Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Chính sách
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
aa

Tóm tắt: Ngày 26/8/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 10/10/2025 trong bối cảnh thị trường vàng Việt Nam đã trải qua hơn một thập kỷ chịu sự điều chỉnh theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, với cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng và kiểm soát chặt chẽ hoạt động xuất - nhập khẩu vàng nguyên liệu. Những bất cập trong cơ chế cũ, từ tình trạng chênh lệch giá trong và ngoài nước duy trì ở mức cao, sự hạn chế cạnh tranh, đến những lỗ hổng trong quản lý dòng tiền và thu thuế, đã đặt ra nhu cầu cấp thiết phải cải cách. Nghị định số 232/2025/NĐ-CP ra đời không chỉ khắc phục những điểm nghẽn này, mà còn nhằm định hình lại cấu trúc thị trường vàng theo hướng minh bạch, cạnh tranh có kiểm soát và gắn kết chặt chẽ hơn với hệ thống tài chính - ngân hàng. Bài viết tập trung phân tích những quy định cốt lõi của Nghị định số 232/2025/NĐ-CP, làm rõ tác động của chính sách đối với thị trường vàng, hệ thống tài chính - ngân hàng và nền kinh tế vĩ mô, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả triển khai trong thực tiễn.

Từ khóa: Nghị định số 232/2025/NĐ-CP, thị trường vàng, vàng miếng.

DECREE NO.232/2025/ND-CP DATED AUGUST 26, 2025 OF THE GOVERNMENT: A NEW TURNING POINT FOR THE GOLD MARKET AND FINANCIAL - MONETARY POLICY

Abstract: Issued by the Government on August 26, 2025, Decree No.232/2025/ND-CP amends and supplements a number of articles of Decree No.24/2012/ND-CP dated April 3, 2012 on the management of gold trading activities. This Decree, effective from October 10, 2025, comes in the context of Vietnam’s gold market having been regulated for more than a decade under Decree No.24/2012/ND-CP, which established a State monopoly on bullion production and strict control over the import and export of raw gold. Limitations in the old mechanism, including persistent gaps between domestic and international gold prices, restricted competition, and loopholes in cash flow and tax management, have created a pressing need for reform. Decree No.232/ND-CP not only addresses these bottlenecks but also aims to reshape the gold market towards greater transparency, controlled competition, and closer integration with the financial - banking system. This article analyzes the key provisions of Decree No.232/2025/ND-CP, clarifies the policy’s impacts on the gold market, the financial - banking system, and the macroeconomy, while also offering recommendations to enhance implementation effectiveness in practice.

Keywords: Decree No.232/2025/ND-CP, gold market, gold bullion.

1. Một số quy định nổi bật tại Nghị định số 232/2025/NĐ-CP

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1.1. Xóa bỏ cơ chế độc quyền của Nhà nước trong sản xuất vàng miếng, xuất khẩu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Việc bãi bỏ khoản 3 Điều 4 Nghị định số 24/2012/NĐ-CP không chỉ dừng lại ở thay đổi kỹ thuật pháp lý, mà là sự điều chỉnh mang tính chiến lược đối với vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường vàng. Nếu như trước đây, quyền sản xuất vàng miếng và quyền xuất - nhập khẩu vàng nguyên liệu hoàn toàn thuộc độc quyền Nhà nước, dẫn tới cơ chế cung một chiều, thì nay, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP đã chính thức mở ra khuôn khổ pháp lý cho sự tham gia của các chủ thể ngoài Nhà nước khi đáp ứng điều kiện chặt chẽ về vốn, năng lực quản trị và tuân thủ. Việc bãi bỏ quy định “Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng” đồng nghĩa với việc cho phép nhiều doanh nghiệp, ngân hàng thương mại (NHTM) đủ điều kiện tham gia sẽ thúc đẩy hình thành một thị trường vàng có tính cạnh tranh hơn, hạn chế tình trạng phụ thuộc vào một số ít thương hiệu truyền thống, đồng thời khuyến khích đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng và dịch vụ.

Hơn nữa, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh sang hoạt động sản xuất vàng miếng đặt nền móng cho Nhà nước có thể quản lý theo chuỗi giá trị từ nhập khẩu nguyên liệu, sản xuất, phân phối đến lưu thông. Điều này cho phép kiểm soát rủi ro hệ thống tốt hơn, hỗ trợ chính sách tiền tệ và chính sách ngoại hối phối hợp hiệu quả hơn trong bối cảnh biến động giá vàng toàn cầu.

1.2. Quy định bắt buộc thanh toán qua tài khoản ngân hàng đối với giao dịch vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên

Quy định mới tại Nghị định số 232/2025/NĐ-CP yêu cầu mọi giao dịch mua, bán vàng với giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên phải thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng, thay vì thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt1. Quy định này thể hiện rõ định hướng chuẩn hóa hoạt động giao dịch vàng tuân theo chuẩn mực tài chính - ngân hàng, giúp minh bạch hóa dòng tiền, tăng cường giám sát và phòng, chống rửa tiền, thúc đẩy chính quy hóa và giảm rủi ro hệ thống. Giao dịch lớn thông qua hệ thống ngân hàng đồng nghĩa với việc hạn chế giao dịch vàng truyền thống bằng tiền mặt, mọi luồng tiền đều có thể được truy vết, ghi nhận và đối chiếu, từ đó nâng cao chất lượng thống kê thị trường và giảm thiểu nguy cơ gian lận.

Với cơ chế mới, NHTM trở thành khâu trung gian bắt buộc trong chuỗi giao dịch vàng. Từ đó, cơ quan quản lý nhà nước vừa có dữ liệu tập trung để phát hiện giao dịch bất thường vừa tích hợp được quy định về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố vào trong quản lý thị trường vàng. Với việc bổ sung quy định này, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP đã đưa vàng tiến gần hơn tới các chuẩn mực quản lý của thị trường tài chính hiện đại, biến vàng từ tài sản phi chính thức thành một đối tượng quản lý minh bạch, có thể kiểm soát và tích hợp vào hệ thống giám sát vĩ mô.

1.3. Cơ chế cấp phép sản xuất vàng miếng với yêu cầu vốn điều lệ ở mức cao

Một trong những điểm mới quan trọng của Nghị định số 232/2025/NĐ-CP là bổ sung Điều 11a, quy định cụ thể các điều kiện để được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng. Cụ thể: Doanh nghiệp chỉ được xem xét cấp phép khi có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng và vốn điều lệ tối thiểu 1.000 tỷ đồng, đồng thời phải thiết lập hệ thống tuân thủ và quy trình nội bộ theo chuẩn mực quản trị rủi ro; NHTM được xét cấp phép với yêu cầu cao hơn, bao gồm Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng và vốn điều lệ từ 50.000 tỷ đồng trở lên, kèm theo các nghĩa vụ quản trị và kết nối dữ liệu với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Quy định này mang ý nghĩa chiến lược trên nhiều phương diện:

Thứ nhất, ngưỡng vốn điều lệ rất cao giúp loại bỏ doanh nghiệp nhỏ, yếu, kém, chỉ giữ lại những định chế có tiềm lực tài chính và khả năng chịu rủi ro dài hạn.

Thứ hai, yêu cầu về hệ thống tuân thủ, quy trình nội bộ và kết nối dữ liệu giúp đưa hoạt động sản xuất vàng miếng tiến gần hơn tới chuẩn mực quản lý tài chính - ngân hàng, từ đó nâng cao tính minh bạch và niềm tin của thị trường.

Thứ ba, các NHTM lớn đủ vốn điều lệ được định vị như định chế tài chính trụ cột, vừa tham gia sản xuất vàng, vừa có khả năng đảm bảo ổn định hệ thống nhờ mạng lưới, công nghệ và khả năng quản trị rủi ro.

Thứ tư, khi các chủ thể tham gia đều là những tổ chức quy mô lớn, Nhà nước có điều kiện thuận lợi hơn để phối hợp chính sách vàng với chính sách tiền tệ và ngoại hối, hạn chế rủi ro lan truyền sang hệ thống tài chính.

1.4. Tăng cường trách nhiệm pháp lý và chuẩn mực hoạt động của các tổ chức sản xuất, kinh doanh vàng miếng

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP quy định trách nhiệm của các tổ chức được phép sản xuất, kinh doanh mua, bán vàng miếng2, bao gồm: Công bố tiêu chuẩn chất lượng, thực hiện chế độ bảo hành sản phẩm, lưu trữ và kết nối dữ liệu giao dịch với NHNN, niêm yết giá công khai, chấm dứt mô hình kinh doanh thông qua đại lý ủy nhiệm, đồng thời thiết lập quy trình nội bộ và hệ thống thông tin tuân thủ... Đây không chỉ là các yêu cầu kỹ thuật, mà phản ánh sự thay đổi về triết lý quản lý thị trường vàng:

(i) Việc bắt buộc công bố tiêu chuẩn và áp dụng chế độ bảo hành đưa vàng miếng trở thành một loại hàng hóa có trách nhiệm sản phẩm, tương tự các hàng hóa công nghiệp có giá trị cao khác. Điều này giúp người mua có cơ sở pháp lý để yêu cầu chất lượng và hạn chế rủi ro gian lận tuổi vàng;

(ii) Việc các doanh nghiệp phải kết nối dữ liệu sản xuất - giao dịch với NHNN và niêm yết giá công khai sẽ giúp giảm tình trạng giá không thống nhất giữa niêm yết và thực tế, đồng thời cung cấp dữ liệu gần như theo thời gian thực cho cơ quan quản lý để kịp thời can thiệp khi thị trường biến động bất thường;

(iii) Yêu cầu thiết lập quy trình nội bộ và hệ thống thông tin đồng bộ không chỉ giảm thiểu rủi ro vận hành, mà còn nâng chuẩn quản trị rủi ro và tuân thủ trong toàn bộ chuỗi cung ứng vàng miếng. Điều này cũng tạo điều kiện để đồng bộ hóa với các quy định về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế;

(iv) Việc chấm dứt cơ chế kinh doanh qua đại lý ủy nhiệm buộc các doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trực tiếp về sản phẩm và giá cả. Điều này vừa hạn chế tình trạng thao túng, đầu cơ thông qua mạng lưới trung gian, vừa khuyến khích các tổ chức xây dựng hệ thống phân phối chính quy, minh bạch hơn.

1.5. Khung quản lý xuất - nhập khẩu vàng dựa trên hạn mức, giấy phép và chuẩn chất lượng

Khoản 9 Điều 1 Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 14 Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về xuất khẩu, nhập khẩu vàng. Theo đó, hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu vàng nguyên liệu, vàng miếng được điều chỉnh theo ba điểm then chốt gồm:

(i) NHNN quy định hạn mức nhập khẩu hằng năm và cấp Giấy phép cho từng lần nhập khẩu đối với các doanh nghiệp và NHTM đủ điều kiện. Cơ chế mới trở thành công cụ điều tiết linh hoạt, giúp NHNN vừa định hướng cung cầu vàng theo từng giai đoạn, vừa duy trì quyền giám sát trực tiếp đối với từng lô hàng. Nhờ kết hợp hạn mức nhập khẩu hằng năm với giấy phép từng lần, Nhà nước có thể kiểm soát tổng lượng vàng chính ngạch, đồng thời chủ động ứng phó trước các biến động bất thường của thị trường quốc tế hoặc nguy cơ đầu cơ, buôn lậu.

(ii) Quy định chỉ được phép nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu có hàm lượng từ 99,5% trở lên, hạn chế nguy cơ nhập khẩu vàng chất lượng thấp, bảo vệ niềm tin của người tiêu dùng, đồng thời giảm rủi ro gian lận thương mại. Việc chuẩn hóa tiêu chuẩn tinh khiết không chỉ nâng cao chất lượng hàng hóa, mà còn góp phần củng cố uy tín của thương hiệu vàng miếng trong nước, tạo sự tương thích với thông lệ quốc tế và hỗ trợ thu hẹp chênh lệch giá giữa thị trường trong nước và thế giới.

(iii) Các điều kiện cấp phép trước đây được quy định tại Thông tư số 16/2012/TT-NHNN ngày 25/5/2012 của Thống đốc NHNN hướng dẫn một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, nhưng nay đã được nâng lên thành quy định tại Nghị định số 232/2025/NĐ-CP. Sự thay đổi này không chỉ tăng tính minh bạch và ổn định của khung pháp lý, mà còn giảm thiểu nguy cơ chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản dưới luật. Khi các yêu cầu được quy định trực tiếp trong Nghị định, doanh nghiệp có cơ sở pháp lý rõ ràng hơn để hoạch định chiến lược, từ đó củng cố niềm tin của thị trường vào tính minh bạch và sự nhất quán trong chính sách quản lý vàng.

2. Một số tác động của chính sách

2.1. Đối với thị trường vàng

Việc xóa bỏ cơ chế độc quyền Nhà nước trong sản xuất vàng miếng tạo ra bước ngoặt quan trọng, mở đường cho nhiều doanh nghiệp và NHTM đủ điều kiện tham gia với thương hiệu riêng. Sự tham gia của nhiều chủ thể sẽ giúp đa dạng hóa nguồn cung, gia tăng mức độ cạnh tranh ở cả khâu sản xuất và phân phối. Nhờ đó, chi phí gia công và chiết khấu có thể giảm dần, đồng thời chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách hàng được nâng lên theo tiêu chuẩn cao hơn. Điều này góp phần dịch chuyển thị trường vàng từ tình trạng tập trung vào số ít thương hiệu lớn sang một cấu trúc đa dạng và minh bạch hơn, phù hợp với đặc trưng của thị trường hàng hóa có tính chiến lược trong nền kinh tế hiện đại. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, chính sách khó có thể mang lại hiệu quả ngay lập tức do một số nguyên nhân như: (i) Quy trình cấp phép sản xuất mới cần thời gian để được triển khai và thẩm định chặt chẽ. (ii) Ngưỡng vốn điều lệ rất cao (1.000 tỷ đồng đối với doanh nghiệp và 50.000 tỷ đồng đối với NHTM) tạo rào cản đáng kể, khiến số lượng đơn vị tham gia ban đầu bị giới hạn ở một nhóm nhỏ có tiềm lực tài chính mạnh. (iii) Thói quen tiêu dùng vàng miếng của người dân vẫn gắn chặt với các thương hiệu truyền thống lâu năm, nên việc xây dựng niềm tin vào thương hiệu mới sẽ cần thời gian, cùng với chiến lược truyền thông, chế độ bảo hành và chính sách thu mua lại sản phẩm nhất quán.

Vì vậy, tác động cải thiện thực chất về cạnh tranh, nguồn cung và giá cả hiệu quả trong trung dài hạn khi các chủ thể mới hoàn tất đầu tư hạ tầng sản xuất và phân phối, củng cố uy tín thương hiệu và người tiêu dùng dần chấp nhận sự xuất hiện của nhiều lựa chọn thay thế.

2.2. Đối với thị trường tài chính - ngân hàng

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP trao quyền tham gia sản xuất vàng miếng cho các NHTM đáp ứng điều kiện rất cao về vốn điều lệ (tối thiểu 50.000 tỷ đồng). Trên thực tế, chỉ một số ít NHTM quy mô lớn có thể đáp ứng được ngưỡng này, từ đó hình thành một nhóm các định chế tài chính chủ đạo trong thị trường vàng miếng. Việc tham gia toàn bộ chuỗi giá trị từ sản xuất đến phân phối giúp các ngân hàng không chỉ mở rộng hệ sinh thái dịch vụ tài chính (bao gồm bảo quản, lưu ký và giao dịch tuân thủ chuẩn mực xác thực khách hàng (KYC) hay chống rửa tiền (AML) mà còn từng bước đưa vàng vào khuôn khổ các sản phẩm ngân hàng chính quy, qua đó thu hẹp dần vai trò của các kênh giao dịch phi chính thức.

Song song với cơ hội mở rộng chuỗi giá trị, các NHTM cũng phải đối mặt với những yêu cầu quản trị đặc biệt cao. Điều này bao gồm việc tăng cường kiểm soát rủi ro vận hành kho quỹ, bảo hiểm tài sản, giám sát nội bộ, đồng thời đầu tư hệ thống công nghệ thông tin đủ mạnh để đáp ứng chuẩn kết nối dữ liệu theo quy định của NHNN. Nói cách khác, NHTM không chỉ đơn thuần là chủ thể kinh doanh, mà còn được định vị như những định chế tài chính trụ cột với trách nhiệm hệ thống. Hơn nữa, hoạt động nhập khẩu vàng nguyên liệu chắc chắn tạo thêm áp lực lên thị trường ngoại hối, đặc biệt trong các giai đoạn giá vàng quốc tế biến động mạnh. Tuy nhiên, cơ chế kết hợp giữa hạn mức nhập khẩu hằng năm và giấy phép từng lần cung cấp cho NHNN công cụ điều tiết linh hoạt, giúp phân bổ nhu cầu ngoại tệ theo lộ trình và tránh gây sốc cho cán cân thanh toán. Đồng thời, nghĩa vụ báo cáo chi tiết về giá, khối lượng, đối tác và mục đích nhập khẩu mang lại cho NHNN bức tranh toàn diện, tạo cơ sở phối hợp hiệu quả hơn giữa chính sách vàng, tỷ giá và lãi suất. Đây là nền tảng quan trọng để đồng bộ hóa quản lý vàng với mục tiêu ổn định tiền tệ và kiểm soát lạm phát kỳ vọng.

2.3. Đối với nền kinh tế vĩ mô

Lịch sử giao dịch cho thấy, vàng vẫn được coi là điểm tựa tâm lý quan trọng đối với nhà đầu tư và người dân, đặc biệt trong những giai đoạn thị trường tài chính - tiền tệ biến động mạnh. Do đó, những thay đổi trên thị trường vàng quốc tế thường nhanh chóng lan tỏa vào tâm lý trong nước, tạo áp lực lớn lên kỳ vọng lạm phát. Với định hướng minh bạch hóa và đa dạng hóa nguồn cung, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP được kỳ vọng sẽ từng bước làm giảm vị thế tuyệt đối của vàng như kênh trú ẩn an toàn. Khi nguồn cung chính thức ổn định hơn và thông tin thị trường trở nên rõ ràng, hiện tượng dòng vốn tập trung quá mức vào vàng mỗi khi rủi ro gia tăng sẽ được hạn chế, qua đó hỗ trợ Nhà nước trong việc điều tiết kỳ vọng lạm phát. Dù không tác động trực tiếp đến CPI, đây vẫn là yếu tố quan trọng giúp giảm cú sốc tâm lý và củng cố hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời, cơ chế niêm yết giá công khai và kết nối dữ liệu giao dịch với NHNN giúp hạn chế tình trạng nhiễu loạn thông tin, giảm thiểu khả năng thao túng từ hoạt động đầu cơ hoặc tin đồn sai lệch.

Ở góc độ vĩ mô, việc cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu theo khuôn khổ chính thức với giới hạn định lượng chắc chắn làm gia tăng nhu cầu ngoại tệ, nhưng đồng thời mang lại công cụ để Nhà nước chủ động đo lường, kiểm soát và phân bổ hợp lý. Nhờ vậy, các cú sốc từ thị trường vàng quốc tế ít có khả năng gây áp lực ngầm lên tỷ giá, trong khi NHNN vẫn duy trì được sự chủ động trong phối hợp chính sách ngoại hối và quản lý dự trữ ngoại tệ.

Ngoài ra, việc áp dụng các nghĩa vụ mới đối với doanh nghiệp như phát hành hóa đơn điện tử, lưu trữ và kết nối dữ liệu giao dịch sẽ mở rộng cơ sở thuế và hạn chế thất thu ngân sách trong một lĩnh vực vốn có tính phi chính thức cao. Song song, yêu cầu loại bỏ mô hình đại lý ủy nhiệm và triển khai cơ chế công bố, bảo hành tiêu chuẩn sản phẩm buộc doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị và trách nhiệm sản phẩm. Điều này không chỉ giúp giảm thiểu tranh chấp liên quan đến chất lượng, mà quan trọng hơn còn thúc đẩy quá trình chính quy hóa toàn bộ chuỗi giá trị vàng, đưa vàng tiệm cận với chuẩn mực quản lý của một loại hàng hóa chiến lược trong nền kinh tế hiện đại.

3. Một số khuyến nghị chính sách

Trong giai đoạn đầu triển khai, chênh lệch giá vàng trong nước so với quốc tế có thể từng bước thu hẹp nhưng khó đạt hiệu quả ngay trong ngắn hạn. Nguyên nhân đến từ độ trễ trong quy trình cấp phép, thời gian xây dựng thương hiệu, niềm tin của người tiêu dùng và cơ chế phân bổ hạn mức nhập khẩu. Do đó, số lượng thương hiệu vàng miếng mới dự kiến chỉ tăng ở mức vừa phải, trong khi lợi thế ban đầu thuộc về các NHTM và doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh. Điểm sáng là dữ liệu tập trung về sản xuất, nhập khẩu và giao dịch vàng sẽ giúp NHNN nâng cao năng lực dự báo và điều hành linh hoạt hơn. Từ đó, một số khuyến nghị chính sách được đưa ra để bảo đảm quá trình chuyển đổi được triển khai hiệu quả như sau:

3.1. Đối với NHNN và các bộ, ngành liên quan

Cần sớm chuẩn hóa hệ thống dữ liệu và giao diện lập trình ứng dụng (API) về sản xuất, nhập khẩu và giao dịch vàng, đảm bảo cập nhật gần thời gian thực để nâng cao hiệu quả giám sát và dự báo. Đồng thời, ban hành bộ quy chuẩn nhận diện và chống hàng giả cho vàng miếng (chẳng hạn QR code, số seri truy xuất nguồn gốc) nhằm bảo vệ người tiêu dùng và hạn chế rủi ro gian lận thương mại. Ngoài ra, việc duy trì truyền thông định kỳ về chênh lệch giá trong - ngoài nước, diễn biến cung - cầu và công cụ điều hành sẽ góp phần củng cố niềm tin thị trường, hạn chế tác động tiêu cực từ tâm lý đám đông.

3.2. Đối với NHTM và doanh nghiệp

Các tổ chức dự định tham gia sản xuất vàng miếng cần đồng thời đáp ứng cả yêu cầu nội bộ và đối ngoại. Về nội bộ, cần tiến hành rà soát toàn diện năng lực vốn, hệ thống kho quỹ, hạ tầng công nghệ và nguồn nhân sự, đồng thời thiết lập quy trình tuân thủ và cơ chế quản trị rủi ro phù hợp với các quy định tại Điều 11a và Điều 12 của Nghị định số 232/2025/NĐ-CP. Về đối ngoại, các tổ chức phải chuẩn bị chính sách bảo hành cùng cơ chế thu mua lại sản phẩm thống nhất để tạo dựng niềm tin thương hiệu, đồng thời chủ động quản trị rủi ro ngoại hối trong toàn bộ chu kỳ nhập khẩu vàng nhằm hạn chế áp lực lên tỷ giá, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ và duy trì sự ổn định tài chính.

3.3. Đối với nhà đầu tư và công chúng

Trong giai đoạn chuyển đổi, nhà đầu tư cần ưu tiên giao dịch tại các tổ chức có niêm yết rõ ràng và kết nối trực tiếp với NHNN để đảm bảo minh bạch giá và an toàn thanh toán. Việc tuân thủ quy định thanh toán qua ngân hàng đối với giao dịch từ 20 triệu đồng trong ngày không chỉ đáp ứng yêu cầu pháp lý mà còn bảo vệ quyền lợi của chính nhà đầu tư. Đồng thời, cần thận trọng trước các thông tin về cấp phép sản xuất mới, tránh chạy theo tâm lý đầu cơ ngắn hạn, bởi nguồn cung bổ sung thường có độ trễ và chưa tác động ngay đến mặt bằng giá vàng.

4. Kết luận

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành. Tuy nhiên, để chính sách đi vào thực tiễn hiệu quả, cần sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, các NHTM, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Chỉ khi các trụ cột này vận hành hài hòa, thị trường vàng mới thực sự trở thành một cấu phần ổn định, hỗ trợ tích cực cho mục tiêu kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính và củng cố lòng tin của công chúng.

1 Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 232/2025/NĐ-CP quy định: “4. Bổ sung khoản 10 Điều 4 như sau: 10. Việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.

2 Khoản 8 Điều 1 Nghị định số 232/2025/NĐ-CP.

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ (2025), Nghị định số 232/2025/NĐ-CP ngày 26/8/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

2. Chính phủ (2012), Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

3. Báo điện tử Chính phủ (2025), Chính thức xóa bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, https://baochinhphu.vn/chinh-thuc-xoa-bo-co-che-nha-nuoc-doc-quyen-san-xuat-vang-mieng-102250826145041005.htm

3. Báo điện tử Chính phủ (2025), Quy định mới về xuất, nhập khẩu vàng, https://baochinhphu.vn/quy-dinh-moi-ve-xuat-nhap-khau-vang-10225082617003717.htm

4. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ (2025), Nghị định số 232/2025/NĐ-CP: Đặt nền móng minh bạch, ổn định cho thị trường vàng, https://thitruongtaichinhtiente.vn/nghi-dinh-so-232-2025-nd-cp-dat-nen-mong-minh-bach-on-dinh-cho-thi-truong-vang-70129.html

Nguyễn Trung Kiên
Trưởng phòng Thanh tra, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước

Tin bài khác

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, vừa là cơ quan quản lý vừa là động lực thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia mà còn nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Xem thêm
Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, vừa là cơ quan quản lý vừa là động lực thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia mà còn nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường tài sản mã hóa ở Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh xét theo cả quy mô giao dịch và mức độ phổ cập trong đời sống tài chính, yêu cầu hoàn thiện khung phòng, chống rửa tiền trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, bởi các chỉ dấu khách quan cho thấy Việt Nam vừa nằm trong nhóm quốc gia có giá trị giao dịch trên chuỗi rất lớn.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô