vụ tài chính hiện đại một cách hiệu quả.
Phát huy vai trò của tổ chức tài chính vi mô trong nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ

Phát huy vai trò của tổ chức tài chính vi mô trong nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ

Tại Việt Nam, tài chính vi mô (TCVM) đã phát triển mạnh mẽ trong hai thập kỷ qua với sự tham gia của nhiều tổ chức tài chính, cả chính thức lẫn phi chính thức đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho phụ nữ nghèo và các nhóm yếu thế. Tuy nhiên, việc nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Điều này xuất phát từ các yếu tố như mức độ hiểu biết tài chính còn hạn chế, khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng số chưa cao và các rào cản văn hóa - xã hội khác.
Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin...
Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Các tổ chức tài chính vi mô thường thiết kế sản phẩm tín dụng vi mô phù hợp với đặc thù từng địa phương, từ đó giảm bớt rào cản về thủ tục, tài sản thế chấp, và tạo điều kiện cho những người chưa từng tham gia hệ thống tài chính chính thức tiếp cận dịch vụ. Việc triển khai tín dụng vi mô còn gắn liền với mạng lưới hỗ trợ cộng đồng, tư vấn sử dụng vốn và đồng hành cùng người vay trong suốt quá trình kinh doanh, giúp giảm thiểu rủi ro vỡ nợ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Thị trường bất động sản Việt Nam năm 2025 mang đến nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn, đặc biệt trong các phân khúc bất động sản xanh, nhà ở giá rẻ và bất động sản nghỉ dưỡng. Các khu vực hưởng lợi từ hạ tầng như tỉnh Đồng Nai và tỉnh Long An (nay là tỉnh Tây Ninh) cũng là điểm đến tiềm năng cho các nhà đầu tư. Để thành công trong lĩnh vực này, các nhà đầu tư cần phải có kiến thức sâu rộng và chiến lược đầu tư thông minh. Việc nắm rõ các yếu tố pháp lý, tài chính, cạnh tranh, thị trường, cơ sở hạ tầng, công nghệ, và quản lý rủi ro sẽ giúp nhà đầu tư đạt được thành công và tối ưu hóa lợi nhuận trong lĩnh vực bất động sản. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản Việt Nam.
Xem thêm
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng