Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Hoạt động ngân hàng
Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
aa
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú phát biểu khai mạc Tọa đàm
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú phát biểu khai mạc Tọa đàm

Tín dụng xanh tăng tốc mạnh mẽ

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết, trước những tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu, vấn đề về suy thoái môi trường đến phát triển kinh tế và ổn định xã hội, tăng trưởng xanh không còn là một lựa chọn mà đã trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với các quốc gia trên thế giới - đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh - phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả tài nguyên là xu thế tất yếu để Việt Nam hướng đến một tương lai bền vững, bao trùm và thịnh vượng.

Bám sát các chủ trương, định hướng trên, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết, NHNN xác định vai trò quan trọng của nguồn vốn tín dụng ngân hàng thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia nên đã vào cuộc rất sớm. Từ năm 2015, NHNN đã lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững trong các văn bản chỉ đạo công tác tín dụng, Chỉ thị thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; đặt ra yêu cầu tăng dần tỉ trọng tín dụng đầu tư cho các dự án xanh, phát triển ngân hàng xanh tại các chiến lược, đề án phát triển của ngành Ngân hàng thông qua các giải pháp tăng cường nhận thức, năng lực thực thi của toàn Ngành về tăng trưởng xanh. Đặc biệt, năm 2023, NHNN tiếp tục ban hành Kế hoạch hành động của toàn Ngành triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và các đề án về chống biến đổi khí hậu của Việt Nam, với 7 nhóm nhiệm vụ đồng bộ, toàn diện cho các đơn vị vụ, cục, chi nhánh của NHNN và các tổ chức tín dụng (TCTD).

Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ tín dụng xanh giai đoạn 2017 - 2024 đạt trên 21%/năm, vượt xa tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của toàn Ngành. Sự phát triển về lượng đi cùng với cải thiện rõ rệt về chất. Đã có 57 TCTD triển khai đánh giá rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, với tổng dư nợ được đánh giá đạt 3,62 triệu tỉ đồng, tăng gấp hơn 15 lần so với năm 2017. Nhiều ngân hàng đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi xanh, tích hợp tiêu chí tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, đồng thời công bố báo cáo phát triển bền vững, gia tăng tính minh bạch, giải trình và khẳng định vị thế trên thị trường tài chính - tín dụng quốc tế. Điều này cho thấy tín dụng xanh không còn là khái niệm mới lạ mà đã trở thành một hướng đi chiến lược được nhiều ngân hàng tích cực theo đuổi.

Sau gần 2 năm triển khai, Kế hoạch hành động của Ngành đã đạt nhiều kết quả tích cực. Bà Phạm Thị Thanh Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN khẳng định, nhận thức về yêu cầu phát triển bền vững có sự chuyển biến rõ rệt. Theo đó, 60% TCTD đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh; 23 TCTD đã công bố báo cáo phát triển bền vững. Tính đến tháng 3/2025 đã có 58 TCTD phát sinh dư nợ xanh (năm 2017 chỉ có 15 TCTD), tốc độ tăng trưởng bình quân dư nợ tín dụng xanh giai đoạn 2017 - 2024 đạt trên 21%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng chung cho nền kinh tế. Đã có có 57 TCTD thực hiện đánh giá rủi ro môi trường và xã hội với dư nợ 3,62 triệu tỉ đồng, tăng hơn 15 lần so với thời điểm năm 2017. Nhiều TCTD đã công bố báo cáo phát triển bền vững, tăng tính giải trình và minh bạch, ngày càng khẳng định uy tín và vị thế của mình.

Là một quốc gia có nền tảng nông nghiệp vững chắc, Việt Nam đang ngày càng chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp bền vững. Ông Đoàn Ngọc Lưu, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) cho biết, Agribank có tỉ trọng tài trợ dự án xanh trong tổng dư nợ tín dụng tăng từ 0,9% năm 2020 lên 1,7% năm 2024. Quý I/2025, Agribank tiếp tục dẫn đầu về số lượng khách hàng được cấp tín dụng thuộc lĩnh vực xanh với hơn 41.600 khách hàng và tổng dư nợ đạt gần 29.300 tỉ đồng; triển khai chương trình cho vay liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030".

Tuy nhiên, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cũng nhìn nhận, thực tế cho thấy, việc triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng còn không ít khó khăn. Theo đó, việc triển khai chưa thực sự đồng đều, nhiều TCTD, ngân hàng thương mại chưa báo cáo NHNN, chưa phát sinh tín dụng dư nợ tín dụng xanh; kết quả tín dụng xanh chưa cao mặc dù còn nhiều dư địa phát triển, do thiếu khung pháp lý về danh mục xanh; công cụ thẩm định rủi ro còn hạn chế, thời gian hoàn vốn của dự án đầu tư xanh dài, hiệu quả tài chính chưa rõ ràng; việc huy động nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính xanh quốc tế còn hạn chế.

Dưới góc độ của một ngân hàng, ông Trần Phương - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) chia sẻ, Chính phủ chưa ban hành quy định về tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; chưa có các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích cụ thể đối với việc cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; phần lớn vốn huy động ngắn hạn, trong khi các dự án môi trường có thời gian hoàn vốn dài, đầu tư lớn; hệ thống thông tin quản lý và các công cụ hỗ trợ kiểm soát, giám sát danh mục xanh và ESG còn hạn chế do khung pháp lý chưa hoàn thiện…

Bên cạnh đó, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú còn chia sẻ, yêu cầu ngày càng cao về quản trị, chất lượng nguồn nhân lực ngân hàng trong lĩnh vực môi trường, xã hội, khí hậu để nhận diện, thẩm định quản lý, giám sát khoản cấp tín dụng cũng như tư vấn, hỗ trợ khách hàng đáp ứng các tiêu chí mới của quốc tế về phát thải… Để giải quyết những khó khăn này không chỉ có sự nỗ lực của ngành Ngân hàng mà cần phối hợp đồng bộ các cơ quan quản lý Nhà nước, sự hỗ trợ chia sẻ kinh nghiệm và nguồn lực của các tổ chức quốc tế. Trong khi đó, năm 2025 là năm có ý nghĩa quan trọng đánh giá 5 năm triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2025. Đây cũng là cơ hội để ngành Ngân hàng đánh giá khách quan, toàn diện những kết quả đã đạt được, nhận diện những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại, làm cơ sở cho việc điều chỉnh, hoàn thiện định hướng giải pháp, nhằm thúc đẩy thực hiện Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng hiệu quả hơn, góp phần đạt được mục tiêu của chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn tới.

Tăng cường hợp tác quốc tế tạo nguồn vốn cho tín dụng xanh

Gợi ý một số giải pháp trong thời gian tới, TS. Michaela Baur, Giám đốc GIZ tại Việt Nam tin rằng, phân loại xanh là yếu tố then chốt để định hướng các dòng vốn hướng tới tăng trưởng xanh và giúp Việt Nam tiếp cận nguồn tài chính xanh toàn cầu. Từ năm 2017, theo ủy thác của Chính phủ Đức, GIZ đã hỗ trợ NHNN xây dựng "Báo cáo thống kê tín dụng xanh". Đây được xem là phiên bản sơ khởi của một hệ thống phân loại xanh dành riêng cho ngành Ngân hàng, nhằm theo dõi và thúc đẩy các hoạt động tín dụng xanh.

Trong giai đoạn tiếp theo của Chiến lược tăng trưởng xanh, một hệ thống phân loại xanh quy mô quốc gia là hết sức quan trọng. Hệ thống này cần phải áp dụng toàn diện cho cả ngân hàng và thị trường vốn, đồng thời phù hợp với hệ thống phân loại ngành quốc gia của Việt Nam. Ngoài ra, hệ thống này phải cung cấp cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về tài chính xanh, đồng thời phù hợp với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Hiện tại, GIZ đang tích cực hợp tác với NHNN và các bộ, ngành liên quan để xây dựng hệ thống phân loại xanh quốc gia, dự kiến sẽ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2025, TS. Michaela Baur khẳng định.

Không chỉ vậy, hiện nhiều ngân hàng đang tăng tốc kiện toàn các nền tảng trụ cột cho khung phát triển bền vững, hướng tới việc tạo ra giá trị và tác động tích cực. Bà Nguyễn Minh Châu - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB) cho biết, MB đặt mục tiêu đầy tham vọng, trở thành ngân hàng xanh tiên phong, điển hình dẫn dắt về chuyển đổi ESG toàn diện trong chuỗi giá trị, hướng tới trung hòa carbon vào năm 2030. MB cũng sẽ tiên phong trong các giải pháp tài chính khí hậu, tận dụng thế mạnh nội tại về công nghệ số. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cùng với các TCTD khác, MB mong muốn NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các hiệp hội để tăng cường truyền thông và nâng cao năng lực về ESG cho toàn Ngành. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc tổ chức các hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, cũng như xây dựng các cơ chế khuyến khích và hỗ trợ phù hợp.

Về phía NHNN, trong thời gian tới, trên cơ sở bám sát các mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và các nhiệm vụ được giao tại đề án, chiến lược, kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh hay chống biến đổi khí hậu, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp, chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động của ngành Ngân hàng hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Cụ thể, NHNN tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ (bao gồm động lực truyền thống và động lực mới), hỗ trợ nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 8% trở lên; tiếp tục rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hướng dẫn về tín dụng xanh, trong đó đề xuất sửa đổi bổ sung cơ chế, chính sách tín dụng ưu đãi khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp theo mô hình kinh tế tuần hoàn; chỉ đạo TCTD tập trung nguồn vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân thực hiện các dự án xanh, thân thiện môi trường, mô hình kinh tế tuần hoàn.

Đồng thời, tích cực kết nối, làm việc với các tổ chức trong và ngoài nước để tiếp nhận các hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ kỹ thuật để triển khai các hoạt động về tài chính xanh, ngân hàng xanh, đặc biệt là nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ ngân hàng về ngân hàng - tín dụng xanh, biến đổi khí hậu; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trong ngành Ngân hàng nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết cho cán bộ ngân hàng, khách hàng về tăng trưởng xanh, sản xuất và tiêu dùng bền vững.

Một điểm nhấn quan trọng khác của Tọa đàm là Lễ ra mắt "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài". Bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN cho biết, đây là một sản phẩm hợp tác giữa NHNN và Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), được xây dựng theo các thông lệ quốc tế nhằm hỗ trợ TCTD áp dụng tiêu chuẩn ESG trong hoạt động tín dụng, thúc đẩy mục tiêu tài chính bền vững. Cấu trúc của Sổ tay gồm phạm vi và nguyên tắc quản lý rủi ro môi trường xã hội; hệ thống quản lý rủi ro môi trường xã hội; các chỉ số về môi trường xã hội và báo cáo; đề cập cách thức tham gia của các bên liên quan...

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh, việc ra mắt Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng do NHNN và IFC phối hợp biên soạn là rất thiết thực, "cầm tay chỉ việc" cho các TCTD trong việc xây dựng quy trình cụ thể và phù hợp theo tính chất từng ngân hàng và khoản vay. Đây là tài liệu tham khảo có tính thực tiễn cao, giúp các TCTD tăng cường quản lý rủi ro theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, góp phần triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.

Hương Giang

Tin bài khác

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô