Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
aa

Kỳ 4: Sự lãnh đạo của Đảng - "Nhạc trưởng" của sự nghiệp đào tạo nhân lực số

Để “dàn nhạc phát triển quốc gia” cất lên đúng "cao độ", kiến trúc thể chế phải được thiết kế đồng bộ ngay từ bản thiết kế đầu tiên. Trong những năm gần đây, Bộ Chính trị liên tiếp ban hành các nghị quyết quan trọng định hướng phát triển quốc gia: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mở đường cho phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới nhấn mạnh nguyên tắc “thể chế phải đi trước một bước”, cải cách mạnh mẽ công tác xây dựng và thi hành pháp luật để kiến tạo phát triển; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân, xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, khẳng định hội nhập quốc tế là sự nghiệp toàn dân dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể và động lực; và Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu với những đột phá chiến lược nhằm đưa chất lượng giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến châu Á vào năm 2030 và hướng tới nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới vào năm 2045. Các nghị quyết trụ cột ấy hợp thành “bộ khung nhạc phổ” để Đảng chỉ huy, Nhà nước thực thi và toàn xã hội đồng lòng hưởng ứng; đồng thời kiến tạo hành lang pháp lý, huy động nguồn lực và môi trường thuận lợi để nhân lực số nảy nở, phát triển.

Hệ thống chính trị và tổ chức Đảng không chỉ truyền thụ kiến thức chuyên môn mà còn phải giáo dục tư tưởng, rèn luyện phẩm chất cho cán bộ. Trong kỷ nguyên số, một cán bộ chỉ “hồng” mà không “chuyên” sẽ thiếu khả năng ứng dụng công nghệ, còn chỉ “chuyên” mà thiếu “hồng” dễ rơi vào tình trạng lệch lạc - vi phạm quyền riêng tư, dữ liệu hay lợi dụng công nghệ phục vụ lợi ích nhóm. Vì vậy, Đảng ta luôn đòi hỏi trong mọi chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải tích hợp hài hòa giáo dục lý tưởng cách mạng với đào tạo chuyên môn công nghệ. Mục tiêu là tạo ra lớp cán bộ “vững vàng tư tưởng - thành thạo công nghệ - mẫu mực liêm chính”, bảo đảm quyền lực dữ liệu được sử dụng vì lợi ích của Nhân dân.

Công tác đào tạo trong kỷ nguyên số đòi hỏi đổi mới cả nội dung lẫn phương pháp. Học lý luận chính trị phải gắn với tình huống thực tiễn của đời sống số, cần lồng ghép giáo dục đạo đức cách mạng với kiến thức công nghệ để mỗi cán bộ giữ vững bản lĩnh trong “thế giới phẳng”. Đào tạo chuyên môn công nghệ phải khơi dậy tinh thần phụng sự Tổ quốc và tinh thần đổi mới sáng tạo, đồng thời tích hợp kiến thức về đạo đức dữ liệu, an ninh mạng và AI để cán bộ làm chủ công nghệ mà không lệch hướng. Đào tạo phải khuyến khích tinh thần tự học, hợp tác quốc tế và kết hợp chặt chẽ giữa học hành với thực hành; xây dựng một thế hệ cán bộ trẻ vừa vững lý tưởng cách mạng, vừa thành thạo kỹ năng công nghệ, giúp xây dựng nền tảng con người toàn diện cho kỷ nguyên số.

Sự lãnh đạo của Đảng - “Nhạc trưởng” đưa đất nước vươn mình trong kỷ nguyên số

Trong tiến trình phát triển đất nước từ Đổi mới 1986 đến nay, mỗi bước tiến của dân tộc luôn gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Những năm 1990, Đảng ta khởi xướng và dẫn dắt đổi mới, tạo tiền đề cho đất nước cất cánh. Đầu thế kỷ 21, Đảng tiếp tục chỉ đạo hội nhập quốc tế sâu rộng, đưa Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và khẳng định vị thế khu vực. Ngày nay, khi kỷ nguyên CMCN 4.0 đặt ra những yêu cầu mới, dân tộc ta bước vào một “trận tuyến mới” - trận tuyến đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực số. Trong trận chiến này, Đảng tiếp tục giữ vai trò “nhạc trưởng”: Định hình tầm nhìn, vạch chiến lược, dẫn dắt toàn xã hội cùng chung tay kiến tạo tương lai số. Trong kỷ nguyên mới, nhiệm vụ xây dựng nguồn nhân lực càng nặng nề và phức tạp, đòi hỏi không chỉ một vài chương trình đào tạo rời rạc mà cần sự nhập cuộc của cả hệ thống chính trị, từ Trung ương đến cơ sở, từ các ban cán sự đảng, đảng đoàn ở các bộ, ngành cho đến từng chi bộ ở cơ quan, doanh nghiệp.

