Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số
Tinh thần tiết kiệm đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà khẳng định, Tọa đàm là hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần lan tỏa tinh thần tiết kiệm, khuyến khích người dân hình thành thói quen tài chính lành mạnh, tích lũy an toàn, đầu tư hiệu quả. Đồng thời khơi dậy ý thức trách nhiệm trong việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả mọi nguồn lực từ ngân sách nhà nước đến khu vực tư nhân và toàn xã hội. Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết, trải qua các thời kỳ phát triển, tinh thần tiết kiệm đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư duy quản lý và trong mỗi chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với quá trình phát triển của đất nước, nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư ngày càng được củng cố và khẳng định vai trò là một trong những nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy tăng trưởng. Hệ thống ngân hàng là kênh trung gian chủ lực, huy động và phân bổ hiệu quả nguồn vốn vào sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển.
![]() |
| Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà phát biểu khai mạc Tọa đàm |
Theo số liệu của NHNN, đến nay, tiền gửi dân cư tại các TCTD đạt khoảng 8 triệu tỉ đồng, tăng gần 13% so với cùng kỳ năm trước. Nguồn lực tài chính dồi dào này đã góp phần quan trọng giúp duy trì đà tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức cao và là điểm sáng trong khu vực, đồng thời là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của việc phát huy nguồn tiết kiệm trong dân cư như một sức mạnh nội sinh của nền kinh tế.
Ngày nay, trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động, cạnh tranh nguồn lực ngày càng gay gắt, nguồn vốn quốc tế thu hẹp, chi phí vốn gia tăng, việc phát huy nội lực, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước càng có ý nghĩa chiến lược hơn bao giờ hết. Cũng vì lẽ đó, tiết kiệm không chỉ là giá trị truyền thống, mà đã trở thành một yêu cầu phát triển, là nền tảng để củng cố sức mạnh tài chính quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và tăng sức chống chịu của nền kinh tế.
Theo Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà, trong suốt hơn bảy thập kỷ qua, ngành Ngân hàng luôn giữ vai trò huyết mạch của nền kinh tế, là cầu nối chuyển hóa tiết kiệm thành đầu tư, niềm tin thành thịnh vượng. Từ những khoản tiết kiệm nhỏ bé của người dân, ngân hàng đã tạo nên dòng vốn khổng lồ chảy vào sản xuất, kinh doanh, hạ tầng, nông nghiệp, giáo dục, y tế..., góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng.
![]() |
| Toàn cảnh Tọa đàm |
Suốt nhiều năm qua, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, hỗ trợ các TCTD duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn, khơi thông dòng chảy tiết kiệm - đầu tư. Song song với đó, toàn Ngành đã đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiết giảm chi phí hoạt động, tối ưu hóa nguồn lực, tạo thêm dư địa để giảm lãi suất cho vay - một minh chứng sinh động cho tinh thần “tiết kiệm để cùng cộng sinh” của ngành Ngân hàng với người dân, cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế.
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, tiết kiệm không chỉ là tích lũy tài chính, mà còn là cách thức sử dụng hiệu quả nguồn lực để đổi mới, để đầu tư cho tương lai. Chuyển đổi số đã và đang mở ra hướng phát triển mới cho ngành Ngân hàng: Đổi mới mô hình hoạt động, tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí vận hành, nâng cao năng suất và giảm lãng phí xã hội. Hiện nay, hơn 95% giao dịch của người dân được thực hiện qua kênh số, thanh toán không dùng tiền mặt tăng bình quân trên 45%/năm giúp tiết kiệm chi phí khổng lồ cho xã hội mỗi năm.
Song song với đó, các ngân hàng tiếp tục phát triển các sản phẩm tiết kiệm tiện ích, hiện đại như tiết kiệm trực tuyến, tiết kiệm linh hoạt, giúp người dân dễ dàng gửi tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi, vừa an toàn, minh bạch. Ở góc độ ngân hàng, việc đa dạng hóa sản phẩm tiết kiệm trên nền tảng số không chỉ giúp gia tăng tỉ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) - yếu tố quan trọng góp phần giảm chi phí vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động, mà còn tạo điều kiện để ngân hàng tiếp tục giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế.
Trong thời đại mới, khi các xu hướng tăng trưởng xanh, chuyển đổi số và phát triển bền vững đã và đang lan tỏa mạnh mẽ trên toàn cầu, tinh thần tiết kiệm càng cần được khơi dậy mạnh mẽ hơn, từ nhận thức đến hành động, từ mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp đến từng cơ quan, tổ chức.
Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà nhấn mạnh: “Chỉ khi tiết kiệm trở thành thói quen, thành văn hóa ứng xử và là nguyên tắc quản trị, chúng ta mới có thể xây dựng một nền kinh tế tự cường, một xã hội phát triển bền vững, một đất nước thịnh vượng và hạnh phúc”. Đồng thời, Phó Thống đốc cũng đánh giá cao sáng kiến tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số” của Thời báo Ngân hàng. Lãnh đạo NHNN kỳ vọng diễn đàn này sẽ lan tỏa giá trị của tiết kiệm thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và trong nước về phát triển văn hóa tiết kiệm, khuyến khích tiết kiệm thông minh, bền vững và toàn diện, từ đó đề xuất các giải pháp và chính sách thúc đẩy thói quen tiết kiệm, đầu tư an toàn, tài chính toàn diện gắn với chuyển đổi số và giáo dục tài chính quốc gia.
Tiết kiệm - Giá trị bền vững trong Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia
Tham luận tại Tọa đàm, PGS., TS. Chu Khánh Lân, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN) nhấn mạnh, tiết kiệm không chỉ là một phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn là nguồn lực quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao năng lực chống chịu và tạo nền tảng cho phát triển bền vững trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng hiện nay.
PGS., TS. Chu Khánh Lân cho biết: Ở góc độ quốc gia, nếu nhìn vào lịch sử văn hóa thì việc thực hành tiết kiệm đã có từ lâu đời, qua các chất liệu văn học, thành ngữ như “Buôn tàu bán bè chẳng bằng ăn dè tiết kiệm”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 02/1951) cũng đã khẳng định: “Chính sách tài chính là tăng thu bằng cách tăng gia sản xuất, giảm chi bằng cách tiết kiệm”. Bước vào thời kỳ đổi mới, tư tưởng này cũng được kế thừa, phát triển theo hướng phù hợp hơn. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986): “thấu suốt trong kế hoạch hóa và các đòn bẩy kinh tế”, “dành vốn để tích lũy, mở rộng sản xuất”. Cùng với đó, nhiều Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiết kiệm; nước ta đã ban hành Luật Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo từng giai đoạn.
![]() |
| PGS., TS. Chu Khánh Lân - Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN) phát biểu tại Tọa đàm |
Gần đây nhất, vào tháng 6/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết “Thực hành tiết kiệm”, trong đó, người đứng đầu Đảng nhấn mạnh: “Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là điều cần làm trong cuộc sống từng cá nhân và toàn xã hội, là “hòn đá tảng” góp phần xây dựng một xã hội văn minh, phát triển bền vững”. Theo PGS., TS. Chu Khánh Lân, tiết kiệm có vai trò rất quan trọng, hành động đem lại sự phát triển của mỗi cá nhân, gia đình và đất nước, đồng thời còn giúp cho một quốc gia có khả năng chống chịu, hội nhập một cách bền vững.
Trên thế giới, một số quốc gia vượt qua được mức thu nhập trung bình như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc họ có hệ số sử dụng vốn (ICOR) rất thấp chỉ từ 3,0 - 3,5 nhưng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao chỉ trong một giai đoạn đến 15-16 năm nhờ vào việc tiết kiệm. Tuy nhiên, họ phải đầu tư rất hiệu quả thì hệ số ICOR mới thấp. Ngược lại, một số quốc gia không vượt qua được bẫy thu nhập trung bình như Thái Lan và Malaysia thì hệ số ICOR cao, số năm có tốc độ tăng trưởng cao lại không nhiều.
Tại Việt Nam, 30 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân chỉ khoảng 6,5%, tỉ lệ tiết kiệm GDP cũng không phải thấp là 29%, nhưng không được cao như các quốc gia phát triển. Trong khi đó, tỉ lệ đầu tư GDP khoảng 30%. “Một mặt là chênh lệch giữa hai chỉ số nhưng tốc độ tăng trưởng thấp hơn, tức câu chuyện ở đây không chỉ thực hành tiết kiệm để đầu tư mà phải làm như thế nào để hiệu quả”, PGS., TS. Chu Khánh Lân nhấn mạnh.
Tiết kiệm gắn với tài chính toàn diện
Cũng theo PGS., TS. Chu Khánh Lân, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến phát triển toàn diện, bao trùm. Gần đây Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 thì hệ thống các mục tiêu, giải pháp đã được ban hành, triển khai một cách nhất quán đồng bộ và hiệu quả. Trong đó, tiết kiệm là một trong các sản phẩm ngân hàng được cung ứng; ngược lại người dân, hộ gia đình, doanh nghiệp cần hiểu và có kiến thức kỹ năng quản lý tài chính, nâng cao hiểu biết về sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng. Từ đó Chính phủ, NHNN đưa ra chỉ tiêu có ít nhất 25% - 30% người trưởng thành gửi tiết kiệm tại tổ chức tín dụng. Đối với hộ gia đình, cá nhân, tiết kiệm là yếu tố quan trọng giúp chi tiêu sinh hoạt và mua sắm hàng hóa lâu bền; tiếp cận hệ thống tài chính chính thức, tránh tín dụng đen; mở rộng và liên kết với nhiều sản phẩm, dịch vụ tài chính; giúp họ có kỹ năng quản lý tài chính cá nhân; cùng với đó là nâng cao năng lực chống chịu rủi ro trước các yếu tố bất lợi từ biến động kinh tế - xã hội.
Cũng liên quan đến Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, trong 5 năm qua Nhà nước đã hoàn thiện thể chế đối với sản phẩm, dịch vụ tài chính trên tinh thần xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Điều này được cụ thể hóa qua sự ra đời của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022; Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022, Luật Căn cước năm 2024, Luật Giao dịch điện tử năm 2023… để các quy định pháp luật về sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng được triển khai hiệu quả. NHNN cũng tạo điều kiện để phát triển các tổ chức cung ứng và mạng lưới: Ngoài các tổ chức tín dụng, định chế tài chính chuyên biệt thì cũng xuất hiện nhiều các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, mạng lưới bưu chính viễn thông…
Để hiện thực hóa các mục tiêu trong Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, ngành Ngân hàng cũng phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để mọi đối tượng có thể tiếp cận từ người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa…
Về kết quả triển khai Chiến lược, về cơ bản 6 mục tiêu cụ thể đã đạt được bao gồm: Phát triển đa dạng tổ chức cung ứng, kênh phân phối, sản phẩm, dịch vụ tài chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, tăng cường đổi mới sáng tạo; xây dựng hành lang pháp lý cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích đổi mới sáng tạo; hoàn thiện cơ sở hạ tầng tài chính; phát triển hệ thống tổ chức, chương trình, dự án tài chính vi mô; nâng cao hiểu biết tài chính; bảo vệ người tiêu dùng…
Đáng chú ý, liên quan đến vấn đề tiết kiệm gắn với tài chính toàn diện thì theo khảo sát của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), tính đến quý III/2024 thì 68% người trưởng thành có tiết kiệm trong 12 tháng. Về mục đích tiết kiệm, 44% cho tuổi già (tăng theo độ tuổi; cao hơn ở thành thị); 31% cho giáo dục (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); chỉ có 13% cho đầu tư hoặc kinh doanh để đem lại hiệu quả, tức còn khá thấp.
Đối với hình thức tiết kiệm, khảo sát cho biết 47% giữ tại nhà (tăng theo thu nhập; cao hơn ở nông thôn); 33% gửi ngân hàng (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); 6% tiết kiệm không chính thức (cao hơn ở nông thôn); 0,4% đầu tư chứng khoán; 0,6% đầu tư vào quỹ hưu trí. Tiết kiệm chủ yếu vào hệ thống ngân hàng và tự thân, còn đầu tư vào thị trường tài chính còn thấp. Ngoài ra, hiểu biết về tiền gửi tại tổ chức tín dụng: 20% không biết; 45% có nghe đến hoặc có biết; 35% biết rõ, do đó vẫn còn nhiều dư địa để các ngân hàng khai thác. Bên cạnh đó, việc tin tưởng vào tổ chức tín dụng được cấp phép để gửi tiền hoặc sử dụng sản phẩm lên đến 86,2%, chứng tỏ đây là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy tiết kiệm tại các kênh chính thức.
Những nền tảng số có thể giúp người dân nâng cao hiểu biết về tiết kiệm nói chung và các sản phẩm ngân hàng. Qua đó hiện thực hóa các mục tiêu trong thúc đẩy tài chính toàn diện, phát triển bao trùm, công nghệ và dữ liệu cũng có thể góp phần xác định các đối tượng cần được giáo dục, nâng cao hiểu biết về tài chính, đặc biệt là những ai yếu thế, không có điều kiện tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng…
Mô hình ngân hàng tiết kiệm địa phương củng cố khả năng tự cường tài chính cộng đồng
Trong phần trình bày tại Tọa đàm, ông Christian Grajek - Trưởng điều phối khu vực châu Á, Quỹ Hợp tác quốc tế các Ngân hàng Tiết kiệm Đức (DSIK) đã giới thiệu tổng quan về mô hình Ngân hàng Tiết kiệm Đức (Sparkassen), một hệ thống tài chính cộng đồng đã hoạt động hiệu quả hơn 200 năm, đóng vai trò then chốt trong việc phổ cập dịch vụ tài chính, thúc đẩy tiết kiệm bền vững, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), đồng thời xây dựng năng lực tự cường tài chính tại cấp địa phương. Theo ông, đây là mô hình tài chính công - tư đặc thù, phi lợi nhuận tư nhân, phục vụ lợi ích công, có cấu trúc quản trị độc lập và tránh được chi phối bởi các tập đoàn tài chính lớn.
Ông nhấn mạnh, Sparkassen không chỉ là các định chế tài chính thương mại thông thường, mà là một thiết chế xã hội gắn với lợi ích cộng đồng. Do tính chất sở hữu công địa phương (municipal ownership), cơ chế vận hành của Sparkassen tạo điều kiện cho dòng vốn tiết kiệm được lưu giữ và tái đầu tư trong chính khu vực nơi vốn được hình thành, thúc đẩy tăng trưởng nội sinh. Nguyên tắc “regional principle” (nguyên tắc khu vực) được áp dụng nghiêm ngặt: Ngân hàng chỉ hoạt động trong địa bàn được giao, để đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội tại địa phương và hạn chế rủi ro hệ thống.
![]() |
| Ông Christian Grajek - Trưởng điều phối khu vực châu Á, Quỹ Hợp tác quốc tế các Ngân hàng Tiết kiệm Đức (DSIK) phát biểu tại Tọa đàm |
Ông Christian Grajek phân tích thêm, khác với nhiều ngân hàng thương mại đặt trọng tâm tối đa hóa lợi nhuận cổ đông, Sparkassen ưu tiên lợi ích công cộng, lợi ích xã hội dài hạn và phát triển khu vực. Do đó, lợi nhuận của Sparkassen được tái đầu tư cho cộng đồng thông qua các chương trình học bổng, hỗ trợ văn hóa, thể thao, bảo tồn di sản, và nâng cao hiểu biết tài chính, qua đó củng cố nền tảng xã hội để thúc đẩy tiết kiệm bền vững.
Về quản trị rủi ro, ông nhấn mạnh hệ thống Sparkassen có một quỹ bảo vệ chung nội bộ (Institutional Protection Scheme), giúp đảm bảo an toàn tài chính cho từng đơn vị thành viên, đồng thời bảo vệ người gửi tiền. Hệ thống này hoạt động tương tự mô hình “tương trợ lẫn nhau”, không cần can thiệp của nhà nước, giảm gánh nặng ngân sách và tránh hiệu ứng lây lan. Đây là lý do vì sao trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Sparkassen vẫn duy trì mức ổn định cao.
Quay trở lại khía cạnh tiết kiệm, ông Christian Grajek cho biết: Sparkassen coi tiết kiệm là công cụ củng cố an ninh tài chính hộ gia đình, bảo vệ người dân trước rủi ro thất nghiệp, bệnh tật, khủng hoảng kinh tế và lạm phát. Để duy trì thói quen này trong thời đại số, Sparkassen phát triển mạnh các sản phẩm tiết kiệm trực tuyến, dịch vụ ngân hàng qua ứng dụng di động, tiết kiệm linh hoạt cho các mục tiêu giáo dục, hưu trí, quỹ khẩn cấp. Đồng thời, họ triển khai chương trình kiến thức tài chính (financial literacy), hướng dẫn người dân quản lý ngân sách cá nhân, thúc đẩy tiết kiệm sớm.
Ông cũng chia sẻ về nguyên tắc “public mandate” - nghĩa vụ phục vụ cộng đồng. Các ngân hàng trong hệ thống Sparkassen phải bảo đảm khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho mọi đối tượng, từ người thu nhập thấp, người già, đến thanh niên mới đi làm. Đặc biệt, Sparkassen duy trì mạng lưới chi nhánh rộng khắp, ngay cả tại vùng nông thôn hoặc khu vực có lợi nhuận thấp, nhằm bảo đảm công bằng tài chính. Đây là điểm khác biệt so với xu hướng đóng chi nhánh của nhiều ngân hàng thương mại.
Cũng theo ông, Sparkassen có vai trò quan trọng trong chuyển đổi xanh tại Đức: Họ tài trợ cho doanh nghiệp cải tiến công nghệ xanh, dự án tiết kiệm năng lượng, nông nghiệp xanh, nhà ở bền vững. Nhờ đó, Sparkassen vừa thúc đẩy tiết kiệm, vừa giúp người dân đầu tư vào mô hình tiêu dùng tiết kiệm năng lượng, giảm chi phí sinh hoạt về dài hạn.
Như vậy, một trong những bài học lớn nhất từ mô hình Sparkassen là “ổn định dựa trên cộng đồng”. Khi tích lũy được lan tỏa trong cộng đồng, dòng tiết kiệm được quản trị minh bạch và tái đầu tư cho địa phương, nền kinh tế quốc gia sẽ có sức chống chịu tốt hơn với cú sốc bên ngoài. Đồng thời, mỗi khoản tiết kiệm nhỏ của người dân sẽ trở thành viên gạch xây dựng hệ thống tài chính vững chắc và công bằng.
Tiết kiệm vi mô trao quyền kinh tế và nâng cao khả năng tự chủ cho nhóm yếu thế
Trong tham luận của mình, bà Phạm Thị Thùy Linh - Tổng Giám đốc Tổ chức Tài chính vi mô Tình Thương (TYM) khẳng định, tiết kiệm đóng vai trò quan trọng trong ổn định tài chính hộ gia đình, đặc biệt đối với phụ nữ và nhóm yếu thế. Theo bà, tiết kiệm là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất trước các cú sốc tài chính. Tiết kiệm còn tạo cơ hội để hộ gia đình tiếp cận đầu tư nhỏ, cải thiện chất lượng cuộc sống và từng bước thoát nghèo bền vững.
Chính vì vậy, tiết kiệm vi mô trở thành “đầu vào” quan trọng cho trao quyền kinh tế phụ nữ. Chính khả năng có thể quản lý và cải thiện cuộc sống bằng nỗ lực của bản thân, khả năng tự quyết chi tiêu, chủ động vốn nhàn rỗi và quen thuộc với hoạt động tài chính nhỏ lẻ sẽ giúp phụ nữ nâng cao vị thế trong gia đình và cộng đồng, góp phần thu hẹp khoảng cách giới.
![]() |
| Bà Phạm Thị Thùy Linh - Tổng Giám đốc Tổ chức Tài chính vi mô Tình Thương (TYM) phát biểu tại Tọa đàm |
Trong hơn ba thập kỷ hoạt động, TYM - tổ chức tài chính vi mô cấp phép đầu tiên tại Việt Nam - đã phát triển mô hình cung cấp song song tiết kiệm và tín dụng quy mô nhỏ cho phụ nữ thu nhập thấp. Điểm khác biệt của tiết kiệm vi mô TYM là gắn liền với giáo dục tài chính và sinh hoạt nhóm: Thay vì chỉ gửi tiền, hội viên được học quản lý chi tiêu, lập kế hoạch tài chính và ứng phó rủi ro. Đặc biệt, họ được khuyến khích hình thành quỹ dự phòng khẩn cấp, yếu tố then chốt với hộ nghèo.
Tiết kiệm vi mô “sở hữu” những giá trị cốt lõi như: An toàn, tiện lợi, linh hoạt, bền bỉ. Chỉ với mức gửi nhỏ, định kỳ, nhiều phụ nữ đã hình thành thói quen tích lũy lâu dài, kể cả khi chỉ có thu nhập thấp. Độ linh hoạt cao khiến sản phẩm dễ tiếp cận hơn nhiều hình thức tiết kiệm truyền thống.
Một điểm nổi bật của mô hình TYM là thúc đẩy tiết kiệm bắt buộc song song tiết kiệm tự nguyện, tiết kiệm có kỳ hạn nhằm khuyến khích kỷ luật tài chính. Bà Phạm Thị Thùy Linh cho biết, đến tháng 9/2025, tổng số dư tiết kiệm tại TYM đạt hơn 2.300 tỉ đồng, tăng gấp hơn 30 lần so với thời kỳ khi được chuyển đổi thành tổ chức TCVM chính thức vào năm 2010. “Đây là bước tiến quan trọng, thể hiện sự phát triển mạnh mẽ, ổn định và bền vững của mô hình tiết kiệm vi mô tại TYM sau hơn 30 năm hoạt động. Hiện nay, TYM phục vụ hơn 222.000 khách hàng, trong đó 100% khách hàng đều tham gia tiết kiệm. Số dư tiết kiệm hiện chiếm khoảng 70 - 80% tổng dư nợ. Hàng năm, số dư tiền gửi tiết kiệm của khách hàng TYM đều tăng bình quân từ 8 - 10%, cho thấy nhu cầu gửi tiết kiệm của phụ nữ ngày càng lớn, đồng thời thể hiện là sự gia tăng niềm tin, gắn bó của khách hàng”, bà Phạm Thị Thùy Linh cho biết.
Số dư tiết kiệm bình quân của khách hàng tại TYM tăng đều qua các năm, từ mức 1,2 triệu đồng/khách hàng năm 2010 lên hơn 10 triệu đồng/khách hàng vào năm 2025. Những con số này không chỉ phản ánh sự mở rộng về quy mô tài chính, mà quan trọng hơn, cho thấy sự thay đổi trong tư duy và hành vi tài chính của hàng trăm nghìn phụ nữ có thu nhập thấp: Từ chỗ e ngại, chưa quen với khái niệm tiết kiệm, họ đã chủ động gửi tiền, tích lũy và lập kế hoạch tài chính cho tương lai.
Trong bối cảnh nền kinh tế số phát triển mạnh mẽ, chuyển đổi số mở ra cơ hội lớn để thúc đẩy tài chính bao trùm, đưa dịch vụ tài chính, đặc biệt là tiết kiệm vi mô, tiếp cận gần hơn với người dân ở nông thôn, miền núi và vùng sâu, vùng xa. Đối với các tổ chức tài chính vi mô như TYM, đây không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn là giải pháp giúp rút ngắn khoảng cách số giữa người nghèo và hệ thống tài chính chính thức.
Nhận thức rõ điều này, TYM đã chủ động triển khai nhiều giải pháp số hóa trong hoạt động tiết kiệm, hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý và tăng tính thuận tiện cho khách hàng. Tổ chức đã nghiên cứu, phát triển và đưa vào vận hành ứng dụng TYM Mobile, giúp khách hàng và cán bộ tra cứu thông tin tài chính, đăng ký nhiều nghiệp vụ một cách nhanh chóng và thuận tiện. Thông qua ứng dụng, khách hàng có thể chủ động kiểm tra số dư, theo dõi tài khoản và nhận thông báo giao dịch mọi lúc, mọi nơi, đồng thời được hỗ trợ trong quy trình đăng ký mở, rút và quản lý tiết kiệm, góp phần tăng tính minh bạch và giảm sai sót.
Việc ứng dụng công nghệ số giúp nhiều phụ nữ ở khu vực nông thôn lần đầu tiên tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức và làm quen với kỹ năng số, một năng lực ngày càng quan trọng trong đời sống hiện đại. Không ít người chia sẻ rằng họ cảm thấy tự tin hơn khi có thể chủ động kiểm tra số dư, giao dịch hoặc đặt kế hoạch tiết kiệm ngay trên điện thoại. Nếu năm 2022 mới ghi nhận khoảng 6.700 khách hàng sử dụng ứng dụng (tương đương 3,5% tổng khách hàng), thì đến cuối tháng 9/2025, con số này đã đạt gần 116.000 tài khoản, tương đương hơn 52% tổng số khách hàng toàn hệ thống.
Song song với đó, TYM đẩy mạnh triển khai thanh toán không dùng tiền mặt trong các giao dịch vốn vay và tiền gửi. Đến hết tháng 9/2025, gần 113.000 khách hàng đã thực hiện giao dịch không dùng tiền mặt, chiếm hơn 51% tổng số khách hàng. Riêng trong tháng 9/2025, tổng số tiền giao dịch qua tài khoản đạt hơn 334 tỉ đồng, chiếm 52% tổng số tiền giao dịch giữa khách hàng và TYM.
Bên cạnh đầu tư hạ tầng kỹ thuật, TYM đặc biệt chú trọng nội dung giáo dục tài chính số, nhằm giúp phụ nữ hiểu, tin tưởng và sử dụng công nghệ an toàn. Các chương trình tập huấn và sinh hoạt cụm được lồng ghép kiến thức về quản lý chi tiêu, nhận diện rủi ro, phòng tránh lừa đảo trực tuyến và sử dụng điện thoại thông minh trong giao dịch tài chính. Tính đến nay, đã có hơn 80.000 khách hàng cùng thành viên gia đình được đào tạo và nâng cao kiến thức về công nghệ số theo chương trình nâng cao năng lực của TYM.
Thực tiễn cho thấy công nghệ số không chỉ giúp TYM phục vụ khách hàng hiệu quả hơn, mà còn hỗ trợ người dân - đặc biệt là phụ nữ - tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức một cách an toàn, thuận tiện và minh bạch. Trong bối cảnh số hóa, mô hình tiết kiệm vi mô tại TYM đang từng bước thay đổi phương thức vận hành, song vẫn giữ nguyên những giá trị cốt lõi: Củng cố niềm tin, nâng cao tính tự chủ và nuôi dưỡng khả năng tích lũy cho tương lai.
Từ kinh nghiệm hơn ba thập kỷ hoạt động, TYM nhận định tiết kiệm vi mô ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc mở rộng tiếp cận tài chính, nâng cao năng lực tự chủ của phụ nữ và các cộng đồng yếu thế, góp phần thực hiện hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.
Để phát huy hiệu quả mô hình này, TYM đề xuất tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tài chính vi mô và tiết kiệm vi mô; đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính vi mô, bao gồm hỗ trợ hạ tầng công nghệ, đào tạo năng lực số cho cán bộ và khách hàng, khuyến khích ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) phù hợp với người thu nhập thấp; đồng thời lồng ghép giáo dục tài chính và giáo dục tiết kiệm vào các chương trình an sinh xã hội, phát triển nông thôn và bình đẳng giới.
“Với những chính sách phù hợp, sự hỗ trợ về hạ tầng số, và sự đồng hành của cơ quan quản lý nhà nước, và nỗ lực của các tổ chức tài chính vi mô như TYM, chúng tôi tin rằng mỗi đồng tiết kiệm nhỏ hôm nay sẽ trở thành nền tảng cho một tương lai tự chủ, công bằng và bền vững hơn cho phụ nữ và cộng đồng yếu thế. Tiết kiệm vi mô trở thành điểm tựa tài chính bền vững cho phụ nữ và cộng đồng yếu thế”, bà Linh tin tưởng.
Từ thói quen hộ gia đình đến sức mạnh nội sinh của quốc gia
Điều phối phiên thảo luận tại Tọa đàm, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam - đã đặt ra nhiều câu hỏi với các khách mời liên quan đến văn hóa tiết kiệm, tác động của số hóa, chính sách tài chính toàn diện, cách thức để lan tỏa hơn nữa “thói quen” tiết kiệm trong cộng đồng…
![]() |
| TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm |
Trả lời câu hỏi về vai trò của phụ nữ trong hình thành thói quen tiết kiệm và lan tỏa hành vi tài chính hợp lý trong cộng đồng, bà Phạm Thị Thùy Linh - Tổng Giám đốc TYM nhấn mạnh rằng, 100% khách hàng của TYM là phụ nữ nghèo, thu nhập thấp, và chính họ cũng là những người khởi xướng, duy trì kỷ luật tiết kiệm trong gia đình. Thực tiễn tiếp cận hàng trăm nghìn phụ nữ ở nông thôn, miền núi đến khu vực đô thị cho thấy họ lập kế hoạch chi tiêu, cân đối nhu cầu trước mắt, tương lai, lo toan cho con cái, đối phó rủi ro, đồng thời vận động chồng con cùng tham gia tiết kiệm định kỳ. Nhiều phụ nữ mơ ước chỉ một sổ tiết kiệm vài triệu đồng cũng có thể giúp chủ động hơn trước bất trắc khi về già. Họ tuân thủ nghiêm kỷ luật gửi nhỏ - đều - lâu dài; mỗi tuần vài nghìn đồng vẫn đủ tạo nên động lực nội sinh của cộng đồng.
Theo bà Phạm Thị Thùy Linh, hình ảnh hàng trăm phụ nữ tập trung tại nhà văn hóa, gửi từ 30.000 - 100.000 đồng mỗi tuần, mỗi tháng trong nhiều năm là minh chứng cho sức mạnh tiết kiệm vi mô. Đây cũng là một trong những nguyên nhân giúp tỉ lệ hoàn trả vốn của TYM duy trì trên 99,99% ngay cả trong giai đoạn Covid-19.
Kết quả hơn 30 năm hoạt động cho thấy mô hình đã hình thành thói quen tiết kiệm định kỳ; gần 500.000 lượt khách hàng được tập huấn giáo dục tài chính; gần 150.000 phụ nữ thoát nghèo bền vững; khoảng 8.000 chị em đã vươn lên trở thành những doanh nhân vi mô, đạt được các giải thưởng doanh nhân vi mô trong nước và quốc tế… Điều này khẳng định khi được tiếp cận dịch vụ tài chính phù hợp, phụ nữ có cơ hội thay đổi cuộc sống, đóng góp thiết thực vào mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Ở góc độ kinh nghiệm quốc tế, ông Christian Grajek cho rằng, muốn mở rộng văn hóa tiết kiệm bền vững, cần chuyển từ các chiến dịch ngắn hạn sang mục tiêu dài hạn. Hành vi tài chính bền vững được hình thành hiệu quả nhất khi bắt đầu từ thời thơ ấu, đầu tuổi thanh niên, thông qua các mô-đun giáo dục tài chính trong trường học và đại học, gắn với bối cảnh và độ tuổi. Các phương pháp hiện đại như trò chơi hóa, ứng dụng di động, học trực tuyến, cuộc thi tiết kiệm giúp hấp dẫn giới trẻ. Cơ chế khen thưởng - như tài khoản tiết kiệm trẻ em với lãi suất và ưu đãi - vừa khích lệ, vừa giáo dục hành vi.
Từ góc nhìn chính sách, PGS., TS. Chu Khánh Lân phân tích, tiết kiệm trong kỷ nguyên số dựa trên ba khía cạnh: Công nghệ số đã thay đổi đời sống; tiết kiệm trở nên tự động thay vì cảm tính; và tiết kiệm trở thành nguồn lực nội sinh thông qua quy trình bốn bước: Tạo thu nhập - dành một phần thu nhập - lựa chọn kênh đầu tư - giám sát hiệu quả.
“Đó là một quy trình khép kín và kỷ nguyên số giúp cho bốn bước này diễn ra một cách thuận tiện, dễ dàng hơn. Có thể hiểu là tăng năng suất lao động thì tăng thu nhập, biết cách thống kê, thu nhập chi tiêu ra sao để gửi tiết kiệm, chọn kênh đầu tư và giám sát xem có hiệu quả. Tiết kiệm sẽ hiệu quả hơn với mỗi cá nhân, từ đó sẽ giúp ích cho nền kinh tế quốc gia tốt hơn”, PGS., TS. Chu Khánh Lân cho biết.
Cũng theo PGS., TS. Chu Khánh Lân, trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, nhóm người dân phổ thông dễ dàng thích ứng với kênh giao dịch di động; điều họ cần là an toàn và bảo mật. Ngược lại, nhóm yếu thế đối mặt rào cản về nhận thức tài chính, kỹ năng số, rủi ro an ninh mạng và dữ liệu cá nhân. Ví dụ khi thực hiện giao dịch trên điện thoại, người dùng phải qua nhiều bước xác thực, xác nhận để bảo vệ. Chính vì vậy, chúng ta cần tập trung chính sách để loại bỏ những rào cản, những điểm yếu cho đối tượng yếu thế.
Về trách nhiệm của các bên, PGS., TS. Chu Khánh Lân cho rằng, các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tài chính cần được khuyến khích để thiết kế ra những sản phẩm hiện đại, hấp dẫn, linh hoạt, nâng cao trải nghiệm người dùng. Quan trọng hơn, họ phải tuân thủ những quy định, tiêu chuẩn tối thiểu về an toàn và bảo mật (nhà nước cần quy định mức tối thiểu này).
Với người dân, ngoài việc tiếp cận thông tin, nâng cao hiểu biết, điều cần thiết là phải hướng dẫn và hỗ trợ họ về kỹ năng số qua nhiều cách khác nhau.
Với cơ quan quản lý nhà nước, cần hoàn thiện khung khổ pháp lý theo xu hướng chuyển đổi số, ví dụ như việc đang dự thảo thông tư về an toàn, bảo mật, cung cấp dịch vụ trực tuyến. Việc này luôn luôn thay đổi để theo kịp sự phát triển.
Mục tiêu cuối cùng là làm sao để người tiêu dùng, những đối tượng yếu thế, không còn khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ số. Khi họ đã tiếp cận được, với khả năng tự học, họ sẽ tự thay đổi và sử dụng tốt các công cụ này.
Tuy nhiên, chính sách tài chính toàn diện không thể chỉ triển khai riêng cho mỗi ngành Ngân hàng hay mỗi tổ chức tín dụng. Nó đòi hỏi sự phối hợp của rất nhiều cơ quan, ban ngành (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an...). Ví dụ, Luật Bảo vệ dữ liệu người tiêu dùng năm 2023 đặt ra nhiều yêu cầu đối với ngành Ngân hàng về bảo mật dữ liệu khách hàng. Sự chung tay này sẽ giúp thúc đẩy tài chính toàn diện số, cộng với bảo mật dữ liệu người tiêu dùng, sẽ là đòn bẩy thành công và hiệu quả.
![]() |
| PGS., TS. Lê Thanh Tâm - Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phát biểu tại Tọa đàm |
PGS., TS. Lê Thanh Tâm - Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng văn hóa tiết kiệm không phải “thắt lưng buộc bụng” mà là tiêu dùng có chọn lọc, ưu tiên mục tiêu dài hạn thay vì chi tiêu ngắn hạn. Tiết kiệm cần trở thành “hạ tầng mềm” gắn với hạ tầng tài chính quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số giúp minh bạch, lan toả thói quen tài chính lành mạnh. Các tổ chức tài chính vi mô thành công trong hình thành thói quen tiết kiệm hằng ngày, hằng tuần, dù số tiền rất nhỏ - đây là nền tảng quan trọng của văn hoá tài chính cộng đồng. Do đó, giáo dục tài chính cần tiếp tục đưa kỹ năng quản lý chi tiêu, tiết kiệm, tránh tín dụng đen vào chương trình học; xây dựng tiêu chí tiết kiệm trong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; phát huy minh bạch lãi suất, phí để bảo vệ người vay.
Khép lại Tọa đàm, bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng nhấn mạnh, trong kỷ nguyên số, tiết kiệm không chỉ đảm bảo an toàn tài chính cho mỗi cá nhân, mà còn nuôi dưỡng sức mạnh nội sinh của nền kinh tế, giúp đất nước vững vàng trước biến động toàn cầu.
Để làm được điều đó, cần sự đồng hành của ba trụ cột: Chính sách - định hướng đúng đắn từ Chính phủ và NHNN, tạo khung pháp lý và cơ chế khuyến khích tiết kiệm; ngân hàng và tổ chức tài chính - đổi mới sáng tạo, phát triển sản phẩm tiết kiệm số, tiết kiệm xanh, thân thiện với người dùng; người dân - thay đổi tư duy và hành vi tài chính, coi tiết kiệm là hành động văn minh, là đầu tư cho tương lai của chính mình và của đất nước.
Mỗi hành động nhỏ - tiết kiệm một khoản tiền, một đơn vị năng lượng, hay một thói quen tiêu dùng có trách nhiệm - đều góp phần vun đắp tương lai lớn của đất nước. “Sự kiện hôm nay khép lại nhưng những thông điệp mà chúng ta cùng chia sẻ sẽ tiếp tục lan tỏa: Tiết kiệm không thể chỉ là một chiến dịch, nó phải trở thành một tinh thần quốc dân - lan tỏa từ người lãnh đạo cao nhất cho đến từng công chức, viên chức, từng doanh nhân, từng người dân bình thường. Đó là con đường chắc chắn nhất để đất nước phát triển giàu mạnh, văn minh, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc - cũng là con đường để Việt Nam củng cố sức mạnh nội sinh, hướng tới một nền kinh tế tự cường, giàu mạnh và bền vững”, bà Nguyễn Thị Thanh Bình kỳ vọng.
![]() |
| Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Tọa đàm |
Tin bài khác
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam







