Kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025)

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Hoạt động ngân hàng
Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
aa
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Cách mạng Tháng Tám: Bước khởi đầu cho nền tài chính độc lập

Từ những ngày đầu giành độc lập, tinh thần tự lực và khát vọng kiến tạo vào mùa Thu năm 1945 đã định hình con đường phát triển của ngành Ngân hàng. Ngay trong bối cảnh đất nước còn muôn vàn khó khăn, nhiệm vụ xây dựng nền tiền tệ độc lập, tự chủ đã được xác định là trụ cột để củng cố chính quyền và phục vụ kháng chiến. Dấu mốc quan trọng là vào ngày 06/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Hệ thống ngân hàng được giao nhiệm vụ vừa phục vụ sản xuất, vừa bảo đảm hậu cần tài chính cho kháng chiến, đồng thời đặt nền móng cho các ngân hàng chuyên doanh.

Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, hệ thống ngân hàng miền Nam được tiếp quản và sáp nhập, hoạt động thống nhất dưới tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Từ năm 1986, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, ngành Ngân hàng từng bước tái cấu trúc theo mô hình ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại, hiện đại hóa hạ tầng, mở rộng mạng lưới, hội nhập ngày càng sâu vào hệ thống tài chính toàn cầu. Từ nền móng được xây dựng trong những năm đầu thành lập, ngành Ngân hàng đã vươn mình trở thành một hệ thống hiện đại, hội nhập, giữ vai trò “huyết mạch” của nền kinh tế và là động lực quan trọng cho tăng trưởng bền vững, ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Tất cả đã được hun đúc từ khí thế mùa Thu lịch sử năm 1945 và được bền bỉ phát huy qua từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Vai trò trụ cột của ngành Ngân hàng trong công cuộc phát triển đất nước

Ngày nay, vai trò của ngành Ngân hàng được khẳng định nổi bật trên nhiều phương diện, thể hiện sự kế thừa và phát huy tinh thần độc lập, tự cường của dân tộc, đồng thời thích ứng linh hoạt với bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số toàn cầu. Cụ thể: (1) Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô thông qua điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, kiểm soát lạm phát hiệu quả; (2) Đồng hành cùng doanh nghiệp và nền sản xuất thông qua tín dụng mở rộng, chính sách hỗ trợ vốn kịp thời; (3) Thực hiện trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững với nhiều chương trình an sinh cộng đồng; (4) Tiên phong trong chuyển đổi số, hiện đại hóa hạ tầng thanh toán; (5) Thúc đẩy bình đẳng giới và hỗ trợ các nhóm yếu thế; (6) Mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ tài chính toàn cầu. Sáu phương diện này không chỉ phản ánh những thành tựu nổi bật mà còn cho thấy tầm nhìn chiến lược của ngành Ngân hàng trong hành trình đổi mới và phát triển.

Ổn định kinh tế vĩ mô

Tiếp nối sứ mệnh được hun đúc từ những ngày đầu giành độc lập, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, chủ động và thận trọng, đồng thời cân bằng mục tiêu kiểm soát lạm phát với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong 6 tháng đầu năm 2025, GDP cả nước tăng 7,52% - mức cao nhất trong gần 20 năm, trong khi lạm phát bình quân được duy trì ở mức 3,27%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 4,5% do Quốc hội đề ra (Cục Thống kê, 2025; NHNN, 2025). Lãi suất điều hành được giữ ở mức thấp, giúp mặt bằng lãi suất cho vay bình quân giảm xuống còn 6,85%/năm (giảm 0,08 điểm phần trăm so với cuối năm 2024), qua đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận nguồn vốn. Tỉ giá được điều hành linh hoạt, góp phần hấp thụ cú sốc từ bên ngoài và giữ ổn định thị trường ngoại hối. Song song, công tác quản lý thị trường vàng được siết chặt; việc triển khai sửa đổi Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thể hiện quyết tâm của Ngành trong củng cố nền tảng ổn định vĩ mô và duy trì niềm tin thị trường - yếu tố tiên quyết cho phát triển bền vững.