Gần đây, Đảng đã thể hiện quyết tâm và tầm nhìn chiến lược thông qua việc ban hành loạt nghị quyết quan trọng về phát triển nguồn nhân lực quốc gia trong bối cảnh mới. Cụ thể: (i) Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 xác định phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá chiến lược hàng đầu, mở đường cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên công nghệ cao; (ii) Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 nhấn mạnh hội nhập là sự nghiệp toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng, trong đó lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể và đối tượng thụ hưởng, đồng thời tận dụng hội nhập để phát triển nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy đổi mới sáng tạo; (iii) Nghị quyết số 68-NQ/TW đề ra nhiều chủ trương đột phá nhằm khuyến khích khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ vào phát triển kinh tế số, như hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình kinh doanh công nghệ (Fintech, AI, tài sản số…), thí điểm cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cho các lĩnh vực mới, ban hành chính sách ưu đãi thuế (bãi bỏ thuế môn bài, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 3 năm đầu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa), cung cấp miễn phí nền tảng số dùng chung, phần mềm kế toán cho hộ kinh doanh và doanh nghiệp nhỏ để nâng cao kỹ năng số và thực hiện nghĩa vụ thuế thuận tiện. Nghị quyết số 68-NQ/TW đặc biệt nhấn mạnh việc coi kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng” của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực phát triển nhân lực số, Nghị quyết này cũng mở ra cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ và start-up tích cực tham gia đào tạo, huấn luyện nhân lực theo nhu cầu thị trường - chi phí đào tạo nhân lực của doanh nghiệp được tính vào chi phí được khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp; đồng thời, khuyến khích hình thức đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp và thu hút doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào quá trình đào tạo nhân lực. Khi kinh tế tư nhân trở thành “vườn ươm” cho nhân lực số, sức mạnh tổng hợp của “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp” sẽ tạo thành một tam giác phát triển bền vững; (iv) Nghị quyết số 66-NQ/TW xác lập tư duy “cải cách thể chế đi trước một bước” nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo khung pháp lý vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên số; (v) Nghị quyết số 71-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030 chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á, và đến năm 2045 nền giáo dục nước nhà có hệ thống giáo dục hiện đại, công bằng, chất lượng, thuộc nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới. Nghị quyết số 71-NQ/TW đưa ra nhiều giải pháp toàn diện và cụ thể đáp ứng nhu cầu nhân lực cho chuyển đổi số: Cam kết dành tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo, trong đó chi cho giáo dục đại học tối thiểu 3%, tạo nguồn tài chính bền vững để đầu tư hạ tầng số, phòng thí nghiệm AI, trung tâm đào tạo số; trao quyền tự chủ và cơ chế đặc thù để các trường đại học được tuyển dụng giảng viên quốc tế, bổ nhiệm chức danh cho chuyên gia nước ngoài, áp dụng mô hình đào tạo theo chuẩn mực quốc tế nhằm tạo ra đội ngũ nhân lực số trình độ cao, tinh hoa; đồng thời thúc đẩy liên thông và nâng cao hấp dẫn của giáo dục nghề nghiệp, tích hợp nội dung đào tạo kỹ năng số trong các chương trình đào tạo nghề, qua đó thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu thị trường lao động.

Trên nền tảng nghị quyết của Trung ương, các ngành, địa phương đã cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển nhân lực gắn với chiến lược phát triển ngành và vùng. Vùng Đông Bắc chú trọng công nghiệp khai khoáng, Tây Nguyên phát triển nông - lâm nghiệp công nghệ cao và du lịch sinh thái, Đồng bằng sông Cửu Long ưu tiên nhân lực nông nghiệp công nghệ cao thích ứng biến đổi khí hậu. Những mô hình ấy là minh chứng sống động cho việc lồng ghép đào tạo nhân lực vào chiến lược phát triển địa phương. Trong lĩnh vực chuyển đổi số, Chính phủ đã ban hành “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Trụ cột ấy chỉ có thể hiện thực hóa khi có lực lượng cán bộ, kỹ sư, công nhân số đông đảo và chất lượng. Không có con người làm trung tâm, chuyển đổi số sẽ chỉ dừng ở khẩu hiệu. Vì thế, Đảng đặt nhiệm vụ đào tạo nhân lực số ngang tầm với chiến lược phát triển quốc gia.

Một điểm nhấn quan trọng trong chỉ đạo của Đảng là gắn đào tạo với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Đã có thời kỳ không ít nơi xem việc cử cán bộ đi học chỉ để “lấy bằng cấp” cho đủ tiêu chuẩn bổ nhiệm, dẫn đến lãng phí thời gian và ngân sách. Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương chỉ rõ: Cán bộ được quy hoạch chức vụ nào thì phải học đúng chương trình phù hợp; hồ sơ năng lực của từng cán bộ phải được theo dõi, đánh giá, và sau mỗi khóa học đều có báo cáo vận dụng thực tiễn. Nhờ đó, đào tạo đi vào thực chất, “đúng người, đúng việc”, chấm dứt tình trạng học tràn lan nhưng không đem lại hiệu quả. Thêm vào đó, Đảng luôn chú trọng gắn nhiệm vụ đào tạo với các phong trào cách mạng và các cuộc vận động lớn. Trong những năm qua, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (theo Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh) đã được nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị cụ thể hóa bằng các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phong phú; không chỉ là khẩu hiệu mà đã trở thành động lực tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên. Sự kết hợp giữa bồi dưỡng chuyên môn và giáo dục đạo đức cách mạng đã tạo chuyển biến đồng bộ về năng lực và phẩm chất của cán bộ trong bối cảnh mới.

Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, bảo đảm mọi nỗ lực đào tạo nhân lực không bị manh mún, rời rạc. Hình ảnh “người nhạc trưởng tài ba” là ẩn dụ xác đáng cho vai trò của Đảng trong định hướng sự nghiệp đào tạo nhân lực số quốc gia: Thiếu nhạc trưởng, dàn nhạc sẽ hỗn loạn; thiếu sự lãnh đạo của Đảng, xã hội khó huy động đồng bộ các nguồn lực.

Trong hành trình tìm lời giải cho “cơn khát” nhân lực số, cả Quốc hội và Chính phủ cũng đã có những động thái quyết liệt. Quốc hội với vai trò cơ quan quyền lực cao nhất đã và đang phát huy vai trò “kiến tạo thể chế”. Quốc hội có thể ban hành nghị quyết chuyên đề về phát triển nguồn nhân lực số - coi đây là tài sản chiến lược quốc gia, nhằm bảo đảm Việt Nam không chỉ tham gia mà còn có thể dẫn dắt cuộc cách mạng kỷ nguyên số. Quốc hội cũng cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, Luật Lao động, Luật Việc làm... để có những quy định mới về bảo vệ người lao động trong môi trường số, chính sách hỗ trợ đào tạo lại (reskilling) và nâng cấp kỹ năng (upskilling) cho lực lượng lao động. Trong Nghị quyết số 16/2021/QH15 ngày 27/7/2021 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Quốc hội đã xác định chuyển đổi số là một trong ba khâu đột phá, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để Chính phủ hành động.

Về phía Chính phủ, đã xác định ba nhóm giải pháp chính trong phát triển nhân lực số: (i) Đổi mới đào tạo trong các trường đại học, viện nghiên cứu; (ii) Đẩy mạnh hợp tác công - tư trong phát triển nhân lực; (iii) Xây dựng môi trường học tập suốt đời về kỹ năng số cho toàn dân. Đặc biệt, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia yêu cầu mỗi bộ, ngành, địa phương phải có kế hoạch phát triển nhân lực số riêng. Trong giáo dục, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai thí điểm chứng chỉ kỹ năng số cơ bản và nâng cao (tương tự Khung kỹ năng số châu Âu - DigComp) để từng bước chuẩn hóa kỹ năng số cho lực lượng lao động. Ngoài ra, Chính phủ ban hành nhiều chính sách khuyến khích các tập đoàn công nghệ lớn như Viettel, VNPT, FPT tham gia đào tạo nhân lực theo nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, để các giải pháp này đi vào đời sống, Chính phủ cần có cơ chế giám sát chặt chẽ, đánh giá định kỳ, công khai minh bạch, nhằm tránh tình trạng “đề án nằm trên giấy”.

Nhờ những động lực chính sách đó, doanh nghiệp hôm nay đang trở thành những “trường học của thời đại số”. Triển lãm quốc gia 80 năm thành tựu đất nước là minh chứng rõ rệt: Không chỉ trưng bày thành tựu, mà còn là sân khấu trình diễn công nghệ. Các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam như Viettel, VNPT, FPT, THACO… đã mang đến dây chuyền hiện đại, sản phẩm AI, trải nghiệm thực tế ảo tương tác với người tham quan. Hình ảnh đó phản ánh sinh động sức mạnh của kinh tế tư nhân đúng như tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW - coi khu vực tư nhân là động lực quan trọng trong kỷ nguyên mới. Khi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, được tận mắt chứng kiến công nghệ vận hành, được trực tiếp trải nghiệm qua màn hình cảm ứng, kính thực tế ảo hay mô hình 3D, họ không chỉ thấy một thương hiệu doanh nghiệp, mà còn hình dung được tương lai nghề nghiệp của chính mình. Doanh nghiệp, nhờ vậy, đã trở thành nơi giáo dục công chúng về công nghệ, khởi nghiệp và sáng tạo. Đây chính là cơ sở thực tiễn để Nhà nước thể chế hóa mô hình “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp” trong đào tạo nhân lực; khuyến khích các tập đoàn, công ty không chỉ đào tạo nội bộ mà còn góp phần lan tỏa văn hóa số và tri thức mới cho toàn xã hội.

Các chuyên gia trong nước và quốc tế trao đổi về chuyển đổi số và phát triển bền vững tại Hội thảo “Khả năng chống chịu, phát triển bền vững và chuyển đổi số trong thế giới biến động: Góc nhìn từ Đông Nam Á”, TP. Hồ Chí Minh, tháng 6/2025 - Nguồn ảnh: Báo Nhân Dân điện tử.
Các chuyên gia trong nước và quốc tế trao đổi về chuyển đổi số và phát triển bền vững tại Hội thảo “Khả năng chống chịu, phát triển bền vững và chuyển đổi số trong thế giới biến động: Góc nhìn từ Đông Nam Á”, TP. Hồ Chí Minh, tháng 6/2025 (Nguồn ảnh: Báo Nhân Dân điện tử)

Mô hình tổ chức Đảng tiêu biểu - Điểm sáng trong thực tiễn đào tạo

Không chỉ ở tầm vĩ mô, sự lãnh đạo của Đảng được cụ thể hóa qua nhiều mô hình tổ chức Đảng tiêu biểu ngay trong doanh nghiệp, trường học. Đảng trong các tập đoàn, tổng công ty, trường đại học, doanh nghiệp đã trở thành “điểm sáng” trong thực tiễn đào tạo nhân lực số, khẳng định vai trò hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực không chỉ thể hiện ở tầm vĩ mô mà còn được cụ thể hóa qua những mô hình tổ chức Đảng năng động, sáng tạo, gắn nhiệm vụ xây dựng Đảng với nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực của đơn vị. Một số mô hình tiêu biểu có thể kể đến là: Đảng bộ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đảng bộ Tập đoàn Viettel, Đảng bộ Tập đoàn FPT, Đảng bộ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank)… đang tiên phong triển khai các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực số như: Đẩy mạnh hội nhập quốc tế để “bứt phá” chất lượng đào tạo; mở rộng các chương trình liên kết đào tạo song bằng với đại học hàng đầu thế giới; triển khai chương trình thực tập sinh toàn cầu tại các doanh nghiệp công nghệ quốc tế; mời chuyên gia kiều bào và chuyên gia quốc tế tham gia giảng dạy theo cơ chế hợp đồng linh hoạt; lập mạng lưới chuyên gia người Việt toàn cầu cố vấn chương trình đào tạo; công nhận các chuẩn kỹ năng số quốc tế để người học có thể vươn ra thế giới - rồi quay về phục vụ, dẫn dắt sự phát triển trong nước... Mỗi mô hình tổ chức Đảng tiêu biểu chính là một “cánh chim đầu đàn”, đóng góp kinh nghiệm quý cho cả hệ thống.

Đối với Đảng bộ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, không chỉ là nơi trung tâm đào tạo lý luận chính trị cao cấp, mà còn được xem như cái nôi rèn luyện cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cho Đảng và Nhà nước. Mỗi năm, Học viện tổ chức hàng trăm khóa bồi dưỡng chính trị, quản lý nhà nước, kinh tế cho hàng nghìn cán bộ trung, cao cấp. Đảng ủy Học viện chủ động đổi mới chương trình, bổ sung chuyên đề về chính phủ số, kinh tế số, quản trị công nghệ và lãnh đạo sáng tạo trong kỷ nguyên số. Học viện cũng tăng cường hợp tác với các địa phương, doanh nghiệp và đối tác quốc tế như cử giảng viên, nghiên cứu viên đi thực tế cơ sở; gửi học viên đi học ở các nước công nghệ phát triển. Nhờ đó, hàng nghìn cán bộ được trang bị kiến thức chính trị lẫn kỹ năng công nghệ, vững vàng trong tư tưởng và thành thạo kỹ thuật số.

Đảng bộ Tập đoàn FPT cũng là một mô hình tiêu biểu đáng chú ý. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, FPT đã xây dựng Đại học FPT và hệ thống Cao đẳng thực hành FPT Polytechnic, đồng thời chỉ đạo các công ty thành viên phát triển thành “doanh nghiệp đại học”, tức là doanh nghiệp gắn kết chặt chẽ với hoạt động đào tạo; đưa sinh viên trở thành nguồn nhân lực vừa có tri thức tiên tiến, vừa thấm nhuần tinh thần doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu thị trường. Sinh viên FPT theo học chương trình chuẩn quốc tế, được thực tập và thực hành trực tiếp tại các doanh nghiệp thành viên và đối tác công nghệ. Với khẩu hiệu “Go Global”, Đại học FPT hợp tác với nhiều trường đại học và doanh nghiệp ở Nhật Bản, châu Âu, Hoa Kỳ để trao đổi giảng viên, sinh viên và cập nhật công nghệ. Kết quả là hơn 90% sinh viên tốt nghiệp FPT có việc làm trong 12 tháng, phần lớn ở vị trí chuyên môn cao và các công ty công nghệ toàn cầu, góp phần khẳng định FPT là “cỗ máy đào tạo” nhân lực số hàng đầu.

Tập đoàn FPT đầu tư phát triển hơn 200 sản phẩm, dịch vụ và giải pháp số, góp phần đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số quốc gia - Nguồn ảnh: FPT Digital Report 2025
Tập đoàn FPT đầu tư phát triển hơn 200 sản phẩm, dịch vụ và giải pháp số, góp phần đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số quốc gia (Nguồn ảnh: FPT Digital Report 2025)

Đảng bộ Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) là điển hình cho mô hình gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng tổ chức Đảng và chiến lược phát triển nhân lực. Với quan điểm “mỗi nhân viên là một học viên, mỗi lãnh đạo là một giảng viên”, Viettel đã thành lập Học viện Viettel và xây dựng một nền văn hóa học tập suốt đời trong toàn tập đoàn. Mỗi năm, Viettel Academy tổ chức hàng nghìn khóa huấn luyện, đào tạo cho cán bộ quản lý và kỹ sư công nghệ. Đảng ủy Viettel định hướng rõ: Đào tạo nhân lực phải gắn liền với chiến lược “Make in Vietnam” - làm chủ các công nghệ lõi và phát triển sản phẩm ngay trên đất Việt. Mô hình học tập suốt đời ở Viettel đã tạo bước đột phá: Đội ngũ nhân viên được trang bị kỹ năng số đồng đều, sẵn sàng thích ứng với nhiệm vụ mới; cán bộ lãnh đạo không ngừng tự cập nhật kiến thức để giảng dạy cho cấp dưới, qua đó nâng cao chính trình độ của mình. Chính tinh thần học tập ấy đã góp phần quan trọng giúp Viettel phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực viễn thông - công nghệ số, trở thành một trong những tập đoàn công nghệ hàng đầu khu vực và cạnh tranh quốc tế.

Đảng ủy VietinBank là điểm sáng trong khối doanh nghiệp ngân hàng về chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực số. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, VietinBank triển khai nhiều chương trình đào tạo phục vụ chiến lược chuyển đổi số toàn diện, nổi bật là áp dụng thành công mô hình quản trị dự án Agile ở quy mô lớn (tại “Nhà máy số” - Digital Factory), giúp rút ngắn chu kỳ phát triển sản phẩm, và tăng năng suất lao động khoảng 20 - 30%. Ngân hàng tập trung huấn luyện kỹ năng về dữ liệu: Trong năm 2024, có khoảng 24.000 lượt cán bộ học nâng cao Excel, Power BI, Data Storytelling, trang bị kỹ năng phân tích dữ liệu theo chuẩn quốc tế cho toàn hệ thống. Năm 2025, chương trình “Hành trang số” thu hút hơn 2,6 triệu lượt cán bộ tham gia học tập kỹ năng số cơ bản. VietinBank còn tiên phong áp dụng AI: 100% chi nhánh được khuyến khích sử dụng ChatGPT, Perplexity, và đặc biệt công cụ AI nội bộ “VietinBank Genie” (Được triển khai từ cuối tháng 3/2025, Genie hiện đang xử lý 15.000 - 17.000 câu hỏi mỗi ngày, trả lời trong vài giây các vấn đề nghiệp vụ và hỗ trợ lên kế hoạch kinh doanh cho nhân viên). Song song đó, ngân hàng tổ chức định kỳ các khóa huấn luyện an toàn thông tin cho 100% nhân viên. Mô hình đào tạo linh hoạt của VietinBank (e-learning, webinar, micro-learning) cùng các hướng dẫn sử dụng AI cụ thể đã giúp nâng cao nhanh chóng năng lực số, đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, cải thiện chất lượng dịch vụ và trải nghiệm khách hàng.

Ông Trần Công Quỳnh Lân - Phó Tổng Giám đốc VietinBank giới thiệu với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cùng các đại biểu về hoạt động chuyển đổi số tại gian hàng của VietinBank trong sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng tháng 5/2025
Ông Trần Công Quỳnh Lân - Phó Tổng Giám đốc VietinBank giới thiệu với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cùng các đại biểu về hoạt động chuyển đổi số của VietinBank trong sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng tháng 5/2025

Đảng bộ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được đánh giá là một trong những doanh nghiệp nhà nước tiên phong trong tiến trình chuyển đổi số, tạo bước đột phá trong sản xuất - kinh doanh và quản trị doanh nghiệp. EVN khởi đầu bằng việc thay đổi tư duy: Nâng cao nhận thức và đào tạo kỹ năng số cho mọi cán bộ công nhân viên. EVN số hóa toàn bộ quy trình nội bộ - 100% đơn vị thành viên sử dụng Digital Office và văn bản điện tử với chữ ký số, kết nối với hệ thống liên thông quốc gia. Trong đầu tư xây dựng, EVN áp dụng nhật ký công trình điện tử, nghiệm thu trực tuyến và ứng dụng UAV, BIM, AI để giám sát dự án, được Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) đánh giá cao. Trong sản xuất điện, EVN cập nhật 97,3% dữ liệu thiết bị (110 - 500 kV), triển khai bảo dưỡng dựa trên độ tin cậy (RCM/CBM); thử nghiệm thành công AI nhận diện 20 loại thiết bị trên đường dây để phát hiện sớm hư hỏng. Ngoài ra, EVN phát triển hạ tầng số EVN Connect - hệ sinh thái kết nối các dịch vụ điện với cổng dịch vụ công quốc gia, cơ sở dữ liệu dân cư, cơ quan thuế và hệ thống thanh toán điện tử. Nhờ đó, 100% dịch vụ điện của EVN được cung cấp trực tuyến và minh bạch. EVN còn mở rộng hạ tầng dữ liệu dùng chung (13 cơ sở dữ liệu, 86 tập dữ liệu mở), triển khai blockchain truy xuất nguồn gốc điện. Với 16 năm làm chủ công nghệ số, EVN khẳng định vị thế “đầu tàu” của các tập đoàn nhà nước trong xây dựng kinh tế số và xã hội số, minh chứng rằng doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn có thể tiên phong, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, gắn lợi ích doanh nghiệp với lợi ích quốc gia.

Đảng bộ Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) khẳng định vai trò nòng cốt trong triển khai cơ sở hạ tầng số quốc gia. VNPT đã hoàn thành Hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong 5 tháng (từ tháng 9/2020 đến tháng 02/2021), phối hợp Bộ Công an đào tạo 23.000 cán bộ và triển khai vào tháng 7/2021. Dữ liệu này trở thành “xương sống” cho nhiều ứng dụng số quốc gia. VNPT còn triển khai hàng loạt nền tảng quan trọng: Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Trục liên thông văn bản điện tử, Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm điều hành thông minh (IOC). Các tỉnh, thành trên cả nước đã vận hành VNPT IOC, biến đó thành “bộ não số” hỗ trợ lãnh đạo địa phương ra quyết định nhanh chóng, minh bạch, hiệu quả. VNPT cũng phát triển dịch vụ công nghệ số cho người dân như y tế số, giáo dục số, thanh toán không tiền mặt qua Mobile Money. Những kết quả này không chỉ đem lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp mà còn giúp Việt Nam tiến gần mục tiêu nằm trong Top đầu khu vực ASEAN về chính phủ số. VNPT là mẫu hình điển hình cho hợp tác chiến lược Nhà nước - doanh nghiệp trong kiến tạo hạ tầng số quốc gia, khi chứng minh doanh nghiệp nhà nước có thể đảm nhận vai trò tiên phong, dẫn dắt chuyển đổi số và tạo trụ cột vững chắc cho Chính phủ số, xã hội số.

Những mô hình tiêu biểu trên khẳng định một chân lý: Khi tổ chức Đảng tại doanh nghiệp, trường học phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo, đào tạo nhân lực không chỉ cho ra con số bằng cấp, chứng chỉ mà thực sự trở thành động lực phát triển của đơn vị, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh tinh thần này: “Phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp, trong các cơ sở giáo dục, để thật sự trở thành trung tâm đoàn kết và phát triển”. Tại nhiều doanh nghiệp, Đảng ủy đã chỉ đạo tạo nên “vòng đời nhân sự” khép kín: Chiêu mộ và đào tạo cán bộ theo nhu cầu thực tiễn, bố trí người theo sở trường; đãi ngộ cạnh tranh (thu nhập, nhà ở, môi trường sáng tạo); thăng tiến minh bạch; trọng dụng nhân tài gắn với trao thêm trọng trách và không gian sáng tạo. Khi “vòng đời nhân sự” vận hành trôi chảy, bài toán chảy máu chất xám sẽ được giải quyết bằng chính sách trọng dụng nhân tài, và nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ gắn bó, cống hiến lâu dài cho đất nước.

Nhiều địa phương tiêu biểu trong đẩy mạnh chuyển đổi số

Chuyển đổi số chỉ thành công và bền vững khi chủ trương của Đảng được triển khai bằng mô hình thực tiễn tại nhiều địa phương từ cấp cơ sở, với sự đồng thuận và phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp và người dân. Ở nhiều tỉnh, thành phố, phương châm “lấy người dân làm trung tâm” đã được hóa thành những sáng kiến cụ thể, có chỉ tiêu rõ ràng và tác động xã hội sâu rộng.

Tỉnh Quảng Ngãi coi phát triển nguồn nhân lực là đột phá chiến lược gắn với bảo tồn văn hóa các dân tộc. Tỉnh đã triển khai đồng bộ nhiều chính sách, trong đó tích cực hỗ trợ học nghề cho học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số và tuyển dụng cán bộ người dân tộc vào hệ thống chính quyền địa phương. Ví dụ, Khu kinh tế Dung Quất đã giải quyết việc làm cho hơn 76.000 lao động tính tới năm 2025 trong giai đoạn 2010 - 2024; hỗ trợ học nghề cho trên 17.000 học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số; tuyển dụng 90 cán bộ người dân tộc vào hệ thống chính quyền địa phương… Tỉnh cũng chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt, kết hợp đào tạo nghề với bồi dưỡng chính trị, tư tưởng để đảm bảo tỉ lệ cán bộ dân tộc ở các cấp. Trong văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030, Quảng Ngãi tiếp tục xác định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (đặc biệt cán bộ chủ chốt các cấp) là nhiệm vụ đột phá, hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất vững vàng, năng lực cao và tư duy đổi mới. Đồng thời, tỉnh duy trì các chính sách hỗ trợ học tập, đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng cho người dân tộc, coi đó là nền tảng để phát triển bền vững. Chiến lược này giúp Quảng Ngãi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đồng thời bảo tồn bản sắc văn hóa, giữ vững ổn định xã hội địa phương.

Ở Ninh Bình, mô hình “giảm nghèo thông tin” được tích hợp trong chương trình chuyển đổi số. Địa phương sử dụng các kênh thông tin cơ sở (đài phát thanh, video) để phổ biến chủ trương, chính sách và giới thiệu các mô hình giảm nghèo bền vững, giúp người dân nông thôn tiếp cận công nghệ mới. Nhiều trường học của tỉnh tiên phong ứng dụng số hóa trong dạy và học. Ví dụ, Trường Tiểu học Liễu Đề triển khai bài giảng điện tử, học bạ điện tử và thư viện trực tuyến; nhà trường phối hợp với VNPT tập huấn giáo viên, thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số. Sau một năm, giáo viên, phụ huynh và học sinh đều ủng hộ mạnh mẽ chuyển đổi số, các lớp học trở nên sinh động, hiệu quả dạy và học được cải thiện rõ rệt. Ở cấp xã, Ninh Bình thành lập “tổ công nghệ số cộng đồng” tại các thôn, bản. Hơn 80% người dân nông thôn đã được đào tạo kỹ năng số cơ bản; các tổ công nghệ số giúp người dân cài đặt ví điện tử và làm các thủ tục hành chính trực tuyến, hướng đến mục tiêu mỗi xã thành “trung tâm trợ giúp công nghệ số” cho người dân. Kết quả là khoảng 70% lao động xã Nghĩa Sơn có tài khoản ngân hàng và thanh toán trực tuyến hóa đơn. Những ví dụ trên cho thấy, chuyển đổi số ở Ninh Bình không chỉ là một công cụ kỹ thuật mà còn là đòn bẩy nâng cao chất lượng giáo dục và cải thiện kinh tế nông thôn.

Đồng Nai, tỉnh công nghiệp chủ lực của miền Đông Nam Bộ, cũng xác định nguồn nhân lực chất lượng cao là then chốt để chuyển đổi số thành công. Tỉnh chủ động liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Đặc biệt, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được mời tham gia tư vấn và đào tạo nhân lực về công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, với mong muốn cung cấp nhân lực số chất lượng cao cho Đồng Nai và giúp tỉnh thu hút đầu tư nước ngoài. Các cơ sở đào tạo trong tỉnh phối hợp với các doanh nghiệp điều chỉnh chương trình, áp dụng AI vào đào tạo các ngành như kinh doanh điện tử, tự động hóa, điện tử - cơ khí để sinh viên sớm tiếp cận công nghệ mới. Đồng thời, tỉnh đầu tư trực tiếp vào đào tạo công nghệ lõi: Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp Viện Phát triển năng lực lãnh đạo (VNUHCM) mở các khóa đào tạo thiết kế vi mạch và công nghệ bán dẫn cho giảng viên và nghiên cứu viên, với sự hợp tác của các viện công nghệ hàng đầu trong và ngoài nước. Đồng Nai đặt mục tiêu dài hạn: Xây dựng nguồn nhân lực ưu tú về vi mạch, AI, tự động hóa để hướng tới trở thành “tỉnh công nghiệp công nghệ số bền vững” vào năm 2030. Chiến lược này cho thấy Đồng Nai ưu tiên đầu tư vào công nghệ lõi và phát triển nhân tài từ gốc rễ, là nền tảng cho vị thế đi đầu trong kỷ nguyên số của tỉnh.

Tây Ninh cũng nhận thức rõ nhân lực số là yếu tố quyết định chuyển đổi số toàn diện. Tỉnh đã bố trí cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin ở mọi cấp: 100% xã, phường có cán bộ công nghệ thông tin phụ trách chuyển đổi số, và 87% sở, ngành ở cấp tỉnh có bộ phận này. Các cán bộ chuyên trách đó là “cầu nối số” giúp người dân tiếp cận dịch vụ công trực tuyến. Đồng thời, Tây Ninh củng cố mạng lưới 883 “tổ công nghệ số cộng đồng”, với tổng cộng hơn 4.500 thành viên, đi tới từng hộ dân hướng dẫn sử dụng các ứng dụng công nghệ mới. Tây Ninh đã đào tạo khoảng 1.000 cán bộ xã và hướng dẫn hơn 12.000 tài khoản sử dụng phần mềm quản lý công việc chung của tỉnh. Những nỗ lực này lan tỏa kỹ năng số rộng khắp trong chính quyền và cộng đồng. Sắp tới, Tây Ninh đặt mục tiêu nâng cao nhận thức số cho toàn dân, phổ cập kỹ năng số cơ bản và đảm bảo an toàn thông tin, nhằm củng cố niềm tin của người dân trong chuyển đổi số bền vững.

Thời gian qua, tỉnh Cà Mau đã khẳng định quyết tâm cao trong xây dựng hạ tầng và phát triển nhân lực số. Toàn tỉnh đầu tư trung tâm dữ liệu 135 TB và hệ thống dự phòng an ninh mạng; phủ sóng cáp quang và 4G đến 100% xã, phường; 100% cơ quan nhà nước trang bị máy tính cho cán bộ. Trên nền tảng đó, Cà Mau triển khai 13 cơ sở dữ liệu dùng chung, 86 tập dữ liệu mở và 69 nền tảng số, phát triển 3 ứng dụng AI, áp dụng blockchain truy xuất nguồn gốc nông sản với hơn 70.000 tem điện tử. Về nhân lực, Cà Mau hiện có 67 cán bộ công nghệ thông tin chuyên trách (trong đó có 3 tiến sĩ, 4 thạc sĩ); gần 1.000 cán bộ, công chức được đào tạo kỹ năng số và an toàn thông tin. Đặc biệt, với 883 tổ công nghệ số cộng đồng (4.529 thành viên) “đi từng ngõ, gõ từng nhà” hướng dẫn cài đặt ứng dụng số, đến nay khoảng 65% hộ gia đình (210.000 hộ) đã được hỗ trợ lập tài khoản số hóa, và 78% người dân đã được cấp căn cước công dân gắn chip. Chuyển đổi số ở Cà Mau đã mang lại hiệu quả thiết thực: Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh báo cáo 100% hồ sơ trực tuyến được giải quyết đúng hạn; doanh nghiệp tuyển dụng, phỏng vấn từ xa tiết kiệm chi phí. Người dân đánh giá chuyển đổi số giúp họ tiếp cận công vụ và thông tin nhanh chóng, nâng cao chất lượng đời sống. Thành tựu của Cà Mau chứng minh rằng khi hạ tầng được nâng cấp, nguồn nhân lực được bồi đắp và cộng đồng đồng lòng, tỉnh có thể tiên phong thực hiện chuyển đổi số, trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững.

Tại Thủ đô Hà Nội, thủ phủ kinh tế đóng góp gần 50% GDP nhưng có 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), chuyển đổi số không chỉ là cơ hội mà là yêu cầu sống còn. Tuy nhiên, nhiều SME của Hà Nội đang gặp rào cản như thiếu vốn đầu tư công nghệ, hạ tầng số thiếu đồng bộ, nhân lực phần lớn là lao động phổ thông chưa qua đào tạo bài bản. Nhận diện thực trạng này, Hà Nội ban hành Đề án hỗ trợ SME giai đoạn 2025 - 2030 với các giải pháp thiết thực. Đáng chú ý, Hà Nội hỗ trợ 18.000 doanh nghiệp mới thành lập sử dụng dịch vụ chữ ký số điện tử miễn phí năm đầu; tổ chức khóa đào tạo khởi nghiệp cho 2.000 học viên và đào tạo kỹ năng quản trị công nghệ cho 300 CEO trẻ; triển khai huấn luyện tại chỗ cho 50 đơn vị sản xuất, chế biến. Hà Nội còn chọn 10 doanh nghiệp chế biến lớn để tư vấn chuyên sâu xây dựng lộ trình chuyển đổi số gắn với sản phẩm, thương hiệu. Những biện pháp thiết thực này cho thấy Hà Nội không chỉ khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng công nghệ, mà còn hỗ trợ “cầm tay chỉ việc” để SME nhanh chóng thích ứng, mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh tại “trái tim” kinh tế Thủ đô.

Vùng cao Điện Biên cũng ghi dấu ấn đậm nét trong chuyển đổi số. Tỉnh đã rà soát, cắt giảm gần 400 thủ tục hành chính; triển khai hơn 4.400 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; thu hút hơn 7,7 triệu tài khoản người dùng (gấp gần 4 lần cùng kỳ năm 2022). Đặc biệt, Công an tỉnh Điện Biên hoàn thành 100% cấp căn cước công dân trước 64 ngày so với kế hoạch, đạt trên 91% giải quyết hồ sơ hành chính trực tuyến. Nhờ vậy, tỉnh tiết kiệm khoảng 2.500 tỉ đồng mỗi năm và thể hiện mạnh mẽ tinh thần “lấy người dân làm trung tâm”. Thành công ở Điện Biên nhắc nhở rằng chuyển đổi số chỉ thành công khi chính quyền, công an và người dân phối hợp đồng bộ. Địa phương đã hoàn thành 23/25 dịch vụ công thiết yếu và xử lý hàng trăm nghìn hồ sơ trực tuyến, tạo nền móng cho các tỉnh khác học tập. Rút kinh nghiệm từ Điện Biên, các địa phương cần tiếp tục đầu tư hạ tầng, nâng cao kỹ năng số cho cán bộ và người dân, đồng thời xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá chặt chẽ để dự án chuyển đổi số không chỉ nằm trên giấy.

Tại Quảng Ninh, phát triển nhân lực được xác định là đột phá ngang hàng với cải cách thể chế và đầu tư hạ tầng. Chiến lược nhân lực của tỉnh bao gồm nhiều giải pháp toàn diện. Tiêu biểu là đầu tư an sinh cho người lao động: Dự án Khu nhà ở công nhân và chuyên gia Khu công nghiệp Đông Mai (9,12 ha, gồm 1.000 căn hộ) đã cung cấp chỗ ở cho 5.500 công nhân và chuyên gia. Ông Park Hyo Gyun - Tổng Giám đốc Công ty Bumjin Vina, đánh giá: “Không chỉ công nhân, ngay cả chuyên gia nước ngoài cũng có thể an cư tại đây, điều này quan trọng cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp”. Đồng thời, Quảng Ninh cải tổ hệ thống đào tạo nghề: Sáp nhập Trường Cao đẳng Giao thông Quảng Ninh vào Trường Cao đẳng Việt - Hàn, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giảng dạy. Tỉnh đầu tư 495 tỉ đồng nâng cấp cơ sở vật chất Trường Cao đẳng Việt - Hàn giai đoạn 2021 - 2025 để trở thành cơ sở đào tạo chất lượng cao đa ngành. Quảng Ninh cũng đẩy mạnh hợp tác quốc tế: Trường Đại học Hạ Long mời ông Tsutomu Takebe - Cố vấn cấp cao Liên minh Hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản về làm cố vấn. Ông Takebe nhấn mạnh: “Sinh viên có thể học 3 năm ở Việt Nam, một năm thực tập tại Nhật Bản; khi ra trường sẽ có cả ngoại ngữ và kỹ năng thực tế, sẵn sàng làm việc ngay”. Tỉnh cũng cụ thể hóa chiến lược bằng chỉ tiêu định lượng cho năm 2025: 5.800 nhân lực vận tải - kho bãi, 7.500 nhân lực du lịch, 5.000 nhân lực công nghệ thông tin, 4.000 nhân lực khoa học - công nghệ, và phấn đấu đạt 595 sinh viên đại học, cao đẳng trên 10.000 dân. Những chỉ tiêu này thể hiện tầm nhìn khả thi, gắn kết đào tạo với lĩnh vực mũi nhọn của tỉnh. Nhờ chiến lược nhất quán, Quảng Ninh khẳng định vị thế dẫn đầu về nhân lực chất lượng cao, tạo nền tảng cho tăng tốc kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Kinh nghiệm của Quảng Ninh là bài học quý giá cho nhiều địa phương khác học hỏi mô hình phát triển nguồn nhân lực tinh hoa.

Giám sát và đánh giá - Bảo đảm chất lượng, chống hình thức

Một trong những thách thức lớn hiện nay là tình trạng “đào tạo hình thức” - bệnh thành tích trong đào tạo. Ở nhiều nơi, hàng loạt lớp bồi dưỡng, chứng chỉ được mở ra nhưng học viên học xong không vận dụng được vào công việc. Có nơi đào tạo tràn lan, không gắn với nhu cầu thực tiễn, dẫn đến mất cân đối: Thừa cử nhân kinh tế nhưng thiếu kỹ sư AI và chuyên gia an ninh mạng. Để khắc phục tình trạng này, Đảng ta đã đặt trọng tâm vào khâu giám sát và kiểm tra. Nhiệm vụ đầu tiên của giám sát là đảm bảo đào tạo phải thực chất, gắn với nhu cầu cụ thể của đơn vị, tránh chạy theo số lượng và bằng cấp.

Các Ban Đảng và Ủy ban Kiểm tra từ Trung ương đến địa phương đã tổ chức nhiều đoàn kiểm tra chuyên đề công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Công tác này cũng giống như một "dàn nhạc", ngoài "nhạc trưởng" vẫn cần người "giữ nhịp" và "chỉnh tông", để các "nhạc công" chơi đúng "cao độ" và "nhịp điệu". Mục đích của giám sát không phải để “bắt lỗi”, mà để bảo đảm mọi hoạt động đào tạo thống nhất, minh bạch và hiệu quả. Nếu thiếu giám sát, đào tạo rất dễ trở nên hình thức, lãng phí nguồn lực, giảm chất lượng và sức cạnh tranh của toàn hệ thống.

Trước hết, giám sát được thực hiện từ giai đoạn xây dựng kế hoạch đào tạo. Các cấp ủy phải thẩm định chặt chẽ đề án đào tạo của cơ quan, đơn vị, đảm bảo tính thiết thực và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Trong quá trình triển khai, cần theo dõi sát nội dung và tiến độ, yêu cầu cán bộ được cử đi học thường xuyên báo cáo kết quả học tập, và công khai kết quả học tập trong tổ chức. Đối với các khóa học dài hạn như cao cấp lý luận chính trị, thạc sĩ, tiến sĩ, cơ quan cử người phải tổ chức kiểm tra định kỳ việc học, đánh giá đề tài, luận văn. Ở cấp nhà nước, cần phát huy vai trò thanh tra, kiểm tra sử dụng ngân sách đào tạo, ngăn ngừa thất thoát và những biểu hiện tiêu cực như chạy đua bằng cấp.

Ban Tổ chức Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương cũng yêu cầu các địa phương, bộ, ngành rà soát và thanh tra công tác đào tạo cán bộ. Trong các tập đoàn, tổng công ty, Đảng ủy phân công nhiệm vụ cho từng chi bộ theo dõi, đánh giá hiệu quả sau đào tạo: Tỉ lệ cán bộ được luân chuyển, bổ nhiệm sau khóa học; số kỹ sư hoặc cán bộ lên nắm giữ vị trí mới sau đào tạo; số sáng kiến, đề xuất cải tiến khởi nguồn từ kiến thức đã học… Tất cả phải được định lượng và báo cáo định kỳ. Đảng yêu cầu nhất quán nguyên tắc đánh giá cán bộ bằng sản phẩm, hiệu quả cụ thể, không phải bằng cấp, chứng chỉ hình thức - đúng tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Do đó, đào tạo phải gắn với sử dụng; lấy hiệu quả công việc làm thước đo cuối cùng.

Nhiều địa phương đã xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đào tạo rất cụ thể. Trước đây, hiệu quả đào tạo chỉ đo bằng số lớp, số lượt người học; nay phải đánh giá qua năng lực thực thi và kết quả công việc sau đào tạo. Nhờ cách tiếp cận này, công tác đào tạo tránh được bệnh chạy theo thành tích hình thức, thực sự trở thành động lực nâng cao chất lượng đội ngũ. Quan trọng nhất, đánh giá sau đào tạo phải gắn chặt với nhiệm vụ, vị trí công tác của mỗi người học. Chỉ khi học viên vận dụng được kiến thức vào thực tiễn, nâng cao năng suất và hiệu quả công việc, thì khóa đào tạo mới được coi là thành công. Một số địa phương áp dụng “thi trước bổ nhiệm”: Cán bộ quy hoạch chức danh lãnh đạo phải trải qua kỳ thi sát hạch về chuyên môn và kết quả học tập, nếu đạt mới được bổ nhiệm. Một số bộ, ngành xây dựng hệ KPI đánh giá hiệu quả đào tạo, tỉ lệ cán bộ áp dụng được kỹ năng mới vào công việc, số sáng kiến cải tiến xuất phát từ kiến thức đã học, mức tăng năng suất lao động tại cơ quan, mức độ hài lòng của người dân với dịch vụ công do cán bộ đó quản lý…

Quá trình giám sát cho thấy vai trò quan trọng của tổ chức Đảng cơ sở. Các chi bộ cần thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên đề về đào tạo, bồi dưỡng; mỗi đảng viên phải báo cáo với chi bộ về quá trình học tập và tự rèn luyện của mình. Ủy ban Kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra đảng viên chấp hành chế độ học tập, nếu phát hiện trường hợp đi học đối phó, thiếu tinh thần nghiêm túc, hoặc học xong không áp dụng vào công việc, phải kịp thời chấn chỉnh. Tại các cơ quan nhà nước, cần phát huy vai trò thanh tra, kiểm tra công vụ giám sát việc sử dụng ngân sách đào tạo, ngăn chặn thất thoát và xử lý nghiêm các tiêu cực.

Nếu thể chế là khung xương, công nghệ là công cụ, thì con người - nhân lực số - chính là linh hồn của thời đại mới. Bằng bản lĩnh và trí tuệ, Đảng đang cất lên "bản nhạc" phát triển mang âm hưởng Việt Nam trong kỷ nguyên số. Từ việc xem đào tạo là khâu đột phá chiến lược gắn với quy hoạch phát triển của từng ngành, địa phương; từ xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực; từ tăng cường giám sát, kiểm tra, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục tư tưởng, đạo đức và đào tạo chuyên môn - tất cả đã tạo nên cơ chế đồng bộ, chuẩn bị lực lượng nhân lực hùng hậu cho khát vọng phát triển của dân tộc. Người "nhạc trưởng" không chỉ giữ nhịp cho "dàn nhạc" mà còn định hình cả "giai điệu". Khi Đảng định hướng tư tưởng, thiết kế thể chế, kích hoạt nguồn lực và ràng buộc trách nhiệm giải trình, “dàn nhạc” nhân lực số Việt Nam sẽ “vào phách - lên khuôn - bùng nổ cao trào”, đưa khát vọng năm 2045 từ trang bản thảo thành bản hùng ca phát triển của dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân. Trích dẫn nội dung chính sách hỗ trợ khu vực tư nhân

4. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

5. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

6. Ban Tổ chức Trung ương (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW về công tác cán bộ. Tinh thần đánh giá cán bộ dựa trên sản phẩm, hiệu quả cụ thể, không dựa vào bằng cấp hình thức.

7. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến 2025, tầm nhìn 2030.

8. Tập đoàn FPT, Báo cáo thành tích đào tạo sinh viên Đại học FPT năm 2024.

9. Tập đoàn Viettel, Quy định về đào tạo nhân lực số.

10. Ngân hàng VietinBank, Báo cáo chuyển đổi số 2025.

11. Thông tấn xã Việt Nam (2025), “Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị”, Nhân Dân điện tử, 16/9/2025.

12. Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025), Báo cáo đề xuất xây dựng chuẩn kỹ năng số quốc gia.

13. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

Lê Thị Hoàng Anh
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

Tin bài khác

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân là kim chỉ nam giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chỉ hội nhập thành công với thế giới mà còn giữ vững được bản sắc dân tộc, bảo đảm sự ổn định và phát triển lâu dài cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô