
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá |
Kỳ II - Nguồn nhân lực ở Việt Nam trước bài toán chất lượng và hội nhập số
Nhìn tổng thể, Việt Nam đã đạt được những bước phát triển nhanh và đa dạng, với nhiều thành tựu nổi bật. Quy mô hệ thống cơ sở đào tạo không ngừng mở rộng; một số chương trình đào tạo đã tiệm cận chuẩn mực quốc tế; đội ngũ kỹ sư công nghệ thông tin (CNTT) trẻ có khả năng cạnh tranh toàn cầu bắt đầu hình thành; và cả doanh nghiệp lẫn Chính phủ đều tích cực tham gia bồi dưỡng nhân lực số. Tuy vậy, những con số về thiếu hụt nhân lực kỹ thuật cao vẫn rất đáng lo ngại: Chỉ khoảng 30% sinh viên CNTT tốt nghiệp đáp ứng được yêu cầu thực tế của doanh nghiệp, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ chỉ đạt 28,3%,… cung - cầu nhân lực mất cân đối; chất lượng đào tạo không đồng đều. Nguồn nhân lực số đang như “mạch máu” nuôi dưỡng cơ thể chuyển đổi số quốc gia, nếu không đủ mạnh hoặc “tắc nghẽn”, cơ thể kinh tế số sẽ suy yếu. Những con số biết nói trên đặt ra câu hỏi lớn về hiệu quả của hệ thống giáo dục, đào tạo hiện nay. Chuyển đổi số không thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực chất lượng. Đây là sự thật!
Tuy nhiên, trong thách thức ấy cũng ẩn chứa cơ hội. Chính nhu cầu nhân lực số khổng lồ đang mở ra cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc căn bản, toàn diện hệ thống đào tạo - từ tư duy, cơ chế, chính sách đến mô hình vận hành. Sự gắn kết chặt chẽ giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp trở thành con đường tất yếu, không thể khác. Những mô hình tiên phong tại nhiều địa phương và các doanh nghiệp, các trường đại học hàng đầu đã cho thấy rằng khi có sự chung sức, đồng lòng của Đảng, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, chúng ta hoàn toàn có thể tạo nên những bước đột phá mạnh mẽ.
Hệ sinh thái giáo dục - đào tạo ngày càng mở rộng, khát vọng vươn lên
Ở thời điểm hiện tại, nguồn nhân lực Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế to lớn so với nhiều nước trong khu vực. Lực lượng lao động dồi dào cùng một thế hệ trẻ năng động trong lĩnh vực công nghệ đang dần khẳng định vị thế. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo không ngừng tăng lên qua các năm. Đến cuối năm 2024, cả nước ghi nhận gần 73.788 doanh nghiệp công nghệ số (tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2023) với gần 1,26 triệu lao động trong lĩnh vực CNTT. Việt Nam hiện cũng nằm trong nhóm dẫn đầu thế giới về tỷ lệ người dùng Internet (trên 70% dân số). Năm 2024, đội ngũ kỹ sư của Tập đoàn Viettel đã nghiên cứu thành công chip 5G DFE - một trong những bộ phận phức tạp nhất của hệ sinh thái 5G. Thành tựu “5G Made in Vietnam” này đã đưa Việt Nam vào số ít quốc gia làm chủ mạng 5G, khẳng định tiềm năng to lớn của lực lượng lao động kỹ thuật số khi được đầu tư đúng hướng.
Trong hơn ba thập niên Đổi mới, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống giáo dục, đào tạo đa tầng, đa dạng và hội nhập ngày càng sâu rộng. Cùng với các trường đại học truyền thống, hàng loạt cơ sở đào tạo nghề, trường cao đẳng, viện nghiên cứu và trung tâm bồi dưỡng của doanh nghiệp lần lượt được thành lập, tạo nên một mạng lưới đào tạo trải rộng khắp mọi miền đất nước. Kỷ nguyên số bùng nổ đòi hỏi lực lượng lao động Việt Nam được trang bị kiến thức và kỹ năng mới. Trong những năm qua, hệ thống giáo dục, đào tạo của nước ta đã mở rộng quy mô và đa dạng hóa về loại hình. Hiện có hơn 240 trường đại học và hơn 1.500 cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên cả nước, cùng hàng trăm trung tâm đào tạo ngắn hạn; trong đó có gần 160 trường chuyên đào tạo các ngành kỹ thuật như CNTT, điện tử - viễn thông và an toàn thông tin. Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng mô hình trường nghề chất lượng cao gắn với nhu cầu doanh nghiệp, và các ngành trọng điểm như cơ khí, điện - điện tử, CNTT… được đầu tư trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo.
Những “bệ phóng tri thức” quan trọng như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa Hà Nội... đang giữ vai trò đầu tàu, chuyển mình sang mô hình đại học nghiên cứu, tập trung phát triển các ngành mũi nhọn phục vụ cuộc CMCN 4.0 và trở thành “lò luyện” nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Tiêu biểu, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai chương trình hành động nghị quyết với tinh thần khẩn trương, quyết liệt và chủ động. Đặc biệt, nhà trường đã tiên phong xây dựng các chương trình đào tạo và nghiên cứu gắn sát yêu cầu thực tiễn, qua đó khẳng định vị thế trung tâm trong việc cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho đất nước. Thành tựu đó minh chứng cho mối liên kết chặt chẽ giữa đường lối, chính sách của Đảng và việc chuyển hóa thành hành động cụ thể ở cơ sở, đồng thời khẳng định vai trò tiên phong của các trường đại học trong việc biến nghị quyết thành sức mạnh thực tiễn, góp phần thúc đẩy hiện đại hóa đất nước.
Mạng lưới cơ sở đào tạo không ngừng mở rộng và đa dạng hóa, bao gồm cả công lập và tư thục, chính quy lẫn không chính quy. Đào tạo trực tuyến và giáo dục mở phát triển mạnh mẽ sau đại dịch Covid‑19, tạo điều kiện cho người lao động học tập suốt đời. Việc giao quyền tự chủ cho một số đại học trọng điểm đã tạo động lực đổi mới mạnh mẽ. Điển hình là Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông thí điểm mô hình “đại học số”, sử dụng nền tảng học tập trực tuyến PTIT-Slink để cá nhân hóa trải nghiệm người học và tăng cường tương tác giữa giảng viên - sinh viên. Trong khi đó, một số trường tư thục công nghệ cao như Đại học FPT hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, tạo cơ hội cho sinh viên tham gia dự án thực tế ngay khi còn học. Sự vào cuộc mạnh mẽ của khu vực tư nhân (FPT, Vingroup, Viettel, CMC, VNPT…) trong việc mở trường đại học và trung tâm đào tạo cũng tạo ra một thị trường giáo dục cạnh tranh và đa dạng hơn. Đặc biệt, sự bùng nổ của các nền tảng học trực tuyến quốc tế như Coursera, edX, Udemy cùng các nền tảng trong nước như FUNiX, TopCV Academy, MindX… đã mở ra cơ hội học tập suốt đời cho người lao động. Nhờ những kênh học tập này, Việt Nam đang từng bước hình thành một xã hội học tập, nơi bất cứ ai cũng có thể tiếp cận tri thức toàn cầu.
Tuy nhiên, hệ thống giáo dục, đào tạo hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Quy mô mở rộng nhưng chất lượng giữa các cơ sở không đồng đều; khoảng cách phát triển giữa các vùng còn lớn. Chỉ 37% lực lượng lao động cả nước là người thành thị, nhưng họ lại được tiếp cận hầu hết các cơ sở đào tạo hiện đại. Trong khi đó, vùng nông thôn và miền núi đang thiếu thốn trường nghề chất lượng cao, thiếu giáo viên và trang thiết bị dạy học. Nhiều cơ sở cao đẳng, trung cấp vẫn còn theo chương trình cũ, nặng lý thuyết và thiếu phần thực hành. Hệ quả là, dù có bằng cấp, nhiều lao động vẫn khó tìm việc làm đúng chuyên ngành, trong khi doanh nghiệp không dễ tìm được nhân lực có tay nghề. Thực trạng trên đòi hỏi phải đánh giá lại mô hình phân bổ các trường nghề và đại học, tăng cường đầu tư cho khu vực khó khăn, nhằm đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo tốt hơn trên mọi miền đất nước.
Điểm sáng trong đào tạo: Hội nhập và các ngành mũi nhọn
Bên cạnh những hạn chế, hệ thống đào tạo nhân lực cũng xuất hiện nhiều điểm sáng đáng kể. Nhiều ngành đã dần tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Hệ thống giáo dục, đào tạo Việt Nam đã bắt đầu cung ứng nhân lực cho các ngành trọng điểm. Nhiều trường đại học đã mở chương trình đào tạo về công nghệ tài chính (Fintech) và ngân hàng số; ngành logistics được chú trọng tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông Vận tải và cả các cơ sở liên kết quốc tế như RMIT. Trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và khoa học dữ liệu, bên cạnh các chương trình đào tạo tại đại học, nhiều trung tâm tư nhân và doanh nghiệp cũng đã mở khóa học chuyên sâu, cập nhật theo xu hướng thế giới. Những trường nghề như Cao đẳng Công nghệ Bách Khoa Hà Nội, Cao đẳng CNTT Thành phố Hồ Chí Minh, Cao đẳng Nghề Viettel… cũng đầu tư thiết bị hiện đại và hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để đào tạo kỹ thuật viên đáp ứng nhu cầu sản xuất thực tế.
![]() |
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác đào tạo, trao đổi sinh viên (3+1) giữa Đại học Công nghiệp Hà Nội - Đại học Khoa học kỹ thuật Điện tử Quế Lâm (Trung Quốc) - Công ty TNHH Khoa học kỹ thuật Goertek Vina: Kết nối đào tạo - thực tập - việc làm trong chuỗi công nghiệp công nghệ cao (Nguồn ảnh : Website Đại học Công nghiệp Hà Nội - HaUI) |
Một số chương trình kỹ thuật của Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ… đã được kiểm định bởi tổ chức ABET (Hoa Kỳ). Trong lĩnh vực y khoa, các trường hàng đầu như Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Học viện Quân y đã triển khai giảng dạy bằng tiếng Anh và liên kết chặt chẽ với các bệnh viện, các đại học nước ngoài để nâng cao chất lượng đào tạo. Đặc biệt, ở các trường kinh tế - tài chính, nhiều đơn vị như Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Ngân hàng, Đại học Ngoại thương… đã hợp tác quốc tế sâu rộng, triển khai chương trình liên kết với Đại học Stirling (Anh), Đại học Waikato (New Zealand), Đại học Rennes 1 (Pháp)... Nhờ đó, sinh viên Việt Nam có cơ hội tiếp cận tri thức và phương pháp giảng dạy tiên tiến trên thế giới; nhiều bạn trẻ đã gặt hái thành công trong các cuộc thi quốc tế về lập trình, CNTT và khởi nghiệp kinh doanh.
Đại học Huế đang trở thành điểm sáng đào tạo và khẳng định vị thế là trung tâm đào tạo lớn của quốc gia, tiên phong trong đổi mới giáo dục để đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao cho miền Trung và cả nước. Từ năm 2025, toàn bộ sinh viên bậc đại học sẽ học môn “Nhập môn Công nghệ số, AI và ứng dụng” - bước đi chiến lược cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học - công nghệ và chuyển đổi số. PGS.,TS. Nguyễn Thanh Hùng - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế - nhấn mạnh: “Nhà trường đã nhanh chóng tích hợp công nghệ số và AI vào chương trình đào tạo giáo viên, phù hợp đặc thù từng khoa, từng lĩnh vực.”
Không chỉ cải cách trong nước mà Đại học Huế còn mở rộng hợp tác quốc tế, nổi bật là thỏa thuận với Phòng Thương mại và Công nghiệp Kisarazu (Nhật Bản) về thực tập và việc làm. Ông Ikeda Yasushi, Chủ tịch Phòng Thương mại Kisarazu, nhận định: “Người trẻ Việt Nam rất ưu tú, giàu khát vọng; khi có cơ hội sang Nhật, họ sẽ khẳng định năng lực và đóng góp lớn cho doanh nghiệp”. Từ góc nhìn sinh viên, em Lê Ngọc Trung Hiếu chia sẻ: “Được học tiếng Nhật và tham gia chương trình hợp tác quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội việc làm tốt, trong đó có làm việc tại Nhật Bản”. Những minh chứng ấy cho thấy định hướng gắn đào tạo với nhu cầu thực tiễn đang đi đúng hướng.
Nắm bắt xu hướng ngành tài chính - ngân hàng giữ vị trí đi đầu khi vừa là huyết mạch của nền kinh tế, vừa là lĩnh vực chứng kiến nhiều đột phá công nghệ, Học viện Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp đột phá. Nhà trường đẩy mạnh hợp tác quốc tế và đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn toàn cầu, đồng thời xây dựng các ngành học mới liên quan đến Fintech, phân tích dữ liệu và quản trị rủi ro số. Nhiều chương trình liên kết quốc tế chất lượng cao với các đại học danh tiếng của Anh, Mỹ, Nhật Bản đã giúp sinh viên Việt Nam sở hữu bằng cấp quốc tế ngay tại trong nước. Đồng thời, sinh viên được trang bị kỹ năng mềm, tư duy phản biện, khả năng thuyết trình và làm việc nhóm - những yếu tố thiết yếu để tự tin bước vào thị trường lao động toàn cầu. Chị Nguyễn Hà Phương, học viên chương trình thạc sĩ UWE (Đại học West of England, Anh), chia sẻ: “Công việc quản trị rủi ro đòi hỏi khả năng phân tích, đánh giá toàn diện. Chương trình quốc tế không chỉ cung cấp kiến thức, mà còn mang tính ứng dụng cao, giúp tôi tự tin chinh phục yêu cầu khắt khe của các ngân hàng”.
Những trải nghiệm quốc tế cũng mở ra chân trời mới cho sinh viên Việt Nam. Sinh viên Vũ Diệu Linh (Học viện Ngân hàng) chia sẻ: “Với chúng em, việc bước ra thế giới không còn chỉ là ước mơ mà đã trở thành mục tiêu. Các chương trình quốc tế cùng hoạt động ngoại khóa tại Học viện Ngân hàng giúp chúng em tự tin trở thành công dân toàn cầu”. Đó là minh chứng sống động cho hiệu quả của mô hình đào tạo mới: Không chỉ cung cấp kiến thức chuyên môn, mà còn rèn luyện bản lĩnh và kỹ năng hội nhập. Nhờ vậy, nguồn nhân lực tài chính - ngân hàng Việt Nam dần được chuẩn hóa, trở thành lực lượng nòng cốt, góp phần quan trọng để đất nước đứng vững trong nền kinh tế số.
Tại Thành phố mang tên Bác, Đại học Việt Đức đang khẳng định vị thế với 71 phòng thí nghiệm hiện đại phục vụ giảng dạy từ bậc cử nhân đến tiến sĩ. PGS., TS. Phạm Thành Dương, Trưởng khoa Kỹ thuật của trường, chia sẻ: “Khi xây dựng chương trình đào tạo và hệ thống phòng thí nghiệm, chúng tôi luôn hướng đến việc áp dụng công nghệ mới nhất để đảm bảo sinh viên được học tập và trải nghiệm trên những thiết bị tiên tiến nhất. Chuyển đổi số là chìa khóa mở ra cánh cửa của kỷ nguyên mới, và Thành phố Hồ Chí Minh đang có những bước đi đúng đắn trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao”. Học tập tại đây đem lại hiệu quả rõ rệt. Sinh viên được tham gia các dự án nghiên cứu - ứng dụng như mô phỏng cơ khí, chế tạo linh kiện bán dẫn và thiết kế hệ thống tự động hóa. Nhiều sinh viên quốc tế cũng chọn Đại học Việt Đức là điểm đến học tập, đánh giá cao môi trường năng động và giàu trải nghiệm công nghiệp tại đây. Tất cả những yếu tố này giúp Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định vị thế trung tâm đào tạo nhân lực công nghệ cao của cả nước.
Ở miền núi phía Bắc, Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên (ICTU) đã khẳng định vai trò dẫn đầu về đào tạo chuyển đổi số. Nhà trường luôn cập nhật chương trình theo xu hướng công nghệ mới, đầu tư mạnh mẽ hạ tầng CNTT và trang thiết bị hiện đại, đồng thời gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. PGS., TS. Phùng Trung Nghĩa, Hiệu trưởng ICTU, nhấn mạnh: “Trường liên tục điều chỉnh chương trình theo xu thế phát triển công nghệ, đồng thời duy trì mối liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các tập đoàn lớn như Samsung, LG, Canon. Đây không chỉ là cầu nối định hướng nghề nghiệp mà còn mở ra cơ hội tuyển dụng trực tiếp cho sinh viên”. Những nỗ lực của ICTU đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Đến năm 2024, ICTU đã đào tạo hơn 20.000 học viên ở nhiều bậc học, và cung cấp gần 1.000 nhân lực số mỗi năm cho thị trường lao động. Các chương trình hợp tác với doanh nghiệp công nghệ lớn như Samsung, Canon không chỉ mở ra cơ hội việc làm trực tiếp cho sinh viên, mà còn giúp họ sớm làm quen với quy trình sản xuất hiện đại. Như sinh viên Hà Thị Thảo chia sẻ: “Ngoài lý thuyết, em được thực hành rất nhiều, được tiếp cận công nghệ hiện đại; từ đó mở ra nhiều cơ hội việc làm ngay cả khi đang học”. Trên bình diện quốc tế, một cựu sinh viên đến từ Nigeria - sinh viên Michelle khẳng định: “Học tập tại ICTU giúp tôi trở nên linh hoạt hơn trong CNTT, mở ra nhiều cơ hội với mức lương hấp dẫn trong một thế giới ngày càng phát triển về công nghệ”.
Có thể khẳng định, nhân lực số chính là đội ngũ lao động thành thạo công nghệ, dồi dào ý tưởng sáng tạo và sẵn sàng thích nghi nhanh với sự thay đổi không ngừng của khoa học - công nghệ. Họ là trụ cột giúp Việt Nam thực hiện thành công công cuộc chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng với thế giới. Do đó, phát triển đội ngũ nhân lực công nghệ cao không chỉ là nhiệm vụ riêng của các cơ sở đào tạo, mà cần có sự chung tay của toàn hệ thống chính trị, nhằm vừa đảm bảo về số lượng lẫn chất lượng, để lực lượng lao động Việt Nam có thể vươn tầm khu vực và thế giới.
Mặt khác, Việt Nam đã và đang hình thành lực lượng kỹ sư CNTT có năng lực cạnh tranh toàn cầu. Sự phát triển của các tập đoàn công nghệ lớn trong nước như FPT, Viettel, VNPT, Vingroup, Bkav… cũng đã tạo nên môi trường thực tế để nhiều kỹ sư Việt Nam trưởng thành và khẳng định năng lực trên trường quốc tế. Các doanh nghiệp công nghệ lớn này cũng đã ký kết hợp tác với các trường đại học xây dựng chương trình đào tạo sát với nhu cầu thực tế, cấp học bổng, nhận sinh viên thực tập và tuyển dụng sau tốt nghiệp. Ở các khu công nghiệp, các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức… đang hợp tác với trường nghề địa phương đào tạo kỹ sư và công nhân lành nghề. Mô hình “Dual Education” (đào tạo kép) cũng bắt đầu được áp dụng: Sinh viên vừa học ở trường vừa làm việc tại doanh nghiệp, để sớm tích lũy kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng thích ứng.
Ngày nay, nhiều kỹ sư Việt Nam tham gia phát triển sản phẩm cho các “ông lớn” như Google, Samsung, Intel; Việt Nam còn là một trong 5 điểm đến gia công phần mềm và gia công quy trình kinh doanh (BPO) hấp dẫn nhất thế giới. Những thành quả này chứng minh rằng, nếu được đào tạo bài bản và khuyến khích sáng tạo, nhân lực Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ công nghệ cao. Cùng với đó, mô hình hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Hàng chục nghìn sinh viên Việt Nam đang du học tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Australia… tạo nên dòng chảy tri thức hai chiều. Ở chiều ngược lại, nhiều trường đại học quốc tế đã hiện diện tại Việt Nam, như RMIT, Fulbright,… Điều này không chỉ đa dạng hóa mô hình đào tạo mà còn nâng cao chuẩn mực giáo dục.
Một ví dụ điển hình là Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Công nghiệp 4.0 (IIC), kết quả hợp tác giữa Becamex IDC, VSIP và Đại học Quốc tế Miền Đông. Trung tâm này đã trở thành đầu mối kết nối doanh nghiệp với công nghệ hiện đại, cung cấp các công cụ đánh giá mức độ sẵn sàng trong sản xuất thông minh và tổ chức nhiều khóa đào tạo chuyên sâu về tự động hóa, PLC (Programmable Logic Controller), robot, thủy lực - khí nén. TS. Lê Ngọc Huẩn, Giám đốc IIC nhấn mạnh: “Chúng tôi không chỉ cung cấp giải pháp chuyển đổi số, mà còn trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp, thông qua các khóa đào tạo gắn liền nhu cầu thực tiễn tại chỗ hoặc ngay tại doanh nghiệp”.
Triển lãm “Thành tựu đất nước - 80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” nhân dịp Quốc khánh 2/9 vừa qua là minh chứng tiêu biểu khi đã tái hiện sinh động quá trình phát triển của Việt Nam trên hầu hết các lĩnh vực: Công nghiệp, công nghệ, đầu tư, thương mại, giáo dục, y tế, quốc phòng, nông nghiệp, văn hóa, thể thao và du lịch. Hơn 230 gian trưng bày của 34 tỉnh, thành, 28 bộ, ngành và hàng trăm doanh nghiệp đã khắc họa rõ nét tiến trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Những con số, hình ảnh và hiện vật tại triển lãm không chỉ khơi dậy niềm tự hào dân tộc, mà còn nhắc nhở chúng ta rằng, phía sau mọi thành tựu đều là nguồn nhân lực - yếu tố quyết định thành bại.
![]() |
Triển lãm thành tựu “80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trưng bày đa phương tiện, 3D mapping, VR, AI… phản chiếu tiến trình đổi mới và yêu cầu nâng cấp nhân lực số (Nguồn ảnh: Báo Công an Nhân dân) |
Chẳng hạn, tại khu trưng bày nông nghiệp - môi trường, các thành tựu về phát triển bền vững được trình chiếu rõ nét: Nông nghiệp chiếm khoảng 40% giá trị ngành, thủy sản 28%, độ che phủ rừng trên 42%. Tuy nhiên, bên cạnh những con số đầy tự hào, triển lãm cũng đặt ra một nghịch lý: Việt Nam đạt nhiều thành công nhờ đội ngũ lao động cần cù, sáng tạo, nhưng để bước vào nền kinh tế số, nền kinh tế xanh, chúng ta cần một thế hệ nhân lực khác hẳn về chất - thành thạo kỹ năng số, tư duy đổi mới sáng tạo, làm chủ công nghệ cao. Triển lãm vì thế vừa là niềm tự hào, vừa là tấm gương soi chiếu thực tế: Nếu không gấp rút cải cách thể chế và nâng cấp nguồn nhân lực, Việt Nam sẽ đối mặt nguy cơ tụt hậu ngay trên nền tảng thành tựu sẵn có. Tình huống này đòi hỏi những giải pháp đủ mạnh mẽ và đồng bộ để nguồn nhân lực nước nhà không chỉ đáp ứng, mà còn vượt lên trên yêu cầu của thời đại.
Khoảng trống và thách thức: Chất lượng, liên kết và “chảy máu chất xám”
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, công tác đào tạo nhân lực nước ta vẫn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục sớm. Trước hết, chất lượng đào tạo không đồng đều và còn khoảng cách lớn giữa các cơ sở. Nhiều trường đại học và cao đẳng chưa xây dựng được chương trình hiện đại, thiếu giảng viên trình độ cao; nội dung đào tạo còn lạc hậu, cập nhật công nghệ mới rất chậm. Một số chương trình kỹ thuật vẫn nặng lý thuyết, thiếu phần thực hành, khiến sinh viên tốt nghiệp gặp khó khăn khi tiếp cận công việc thực tế. Theo đánh giá của FPT Digital, trong hơn 50.000 sinh viên CNTT tốt nghiệp mỗi năm ở Việt Nam, còn 70% phải được đào tạo bổ sung kỹ năng thực hành trước khi tham gia vào dự án. Sự yếu kém này tập trung ở khả năng làm chủ các công nghệ mới như AI, khoa học dữ liệu, tự động hóa, blockchain. Tình trạng này không chỉ tạo ra khoảng cách lớn giữa đào tạo và nhu cầu thực tiễn, mà còn làm giảm năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, mất cân đối cung - cầu nhân lực vẫn khá phổ biến. Tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, “thừa số lượng, thiếu chất lượng” vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cơ cấu nhân lực nước ta đang mất cân đối rõ rệt: Thừa lao động phổ thông nhưng thiếu lao động trình độ cao, thừa cử nhân ngành quản trị kinh doanh nhưng thiếu kỹ sư AI, chuyên gia an ninh mạng... Chất lượng nguồn lao động cũng phân bố không đều: Nhân lực trình độ cao tập trung chủ yếu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi vùng sâu, vùng xa lại thiếu hụt trầm trọng. Các lĩnh vực như CNTT, điện tử - viễn thông, logistics rất “khát” nhân lực, thì nhiều ngành khác lại đang dư thừa lao động hoặc nguồn nhân lực chưa được sử dụng đúng chuyên môn. Nguyên nhân là công tác dự báo nhu cầu nhân lực chưa được thực hiện chính xác, và liên kết giữa nhà trường - doanh nghiệp - Nhà nước vẫn còn lỏng lẻo. Nhiều doanh nghiệp chưa tham gia vào việc xây dựng chương trình đào tạo hoặc công bố các tiêu chuẩn kỹ năng cần thiết, khiến sản phẩm đào tạo không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Bên cạnh đó, công tác hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế, khiến không ít bạn trẻ chọn ngành học không phù hợp với năng lực và nhu cầu thị trường lao động. Trước tình hình này, Chính phủ đã ban hành hàng loạt đề án hỗ trợ: Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030”, ban hành theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 89); Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”, ban hành theo Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 1665); Chương trình “Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, ban hành theo Quyết định số 144/QĐ-TTg ngày 30/8/2021 của Chính phủ… Dù vậy, thách thức còn ở chỗ chất lượng nhân lực chưa đồng đều, thiếu kỹ năng thực hành và ngoại ngữ, đào tạo chưa bám sát nhu cầu doanh nghiệp - dẫn đến tình trạng “trên giấy thì nhiều, thực tế vẫn thiếu”. Một bộ phận lao động vẫn mang nặng tư duy cũ, e ngại tiếp cận công nghệ. Phong cách quản lý quan liêu, thiếu linh hoạt ở một số nơi có thể kìm hãm sự sáng tạo, đổi mới. Vì vậy, thách thức đặt ra không chỉ là cải cách giáo dục, mà còn là cải cách thể chế, đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực; đồng thời xây dựng môi trường làm việc cởi mở, minh bạch, khuyến khích sáng kiến.
Thứ ba, kỹ năng mềm và ngoại ngữ của nhiều sinh viên, người lao động còn hạn chế. Các doanh nghiệp đánh giá sinh viên mới ra trường thiếu kỹ năng làm việc nhóm (43% doanh nghiệp đánh giá), thiếu khả năng giao tiếp (38% đánh giá), và hơn một nửa chưa đáp ứng yêu cầu ngoại ngữ. Một số khảo sát cho thấy có tới 83% sinh viên tốt nghiệp thiếu các kỹ năng mềm cần thiết. Đây là rào cản lớn khi hội nhập vào thị trường lao động quốc tế. Hệ quả là nhiều sinh viên phải mất 1- 2 năm đào tạo lại tại doanh nghiệp, gây lãng phí nguồn lực. Trong môi trường kinh doanh toàn cầu, kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, tư duy phản biện, quản lý thời gian và thích ứng văn hóa… ngày càng quan trọng. Tuy nhiên, chương trình đào tạo ở nước ta chưa chú trọng rèn luyện những kỹ năng này, khiến sinh viên thiếu tự tin khi phỏng vấn và làm việc với công ty nước ngoài. Ngoại ngữ - đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành cũng là điểm yếu đáng lưu ý. Theo Tổ chức Giáo dục EF, trình độ tiếng Anh của Việt Nam nhiều năm liền ở mức trung bình hoặc thấp trong khu vực Đông Nam Á. Năm 2024, Việt Nam xếp hạng 63/116 quốc gia, thuộc nhóm trung bình - thấp trong khu vực về thông thạo tiếng Anh; đứng thứ 8 ở châu Á (sau Singapore, Philippines, Malaysia,...) với số điểm trung bình chỉ 498/800. Thiếu kỹ năng ngoại ngữ khiến người lao động khó tiếp cận các khóa học trực tuyến quốc tế, khó cập nhật tài liệu chuyên môn, và bỏ lỡ nhiều cơ hội việc làm toàn cầu.
Thứ tư, vấn đề “chảy máu chất xám” và thực trạng người tài sau tốt nghiệp làm trái ngành vẫn chưa được giải quyết triệt để. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, Đại biểu Lý Văn Huấn (Thái Nguyên) đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về tình trạng chảy máu chất xám trong ngành CNTT: “Ngành CNTT đang chảy máu chất xám vì doanh nghiệp nước ngoài trả lương gấp 5 - 7 lần, thậm chí 10 lần; doanh nghiệp Việt Nam liệu có tạo giá trị tăng cao đủ để giữ chân người tài?” Hiện nay, ngày càng có nhiều kỹ sư AI, chuyên gia dữ liệu rời Việt Nam để tìm kiếm cơ hội tốt hơn ở nước ngoài. Mỗi năm, hàng chục nghìn du học sinh Việt Nam ra nước ngoài học tập, nhưng chỉ có một phần nhỏ trong số đó trở về sau khi tốt nghiệp. Trong nước, không ít nhân tài thuộc các lĩnh vực CNTT, AI, tài chính… đã tìm cơ hội làm việc ở công ty nước ngoài với mức lương và đãi ngộ hấp dẫn hơn, khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam chật vật giữ chân người giỏi. Tình trạng này tạo áp lực lớn đối với chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia: Do môi trường nghiên cứu trong nước còn hạn chế và thu nhập chưa cạnh tranh, nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và nhà khoa học trẻ đã chọn ở lại hoặc định cư tại nước ngoài. Số khác thì quyết định làm việc ở ngành nghề khác vì khó tìm việc đúng chuyên môn hoặc lương thấp. Hiện tượng trên không chỉ gây lãng phí nguồn lực đào tạo, mà còn làm suy giảm lực lượng nhân tài trong nước. Mặt khác, khi nhu cầu nhân lực số tăng cao, các tập đoàn quốc tế dễ dàng thu hút kỹ sư, chuyên gia Việt Nam bằng môi trường làm việc ưu đãi và mức lương cao. Để giữ chân nhân tài, việc cải thiện chính sách đãi ngộ, xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp và tạo cơ hội thăng tiến rõ ràng là hết sức cần thiết. Đồng thời, cần có các chương trình, chính sách hấp dẫn nhằm thu hút các chuyên gia người Việt ở nước ngoài quay về đóng góp cho đất nước.
Liệu chúng ta có thể bứt phá trở thành nước thu nhập cao nếu vẫn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng nhân lực số? Tại nhiều kỳ họp Quốc hội, vấn đề nguồn nhân lực cho chuyển đổi số đã trở thành chủ đề thảo luận nổi bật tại nghị trường. Ủy ban Văn hóa và Xã hội đã đánh giá thẳng thắn: Chương trình đào tạo CNTT trong nước còn xa rời nhu cầu của doanh nghiệp và thiếu các quy định chuẩn hóa về kỹ năng cho thị trường lao động số. Báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2024 (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) cho thấy, Việt Nam đặt mục tiêu cần khoảng 3 triệu nhân sự CNTT vào năm 2030, trong khi thực tế hiện nay mới đạt khoảng 30 - 40% so với mục tiêu đó. Thực trạng ấy cho thấy bên cạnh quyết tâm của Chính phủ, vai trò giám sát và kiến nghị chính sách của Quốc hội là cực kỳ quan trọng để tháo gỡ những điểm nghẽn. Chỉ khi những tiếng nói chất vấn ấy được chuyển hóa thành hành động cụ thể - từ việc bố trí ngân sách, đổi mới chương trình đào tạo đến xây dựng cơ chế đãi ngộ nhân tài, chúng ta mới có thể thu hẹp khoảng cách giữa nhu cầu và thực tế về nguồn nhân lực trình độ số hóa. Phía doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, cũng cần coi trọng quản trị nhân tài, kết hợp giữa chính sách lương - thưởng cạnh tranh với cơ hội đào tạo và văn hóa doanh nghiệp cởi mở để tạo động lực cho người lao động. Đồng thời, Chính phủ cần có các chính sách đột phá hơn để thu hút và giữ chân nhân tài, xây dựng môi trường làm việc sáng tạo, minh bạch, tạo cơ hội thăng tiến rõ ràng để người trẻ phát huy hết tiềm năng.
Bên cạnh đó, khoảng cách về “chất lượng số” giữa thành thị và nông thôn vẫn là rào cản lớn. Ở các vùng sâu, vùng xa, tỉ lệ phủ sóng Internet và hạ tầng kỹ thuật còn kém phát triển; tỉ lệ lao động qua đào tạo thấp, công tác dạy nghề còn thiếu giáo viên và cơ sở vật chất. Thống kê cho thấy tại các vùng này, phần lớn chương trình đào tạo nghề chỉ ở cấp sơ cấp hoặc các khóa ngắn hạn (chiếm tới 75% hệ thống đào tạo nghề). Người dân ở nơi đây khó tiếp cận các khóa học trực tuyến và thiếu môi trường thực hành trang thiết bị CNTT. Vì vậy, cần đầu tư đồng bộ về hạ tầng viễn thông, CNTT, trang thiết bị giảng dạy và đào tạo nâng cao năng lực giáo viên ở các khu vực khó khăn, để đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục, đào tạo trên khắp mọi miền.
Chuyển đổi số đang diễn ra với tốc độ chưa từng có, mở ra cơ hội phát triển vượt bậc cho đất nước. Tuy nhiên, thành công của tiến trình này trước hết phụ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực số. Thực tế cho thấy dù Việt Nam đã có những trung tâm công nghệ thông tin lớn, nhiều khu vực nông thôn, miền núi vẫn còn thiếu kiến thức và kỹ năng số, thậm chí chưa tiếp cận đầy đủ công nghệ hiện đại. Điều này đã tạo ra một khoảng cách số ngày càng rõ nét giữa đô thị và nông thôn. Ông Kapil Chaudhery, Giám đốc công ty Spatial Decisions nhận định: “Chuyển đổi số ở Việt Nam, ngay cả tại thủ đô Hà Nội, vẫn còn rất mới mẻ và hạn chế đối với một số nhóm dân cư. Ở các thị trấn nhỏ, nhiều người gần như không có thông tin và kiến thức về chuyển đổi số. Vì vậy, cấp thiết nhất là nâng cao nhận thức và phổ cập thông tin để mọi tầng lớp nhân dân có thể tham gia vào tiến trình này”. Những cảnh báo đó đặt ra yêu cầu chiến lược: Việt Nam phải đẩy mạnh phổ cập tri thức số cho toàn dân, coi đây là nền tảng để xây dựng đội ngũ công dân số, đồng thời đảm bảo không để bất kỳ vùng miền nào bị bỏ lại phía sau. Đây chính là bước khởi đầu quan trọng để hình thành lực lượng nhân lực số đủ mạnh, góp phần hiện thực hóa mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2025.
Đào tạo cán bộ, công chức, viên chức: Nhu cầu đổi mới toàn diện
Nguồn nhân lực khu vực công, gồm cán bộ, công chức, viên chức là lực lượng trực tiếp triển khai các chủ trương, chính sách chuyển đổi số của Đảng và Chính phủ. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này vẫn còn nhiều bất cập. Trước hết, nội dung đào tạo còn nặng lý thuyết, cập nhật xu hướng rất chậm; nhiều chương trình tổ chức theo hình thức cho đủ tiêu chuẩn bổ nhiệm, mà chưa tập trung rèn luyện kỹ năng quản trị và kỹ năng số gắn với nhiệm vụ công việc cụ thể. Sự gắn kết giữa đào tạo và sử dụng cán bộ còn lỏng lẻo: Quy hoạch cán bộ chưa đi đôi với bồi dưỡng, dẫn đến tình trạng “học xong không dùng được ngay”. Việc đánh giá hiệu quả sau đào tạo thiếu tiêu chí rõ ràng, chưa có cơ chế ràng buộc người học phải áp dụng kiến thức vào công việc.
Điểm tích cực là gần đây, nhiều cơ quan Trung ương đã bắt đầu đổi mới phương pháp đào tạo cán bộ. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia và các trường chính trị ở địa phương đã mở nhiều lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản trị và điều hành theo hướng tương tác, kết hợp học trực tuyến và trực tiếp. Tuy nhiên, so với hơn 3,8 triệu cán bộ, công chức, viên chức toàn quốc, những con số trên vẫn còn rất khiêm tốn. Hạ tầng đào tạo số trong khu vực công còn yếu: Nhiều giảng viên chưa có kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng sư phạm công nghệ.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới đã khẳng định: “Hội nhập toàn diện đòi hỏi một đội ngũ nhân lực số bản lĩnh, sáng tạo, sẵn sàng chinh phục thị trường quốc tế”. Lời khẳng định này một lần nữa nhắc nhở rằng, nhân lực chính là “chìa khóa vàng” quyết định thắng lợi của công cuộc chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
Để đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên số, cần đổi mới căn bản công tác bồi dưỡng cán bộ. Cụ thể: (i) Chuyển từ đào tạo “cào bằng” sang đào tạo gắn với vị trí việc làm, nhiệm vụ cụ thể; (ii) Cập nhật nội dung theo hướng thực hành, tình huống, mô phỏng; tăng cường kết hợp học trực tuyến với trải nghiệm thực tế tại cơ quan; (iii) Xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả sau đào tạo, gắn kết quả học với quy hoạch và sử dụng cán bộ; (iv) Khuyến khích văn hóa học tập suốt đời qua các nền tảng mở (MOOC), có cơ chế động viên cán bộ tự học và sáng tạo; (v) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ quản lý nhà nước, tiếp thu tri thức và kinh nghiệm của các nước đi trước.
Nghị quyết 59-NQ/TW đã khẳng định quan điểm xuyên suốt: Hội nhập quốc tế là sự nghiệp chung của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, và phải đặt người dân, doanh nghiệp ở vị trí trung tâm. Trong bối cảnh thế giới biến động, mở cửa thôi chưa đủ; chúng ta cần chủ động, sáng tạo; đặt năng lực số - công nghệ - đổi mới sáng tạo làm nền tảng cạnh tranh toàn diện. Nếu lực lượng nhân sự còn yếu, Việt Nam không chỉ có nguy cơ bị bỏ lại phía sau, mà còn mất nhiều cơ hội trong sân chơi toàn cầu. Hội nhập toàn diện vì thế đòi hỏi đội ngũ nhân lực số bản lĩnh, sáng tạo và sẵn sàng chinh phục thị trường quốc tế. Quan điểm này một lần nữa nhắc nhở chúng ta rằng nhân lực chính là “chìa khóa vàng” quyết định thắng lợi của sự nghiệp chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2024), dữ liệu từ Cục Chuyển đổi số quốc gia, trích tại Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Tin bài khác


Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Đoàn kết, trách nhiệm, tăng tốc, bứt phá, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước đoàn kết, bứt phá, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới của đất nước

Bức thư gửi về quá khứ

Phụ nữ ngành Ngân hàng sẵn sàng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Doanh nghiệp - Động lực trong kỷ nguyên vươn mình

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