Có thể khẳng định, vai trò ổn định kinh tế vĩ mô của NHNN không chỉ thể hiện ở khả năng kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng, mà còn ở việc tạo lập môi trường tài chính - tiền tệ vững chắc, nuôi dưỡng niềm tin thị trường, tạo nền tảng cho sự phát triển dài hạn của nền kinh tế Việt Nam. Đây là minh chứng rõ rệt cho sự trưởng thành vượt bậc của Ngành trong suốt chặng đường qua, từ những ngày đầu gian khó đến vị thế là một trụ cột ổn định của nền kinh tế quốc gia.

Cung ứng vốn tín dụng, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh

Bên cạnh nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, ngành Ngân hàng còn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung ứng vốn tín dụng và hỗ trợ trực tiếp cho khu vực doanh nghiệp - động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Trải qua gần 75 năm hình thành và phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không ngừng mở rộng quy mô tín dụng, cải thiện chất lượng cho vay và đa dạng hóa các sản phẩm tài chính, qua đó đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng đã trở thành nguồn lực chủ yếu tài trợ cho sản xuất, kinh doanh, đầu tư và tiêu dùng, đóng góp trực tiếp vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong nhiều năm qua, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng luôn duy trì ở mức cao so với khu vực, song vẫn đảm bảo định hướng của Chính phủ và NHNN về kiểm soát quy mô phù hợp với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Nguồn vốn tín dụng đã được ưu tiên phân bổ cho các lĩnh vực sản xuất, ngành nghề ưu tiên và động lực tăng trưởng mới như công nghiệp chế biến chế tạo, xuất khẩu, nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo… đồng thời hạn chế dòng vốn vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán.

Việc định hướng dòng chảy tín dụng hợp lý đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hỗ trợ tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng bền vững. Đến ngày 30/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt hơn 17,2 triệu tỉ đồng, tăng 9,9% so với cuối 2024 và tăng 19,32% so với cùng kỳ năm trước. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn chiếm 23,16%, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 17,51% thể hiện sự ưu tiên cho khu vực nền tảng của nền kinh tế. Đặc biệt, các chương trình tín dụng trọng điểm như gói 100.000 tỉ đồng cho nông, lâm, thủy sản đã giải ngân 94% chỉ sau 5 tháng; Chương trình cho vay liên kết sản xuất lúa gạo chất lượng cao tại Đồng bằng sông Cửu Long đã giải ngân 3.700 tỉ đồng chỉ trong một tháng. Những kết quả này khẳng định tinh thần đồng hành, chia sẻ khó khăn cùng doanh nghiệp, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8% năm 2025. Có thể nói, cùng với nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp và cung ứng tín dụng đã tạo nên một trụ cột quan trọng khác trong vai trò của ngành Ngân hàng ngày nay.

Bảo đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững

Không chỉ là trụ cột tài chính, ngành Ngân hàng còn tiên phong trong các chương trình an sinh xã hội. Các chương trình tín dụng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) triển khai đã bảo đảm nguồn vốn ưu đãi cho hộ nghèo, cận nghèo, lao động mất việc, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó góp phần ổn định an sinh xã hội và thúc đẩy phát triển bao trùm. Đây cũng là minh chứng rõ nét cho vai trò xã hội của ngành Ngân hàng, không chỉ tập trung vào lợi nhuận mà còn thực hiện trách nhiệm với cộng đồng. Tính đến ngày 31/5/2025, tổng dư nợ tín dụng chính sách tại NHCSXH đạt 389.387 tỉ đồng, phục vụ hơn 6,8 triệu khách hàng, tăng 5,92% so với năm 2024.

Trong lĩnh vực ứng phó thiên tai và biến đổi khí hậu, ngành Ngân hàng đã kịp thời huy động nguồn lực hàng trăm tỉ đồng để cứu trợ khẩn cấp, cung cấp nhu yếu phẩm, thuốc men và hỗ trợ tái thiết cơ sở hạ tầng sau bão lũ, hạn hán hay sạt lở đất. Điển hình là các đợt cứu trợ tại miền Trung trong những năm mưa lũ lịch sử, hay hỗ trợ khôi phục sản xuất nông nghiệp sau hạn mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh các hoạt động hỗ trợ nhân đạo, ngành Ngân hàng còn đi đầu trong thúc đẩy các sáng kiến phát triển bền vững, trong đó tiêu biểu là chương trình “Ngân hàng xanh cho cuộc sống xanh”. Đây là định hướng tích hợp các yếu tố bảo vệ môi trường vào hoạt động cấp tín dụng, đầu tư và vận hành nội bộ, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái và khuyến khích các mô hình kinh doanh thân thiện với môi trường. Các ngân hàng đã áp dụng các tiêu chí môi trường - xã hội - quản trị (ESG) trong thẩm định dự án, ưu tiên tài trợ cho năng lượng tái tạo, sản xuất sạch và các công trình tiết kiệm năng lượng, đồng thời hạn chế cấp vốn cho các dự án gây ô nhiễm hoặc phá hủy môi trường tự nhiên.

Tiên phong chuyển đổi số

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng số hóa toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đã xác định chuyển đổi số là một trong những chiến lược quan trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng hiệu quả hoạt động và tối ưu hóa trải nghiệm khách hàng. Nhờ sự định hướng và điều hành của NHNN, cùng với nỗ lực tự đổi mới của các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, từng bước tiệm cận với chuẩn mực quốc tế về ngân hàng số và tài chính số. Hầu hết dịch vụ ngân hàng cơ bản hiện nay đã được cung cấp trên kênh số, với nhiều ngân hàng đạt trên 95% giao dịch qua kênh điện tử. Trong 5 tháng đầu năm 2025, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 45,44% về số lượng và 25,21% về giá trị so với cùng kỳ; giao dịch qua ATM giảm 15,33% về số lượng và 4,25% về giá trị, cho thấy sự dịch chuyển mạnh mẽ sang phương thức thanh toán số. Đặc biệt, hệ thống định danh và xác thực sinh trắc học đã xử lý hơn 113 triệu hồ sơ cá nhân và 711 nghìn hồ sơ tổ chức, với tỉ lệ thành công trên 98%, nâng cao an toàn và trải nghiệm người dùng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng hệ sinh thái số thông minh, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên công nghệ 4.0.

Song song với đó, chủ trương thành lập Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam đã mở ra một không gian tập trung cho các hoạt động tài chính - ngân hàng mang tính chiến lược, tạo nền tảng cho việc triển khai các giải pháp công nghệ tài chính (Fintech), ngân hàng số và tích hợp các dịch vụ tài chính đa dạng. Ngành Ngân hàng cũng tiên phong trong thử nghiệm các cơ chế tín dụng có kiểm soát, một mô hình nhằm cân bằng giữa thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính. Các mô hình sandbox trong lĩnh vực ngân hàng số, thanh toán điện tử và cho vay trực tuyến đang được triển khai, cho phép thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ tài chính mới trong môi trường kiểm soát chặt chẽ về pháp lý và kỹ thuật. Cách tiếp cận này giúp ngành Ngân hàng vừa đón đầu xu hướng công nghệ, vừa bảo vệ quyền lợi khách hàng và duy trì ổn định tài chính vĩ mô.

Đáng chú ý, chuyển đổi số không chỉ diễn ra ở tầng dịch vụ khách hàng, mà còn ở hạ tầng vận hành nội bộ. Các ngân hàng đã áp dụng công nghệ điện toán đám mây, phân tích dữ liệu nâng cao, chuỗi khối (Blockchain) và tự động hóa quy trình bằng robot (RPA) để tối ưu hóa hoạt động quản trị, giảm thời gian xử lý giao dịch, và nâng cao khả năng quản lý rủi ro. Ngoài ra, việc mở rộng các kênh giao dịch số từ Internet Banking, Mobile Banking, ví điện tử, đến thanh toán QR và NFC đã góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện, đưa dịch vụ ngân hàng đến gần hơn với người dân, kể cả ở khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa. Có thể nói, những thành tựu chuyển đổi số của ngành Ngân hàng không chỉ là bước tiến công nghệ, mà còn là minh chứng cho tư duy đổi mới, khả năng thích ứng và tầm nhìn chiến lược của ngành. Việc kết hợp giữa nền tảng dữ liệu vững chắc, hạ tầng công nghệ hiện đại và cơ chế thử nghiệm linh hoạt đã giúp ngành Ngân hàng không chỉ bắt kịp, mà ở nhiều khía cạnh đã vươn lên dẫn đầu trong ứng dụng công nghệ số tại khu vực

Nâng cao bình đẳng giới

Bình đẳng giới đã và đang trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của ngành Ngân hàng. Không chỉ dừng lại ở những cam kết mang tính nguyên tắc, ngành Ngân hàng đã có những bước tiến rõ rệt, cả về cơ cấu nhân sự lẫn chính sách hỗ trợ, nhằm tạo môi trường làm việc và cơ hội phát triển công bằng cho mọi giới. Một dấu mốc lịch sử được ghi nhận là lần đầu tiên trong gần 75 năm hình thành và phát triển, ngành Ngân hàng có nữ Thống đốc đầu tiên - phản ánh sự thay đổi trong tư duy quản trị nhân sự và ghi nhận năng lực lãnh đạo của phụ nữ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng vốn được xem là đầy áp lực và cạnh tranh khốc liệt. Đây không chỉ là thành tựu cá nhân mà còn là bước ngoặt văn hóa, khẳng định tính mở và khả năng trao quyền của Ngành đối với giới nữ ở những vị trí quyền lực cao nhất.

Ở khía cạnh chính sách, NHNN đã chủ động xây dựng và triển khai các chương trình tín dụng hướng đến nhóm yếu thế, đặc biệt là phụ nữ ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng phụ nữ khởi nghiệp. Các gói tín dụng ưu đãi, cùng với dịch vụ tư vấn tài chính và hỗ trợ kỹ thuật, đã giúp hàng triệu phụ nữ cải thiện khả năng tiếp cận nguồn vốn, mở rộng sản xuất, kinh doanh và nâng cao thu nhập. Đây là một phần trong chiến lược tài chính toàn diện của Việt Nam, phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc, đặc biệt là mục tiêu số 5 về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, cũng như mục tiêu số 8 về tăng trưởng kinh tế bao trùm và bền vững. Ngoài ra, ngành Ngân hàng còn thúc đẩy các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực và kỹ năng số cho phụ nữ trong Ngành, nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực nữ chất lượng cao, sẵn sàng thích ứng với xu hướng chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.

Việc kết hợp giữa cơ hội thăng tiến, đào tạo chuyên môn và hỗ trợ tài chính đã tạo nên một hệ sinh thái hỗ trợ phụ nữ toàn diện, từ giai đoạn khởi nghiệp đến khi đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo cấp cao. Bình đẳng giới trong ngành Ngân hàng vì vậy không còn chỉ là khẩu hiệu, mà đã trở thành một chỉ dấu văn hóa tổ chức và lợi thế cạnh tranh nhân sự. Việc gia tăng sự hiện diện của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và ra quyết định không chỉ cải thiện tính đa dạng trong quản trị, mà còn giúp Ngành có những góc nhìn đa chiều hơn trong hoạch định chiến lược, tăng khả năng sáng tạo và thích ứng trong môi trường kinh tế - tài chính đầy biến động.

Tăng cường hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là một trong những trụ cột chiến lược của ngành Ngân hàng trong thời kỳ đổi mới và toàn cầu hóa, đóng vai trò then chốt trong việc mở rộng không gian phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường tài chính - tiền tệ quốc tế. Từ chỗ hoạt động chủ yếu trong phạm vi nội địa với cơ chế quản lý khép kín, ngành Ngân hàng đã từng bước mở cửa, tham gia sâu rộng vào các định chế tài chính quốc tế, đồng thời chủ động tiếp thu chuẩn mực và thông lệ quốc tế tiên tiến. Việc mở rộng hợp tác song phương và đa phương được triển khai mạnh mẽ, bao gồm ký kết và thực thi các thỏa thuận hợp tác với ngân hàng trung ương, cơ quan quản lý tài chính, tổ chức tín dụng hàng đầu thế giới.

Đặc biệt, trong các diễn đàn như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Hiệp hội các Ngân hàng Trung ương châu Á - Thái Bình Dương (SEACEN), Việt Nam đã và đang thể hiện vai trò ngày càng tích cực, đóng góp tiếng nói vào các vấn đề lớn của kinh tế - tài chính toàn cầu. Bên cạnh hợp tác thể chế, ngành Ngân hàng còn đẩy mạnh hội nhập tiêu chuẩn, cụ thể là áp dụng các chuẩn mực Basel về an toàn vốn, quản trị rủi ro và thanh khoản; triển khai các nguyên tắc của G20 và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) về hạ tầng thị trường tài chính; và xây dựng các khung pháp lý phù hợp với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Việc đồng bộ hóa chuẩn mực không chỉ nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam, mà còn tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng hội nhập trọn vẹn vào mạng lưới tài chính toàn cầu.

Ở khía cạnh thị trường, nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đã mở rộng hiện diện ra nước ngoài, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện và công ty con tại các trung tâm tài chính trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập quốc tế còn thể hiện ở việc tham gia các sáng kiến tài chính xanh và tài chính bền vững, cùng chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu và bất bình đẳng kinh tế.

Nhìn về tương lai - Ngành Ngân hàng tiếp bước phát triển cùng đất nước

80 năm kể từ mùa Thu lịch sử năm 1945, dòng chảy của ngành Ngân hàng đã hòa cùng mạch sống của dân tộc, từ những bước đi đầu tiên đầy gian khó đến một hệ thống hiện đại, hội nhập, vươn tầm quốc tế. Trên hành trình ấy, ngành Ngân hàng luôn giữ trọn sứ mệnh là “huyết mạch” của nền kinh tế, lặng lẽ nhưng bền bỉ nuôi dưỡng từng nhịp phát triển, thích ứng linh hoạt trước mọi biến động. Từ việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đồng hành cùng doanh nghiệp và hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội, tiên phong trong chuyển đổi số, thúc đẩy bình đẳng giới đến mở rộng hợp tác quốc tế, mỗi thành tựu đạt được là một dấu mốc khẳng định ý chí tự lực, tinh thần sáng tạo và khát vọng vươn lên không ngừng - những phẩm chất được hun đúc từ chính khí thế mùa Thu độc lập.

Ngày nay, từ nền tảng vững chắc ấy, ngành Ngân hàng bước vào giai đoạn mới với tầm nhìn chiến lược rõ ràng, tiếp tục đổi mới mô hình hoạt động, củng cố vị thế trụ cột của nền kinh tế, đồng hành sát cánh cùng Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Đến năm 2030, mục tiêu giao dịch số chiếm trên 95% tổng giao dịch, thanh toán không dùng tiền mặt phổ cập trên toàn quốc; tín dụng xanh đạt tối thiểu 15% tổng dư nợ, đóng góp mạnh mẽ vào cam kết phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050. Đồng thời, Ngành sẽ mở rộng cánh cửa hội nhập, tham gia sâu rộng các diễn đàn tài chính - ngân hàng toàn cầu, nâng cao thứ hạng Việt Nam trên các bảng xếp hạng quốc tế về môi trường kinh doanh và an toàn hệ thống tài chính. Từ điểm tựa 80 năm vẻ vang của đất nước, ngành Ngân hàng tiếp tục viết tiếp câu chuyện đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân - về một mạch sống bền bỉ, kiên cường, dẫn dòng chảy thịnh vượng tới tương lai.

Tài liệu tham khảo

1. NHNN (2025), Báo cáo tóm tắt hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm 2025.

2. Cục Thống kê (2025), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2025.

3. World Bank (2024), Vietnam Development Report 2024: Leveraging Digital Transformation for Sustainable Growth. Washington, DC: World Bank Group.

4. Asian Development Bank (2024), Asian Development Outlook 2024: Economic Recovery and Sustainability.

5. NHNN, Tóm lược lịch sử hoạt động của ngành Ngân hàng Việt Nam.

Phạm Anh Khoa
Trưởng phòng Phòng Quản lý giám sát ngân hàng và chi nhánh nước ngoài, NHNN Khu vực 1

Tin bài khác

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Xem thêm
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô