
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá
Kỳ I: Con người - Chìa khóa vươn mình trong kỷ nguyên mới
Những tiến bộ vượt bậc của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (Blockchain), Internet vạn vật (IoT) và điện toán đám mây (Cloud Computing)… đang thay đổi căn bản phương thức sản xuất, mô hình quản trị và kết cấu xã hội. Việt Nam vì vậy cần một tầm nhìn mới và khát vọng phát triển mãnh liệt hơn bao giờ hết để không bị tụt hậu.
“Khát vọng vươn mình” của dân tộc trong kỷ nguyên số giống như một đoàn tàu đang tăng tốc hướng về tương lai, trong đó con người chính là đầu tàu kéo đoàn tàu ấy bứt phá về phía trước. Người Việt Nam - với trí tuệ, tinh thần dân tộc và khát vọng đổi mới - chính là nhân tố quyết định thành bại của công cuộc chuyển đổi số. Thực trạng thiếu hụt cả về số lượng lẫn chất lượng nhân lực công nghệ cao, tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp… đặt ra lời cảnh tỉnh cấp bách: Để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới, chúng ta phải giải được bài toán nhân lực. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra những định hướng chiến lược quan trọng về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị là tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách này qua chương trình cụ thể, kết nối chặt chẽ nhà trường - doanh nghiệp - chính quyền, đồng thời khơi dậy tinh thần học tập suốt đời trong mỗi người dân.
“Khát” nguồn nhân lực số không chỉ là lời kêu gọi khẩn thiết mà còn là nhiệm vụ chiến lược lâu dài mang tính sống còn. Đầu tư cho con người chính là đầu tư cho tương lai; nhân lực chất lượng cao chính là lực đẩy, là động lực và nền tảng để Việt Nam bứt phá, thực hiện thành công khát vọng trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Kỷ nguyên vươn mình và khát vọng của Việt Nam
Sau gần bốn mươi năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào: Kinh tế tăng trưởng cao, chính trị - xã hội ổn định và đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, phía trước là một chặng đường phát triển mới với những khát vọng lớn lao. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra mục tiêu: Đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển với công nghiệp hiện đại và mức thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Mục tiêu trên được đặt trong giai đoạn đất nước bước vào “kỷ nguyên vươn mình” - giai đoạn vừa chứa đựng cơ hội bứt phá, vừa đòi hỏi phải vượt qua thách thức khốc liệt từ cạnh tranh số toàn cầu. Thực hiện khát vọng ấy đòi hỏi chúng ta không chỉ đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, mà còn phải chủ động hội nhập và trở thành quốc gia tiên phong trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tri thức. Và tiên quyết, phải chuyển đổi số thành công, mà nguồn nhân lực số chính là yếu tố nội sinh cốt lõi quyết định thắng lợi của quá trình này.
![]() |
Sinh viên Việt Nam trải nghiệm học tập trong môi trường kỹ thuật số hiện đại, ứng dụng Metaverse - biểu tượng cho khát vọng đổi mới và tinh thần học tập suốt đời trong kỷ nguyên số (Nguồn ảnh: Website Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh -UEH) |
Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các văn bản, nghị quyết, chiến lược, đề án… khởi tạo hành lang pháp lý thúc đẩy tiến trình này và phát triển nhân lực số. Quốc hội với vai trò “người vạch đường” cho sự phát triển của đất nước đã cụ thể hóa định hướng ấy bằng hàng loạt nghị quyết và sửa đổi các văn bản luật. Đáng chú ý, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ chuyển đổi số là một trong ba trụ cột trọng tâm của công cuộc đổi mới.
Tiếp đến, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, để xây dựng nền công nghiệp quốc gia hiện đại. Đảng xác định nhiệm vụ tiên quyết và xuyên suốt là coi nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thắng lợi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số.
Gần đây, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Giao dịch điện tử, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, thay thế Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11, góp phần mở rộng khung pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên nền tảng số. Như vậy, trong hành trình “khát vọng vươn mình”, Quốc hội chính là nơi khơi dậy ý chí và cụ thể hóa tầm nhìn thành luật pháp, biến đòi hỏi về nhân lực số thành nhiệm vụ quốc gia. Trên tuyến hành động, Chính phủ sớm hiện thực hóa khát vọng bằng các quyết sách cụ thể: Ban hành nhiều chương trình hành động về chuyển đổi số và đẩy mạnh xây dựng hạ tầng dữ liệu, phát triển Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số - “môi trường thực hành” thiết thực cho đào tạo nhân lực số. Như vậy, Chính phủ vừa là “người thiết kế”, vừa là “người cầm lái”, đưa tầm nhìn chiến lược thành những kế hoạch khả thi, định lượng.
Ngày 31/3/2022, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu kinh tế số chiếm 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào 2030; đưa Việt Nam trở thành “quốc gia số” với 80% hộ gia đình phủ sóng Internet tốc độ cao và 85% người trưởng thành thông thạo kỹ năng số cơ bản. Các chỉ tiêu trên thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, đưa Việt Nam thành quốc gia số vào cuối thập niên này.
Biểu đồ số 1: Quy mô kinh tế số so với GDP của Việt Nam (%) giai đoạn 2020 - 2024
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê - Bộ Tài chính) |
Quy mô kinh tế số Việt Nam đang tăng trưởng nhanh, khẳng định hiệu quả của chính sách chuyển đổi số quốc gia. Tuy nhiên, để hiện thực hóa các mục tiêu trên, nguồn nhân lực số chất lượng cao vẫn là “mắt xích” then chốt quyết định thành công. Để biến mục tiêu thành hiện thực, Việt Nam cần có một nguồn nhân lực số mới chất lượng cao - lực lượng lao động thông thạo công nghệ, có tư duy toàn cầu và năng lực sáng tạo vượt trội. (Biểu đồ 1)
Ở tầm nhìn dài hạn, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, khẳng định: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu và là động lực chính phát triển lực lượng sản xuất hiện đại...”. Nghị quyết này đề ra mục tiêu đến năm 2045: Kinh tế số chiếm tối thiểu 50% GDP, Việt Nam nằm trong nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực, có ít nhất 10 doanh nghiệp công nghệ số tầm cỡ quốc tế và thu hút trên 5 trung tâm nghiên cứu, doanh nghiệp hàng đầu thế giới đầu tư tại Việt Nam. Tiếp nối tinh thần ấy, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng nuôi dưỡng nguồn nhân lực số tinh hoa và sáng tạo. Những nghị quyết quan trọng này không chỉ định hướng phát triển, mà còn thắp sáng khát vọng vươn mình, tạo cú hích thể chế - chính trị - tư tưởng cho tương lai.
Từ trung ương đến địa phương, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc, coi việc giải “cơn khát” nhân lực quốc gia là nhiệm vụ tiên quyết. Nhiều tỉnh, thành phố đã triển khai, ban hành nghị quyết phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu đặc thù của địa phương mình. Người Việt Nam - với trí tuệ, tinh thần đoàn kết dân tộc, khát vọng và niềm tự hào - chính là trung tâm của mọi chủ trương, vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới.
Con người vừa là trung tâm, vừa là động lực phát triển
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên số với tốc độ phát triển công nghệ chưa từng có. Cuộc CMCN 4.0 cùng với các công nghệ tiên tiến như AI, Big Data, Blockchain, IoT… và tự động hóa mở ra cơ hội vượt bậc cho các quốc gia bứt phá, rút ngắn khoảng cách phát triển. Song song với cơ hội là những thách thức gay gắt: Tụt hậu công nghệ, khoảng cách số, nguy cơ phụ thuộc vào nguồn công nghệ bên ngoài, phân hóa giàu nghèo… Đối với Việt Nam, “kỷ nguyên vươn mình” không chỉ là khẩu hiệu mà là yêu cầu thực tiễn: Phải vượt qua bẫy thu nhập trung bình và chủ động hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu trong thời đại số.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: "Đảng ta trước hết là một Đảng cách mạng… phải có cán bộ, đảng viên vừa "hồng" vừa "chuyên""; "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Lịch sử Việt Nam đã chứng minh mọi thành công đều bắt nguồn từ việc phát huy sức mạnh to lớn của con người - với lòng yêu nước nồng nàn, trí tuệ sáng tạo và tinh thần đoàn kết. Các văn kiện từ Đại hội VI của Đảng đến nay liên tục khẳng định: Con người là trung tâm, là chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển. Đại hội XIII của Đảng một lần nữa đề cao vai trò của con người, nhấn mạnh “phát triển con người toàn diện, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” làm nền tảng tinh thần của đổi mới, đồng thời chỉ rõ cần “xây dựng con người Việt Nam toàn diện, phát triển nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao”.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo đã tạo nền tảng pháp lý để hệ thống giáo dục chuyển trọng tâm từ đào tạo nặng về truyền thụ kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, chuẩn bị nguồn nhân lực thích ứng với nền kinh tế tri thức. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, cũng nêu rõ mục tiêu tạo động lực, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên môn. Cùng với đó, nhiều luật như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Công nghệ cao… đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung để tạo hành lang pháp lý cho công tác đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Các Đề án như “Phát triển nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” và “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp” cũng xác định rõ lộ trình nâng cao trình độ, kỹ năng và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân lực doanh nghiệp.
Những chủ trương, chính sách nêu trên đều nhấn mạnh tới ba yếu tố cốt lõi: (i) Coi con người là trung tâm của phát triển; (ii) Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên” - vừa giỏi chuyên môn, vừa vững lý tưởng; và (iii) Gắn giáo dục - đào tạo với nhu cầu xã hội, coi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là chiến lược quốc gia. Vì vậy, trong kỷ nguyên số, khi khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phát triển con người vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là điều kiện tiên quyết để thực hiện khát vọng vươn mình của dân tộc. Điều đó đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, làm chủ công nghệ mới và đổi mới phương pháp lãnh đạo theo hướng khoa học, minh bạch. Người lao động trong doanh nghiệp cần phát huy tinh thần chuyên nghiệp, kỷ luật, sáng tạo và trách nhiệm xã hội. Đối với thế hệ trẻ, cần có khát vọng vươn lên, ý thức học tập suốt đời và tinh thần khởi nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa.
“Cơn khát” nguồn nhân lực số: Lộ diện cơ hội trong thách thức
Theo lộ trình đã được xác định, đến năm 2025, kinh tế số của Việt Nam phải chiếm 25% GDP và tiếp tục tăng lên 30% vào năm 2030. Con số trên không chỉ mang tính định lượng mà còn là dấu hiệu năng lực cạnh tranh và sức bật của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Mục tiêu này thể hiện khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia số, có khoa học - công nghệ làm động lực phát triển chủ đạo. Tuy nhiên, để hiện thực hóa khát vọng đó, Việt Nam cần đồng bộ các chính sách phát triển nhân lực số. Nhà nước cần kiến tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, đồng thời ban hành các chương trình cụ thể nhằm thu hút, nuôi dưỡng và giữ chân đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Đây chính là “cánh cửa” mở ra cơ hội phát triển bền vững: Vừa thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển, vừa tạo sức hút đối với các tập đoàn quốc tế.
Biểu đồ 2: Tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp ở Việt Nam giai đoạn 2019 - 2024
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê - Bộ Tài chính) |
Dù tỉ lệ lao động qua đào tạo có tăng, nhưng vẫn chưa tương xứng với nhu cầu phát triển. Đây chính là “điểm nghẽn” mà Việt Nam cần khắc phục nếu muốn bứt phá trong cuộc đua nhân lực số toàn cầu. Kỷ nguyên số đặt ra yêu cầu chưa từng có đối với nhân lực Việt Nam: Không chỉ đòi hỏi gia tăng số lượng mà còn cần nâng cao chất lượng và kỹ năng. Trước hết là kỹ năng số - khả năng sử dụng công nghệ, phân tích dữ liệu, tư duy lập trình, và hiểu biết về an ninh mạng. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), cả nước có khoảng 1,2 triệu lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT), nhưng chỉ 550.000 người có trình độ cao đẳng trở lên; tỉ lệ nhân lực CNTT trong tổng lao động đạt khoảng 1,0%, thấp xa so với Hoa Kỳ (4%), Hàn Quốc (2,5%) hay Ấn Độ (1,78%). Hằng năm, Việt Nam có trên 53.000 sinh viên tốt nghiệp đại học ngành CNTT (cộng thêm khoảng 12.000 sinh viên cao đẳng, trung cấp). Tuy nhiên theo dự báo của TopDev, thời gian tới Việt Nam cần khoảng 700.000 nhân sự CNTT, trong khi nguồn cung chỉ khoảng 530.000, dẫn tới nguy cơ thiếu hụt khoảng 170.000 nhân sự. Nhu cầu nhân lực còn tăng mạnh ở các lĩnh vực thế mạnh mới như AI, Bia Data, an ninh mạng, lập trình… đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp đột phá trong đào tạo và thu hút nhân tài công nghệ.
Không chỉ thiếu về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cũng là vấn đề đáng lo ngại. Về đào tạo chính quy, trong hơn 55.000 sinh viên ngành CNTT tốt nghiệp mỗi năm, chỉ khoảng 30% đáp ứng được yêu cầu thực tế của doanh nghiệp - phần lớn còn yếu về kiến thức và kỹ năng làm chủ các công nghệ đặc thù của chuyển đổi số như AI, khoa học dữ liệu, tự động hóa, Blockchain… Các nhà tuyển dụng thường phải mất thêm chi phí và thời gian để đào tạo lại nhân viên mới, trong khi chu kỳ thay đổi công nghệ ngày càng rút ngắn. Tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ở Việt Nam năm 2024 chỉ đạt 28,3%. Điều này đặt ra câu hỏi: Chúng ta liệu đã sẵn sàng cho cuộc đua nhân lực số? Đằng sau những con số tỉ lệ % đào tạo còn thấp kia là thách thức rất lớn trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng lao động; và nếu không có giải pháp quyết liệt, chúng ta có nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua nhân lực chất lượng cao. (Biểu đồ 2)
Năng lực của nhân lực số không chỉ được định nghĩa bởi kỹ năng chuyên môn mà còn bao gồm tư duy và giá trị cốt lõi. Chuyên gia tư vấn chuyển đổi số Nguyễn Minh Hằng (FPT Digital) phân tích rằng, nguồn nhân lực số cần được đánh giá qua ba trụ cột: (i) Kỹ năng số - kiến thức và khả năng áp dụng công nghệ vào công việc cụ thể; (ii) Năng lực số - khả năng tự học, đổi mới sáng tạo và ứng dụng linh hoạt công nghệ trước những thay đổi nhanh chóng; (iii) Giá trị số - bao gồm tinh thần đổi mới sáng tạo và khả năng thích ứng với thay đổi, cũng như lòng trung thành với sứ mệnh của doanh nghiệp. Ba khía cạnh này không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả vận hành và sức cạnh tranh, mà còn là nền tảng để quốc gia tiến nhanh trong chuyển đổi số và hội nhập toàn cầu. Xây dựng chính sách phát triển nhân lực số vì vậy cần toàn diện: Không chỉ đào tạo kỹ năng, mà còn bồi dưỡng năng lực sáng tạo và hình thành hệ giá trị liên kết cộng đồng.
Song song đó, Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)…, mở cửa thị trường dịch vụ trong đó có dịch vụ số. Công nghệ số mở ra thị trường lao động làm việc xuyên biên giới không giới hạn bởi địa lý, cho phép người lao động Việt Nam làm việc từ xa cho các tập đoàn quốc tế, tham gia các dự án toàn cầu… Điều này có nghĩa là lao động Việt sẽ phải cạnh tranh trực tiếp với nguồn nhân lực toàn cầu ngay trên “sân nhà”. Cơ hội làm việc từ xa cho các công ty quốc tế và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, có thể kể đến những công việc có giá trị gia tăng cao như thiết kế phần mềm, phân tích dữ liệu, tư vấn công nghệ, đã trở nên rộng mở. Tuy nhiên, cơ hội này chỉ thành hiện thực khi người lao động có ngoại ngữ tốt, khả năng giao tiếp đa văn hóa, tinh thần hợp tác và kỹ năng làm việc nhóm, cũng như tư duy phản biện và sáng tạo. Hiện một bộ phận lao động trong nước chưa kịp thích ứng với những thay đổi: Thiếu tư duy phản biện, sáng tạo, kỹ năng mềm và thói quen học tập suốt đời. Trong môi trường làm việc hiện đại nhiều biến động, chính những yếu tố “mềm” này mới quyết định năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực.
Đáng lưu ý, khi AI và công nghệ tự động hóa phát triển, nhiều việc làm đơn giản, lặp đi lặp lại có thể bị thay thế. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cảnh báo tự động hóa có thể tác động mạnh: Ví dụ, đến 1/3 lao động ngành chế biến nông sản và 26% lao động ngành logistics tại Việt Nam có thể bị thay thế bởi công nghệ. Do đó, đào tạo lại (reskilling) và nâng cao kỹ năng (upskilling) trở thành nhiệm vụ cấp bách của cả doanh nghiệp lẫn hệ thống giáo dục - để giúp người lao động chuyển sang các công việc mới có giá trị gia tăng cao hơn và không bị bỏ lại phía sau.
Bên cạnh kỹ năng chuyên môn, một yêu cầu quan trọng khác là đạo đức nghề nghiệp và bản sắc văn hóa. Sự bùng nổ công nghệ đi kèm nguy cơ gia tăng tội phạm mạng, rò rỉ dữ liệu và lạm dụng công nghệ. Nhân lực số không chỉ phải giỏi chuyên môn, mà còn phải vững tâm lý và đạo đức, thấm nhuần lý tưởng cách mạng và trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đảng ta lãnh đạo toàn diện công cuộc chuyển đổi số, yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải “vừa hồng vừa chuyên” - vững vàng bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng, gương mẫu trong lối sống, đồng thời làm chủ kỹ năng quản lý hiện đại, kỹ năng số và ngoại ngữ. Đối với lực lượng lao động trong doanh nghiệp, cần hình thành văn hóa làm việc chuyên nghiệp, tôn trọng pháp luật, bảo mật dữ liệu và tôn trọng quyền riêng tư của khách hàng. Chỉ khi đó mới xây dựng được niềm tin của xã hội vào môi trường số và thúc đẩy chuyển đổi số bền vững.
Tất cả những đòi hỏi trên đặt ra thách thức lớn nhưng cũng mở ra cơ hội nếu biết tận dụng. Lịch sử phát triển cho thấy cơ cấu lao động Việt Nam đã từng chuyển dịch mạnh mẽ: Từ tỉ lệ lao động nông nghiệp 80% năm 1975 xuống còn 48% năm 2010; tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 10% (năm 1986) lên khoảng 40% (năm 2010). Bước vào kỷ nguyên số, sự chuyển dịch cần phải nhanh và mạnh mẽ hơn nữa: Từ lao động phổ thông sang nhân lực chất lượng cao, từ lao động kỹ năng thấp sang lao động tri thức, sáng tạo. Các chuyên gia nhận định, thị trường lao động công nghệ Việt Nam đang tái cơ cấu, ưu tiên tuyển chọn kỹ sư có trình độ cao, chuyên sâu thay vì chỉ tập trung đào tạo số lượng lớn.
Trong bối cảnh đó, nền tảng nhanlucso.org.vn ra đời như một “sàn giao dịch” nhân lực trực tuyến kịp thời tháo gỡ khó khăn ngắn hạn cho thị trường CNTT và góp phần xây dựng Chính phủ điện tử ngày càng hiện đại và bắt kịp xu hướng. Nền tảng này cung cấp thông tin về việc làm, mức lương, các chứng chỉ nghề nghiệp, đồng thời tạo cầu nối giữa người lao động và doanh nghiệp, góp phần tái định hình thị trường lao động CNTT theo hướng chất lượng và bền vững. Không chỉ kết nối cung - cầu lao động, nhanlucso.org.vn còn là một hệ sinh thái đào tạo số. Chương trình do Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) triển khai tích hợp các khóa đào tạo dành cho giảng viên đại học công nghệ, nhằm bồi dưỡng kỹ năng mới, cập nhật chuẩn quốc tế, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực CNTT. Đáng chú ý, nền tảng này không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn hướng tới nâng tầm nhân lực Việt Nam ra thị trường quốc tế. Bằng cách phổ cập tri thức số, xây dựng đội ngũ giảng viên nòng cốt và liên kết chặt giữa cơ quan quản lý - nhà trường - doanh nghiệp, chương trình đã tạo ra một mô hình hợp tác đào tạo toàn diện. Nền tảng nhân lực số chính là lời giải dài hạn cho bài toán chiến lược: Bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao để hiện thực hóa chuyển đổi số quốc gia. Nó không chỉ giải quyết nhu cầu trước mắt của thị trường CNTT mà còn đặt nền móng cho một quốc gia số vững mạnh, hội nhập sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu.
![]() |
Cán bộ chính quyền ứng dụng Chính phủ điện tử - “môi trường thực hành” sinh động giúp hình thành kỹ năng số trong đội ngũ công chức, viên chức khi áp dụng hiệu quả nền tảng nhân lực số (Nguồn ảnh: Báo Chính phủ) |
Thực tế cho thấy, hệ thống đào tạo Việt Nam đang nỗ lực cải tiến nhưng vẫn còn lúng túng với đòi hỏi thực tiễn. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bổ sung nhiều ngành học mới phù hợp thời đại số; một số trường đại học tiên phong xây dựng “đại học số” như Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông (PTIT), liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp (Đại học FPT) hoặc mở rộng đào tạo các ngành CNTT, khoa học dữ liệu (Đại học Bách khoa Hà Nội)… Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) cũng đã triển khai “Nền tảng học trực tuyến mở” và tổ chức ba khóa bồi dưỡng chuyển đổi số cho 1.648 cán bộ, công chức nòng cốt. Đồng thời, Bộ này lập kế hoạch phối hợp với địa phương đào tạo khoảng 300.000 công chức, 200.000 thành viên tổ công nghệ số cộng đồng và bồi dưỡng kỹ năng số miễn phí cho người dân. Đến nay, cả nước đã thành lập hơn 40.590 tổ công nghệ số cộng đồng đến tận thôn, xóm. Những nỗ lực trên cho thấy Việt Nam đang chủ động tìm kiếm giải pháp đào tạo linh hoạt, tận dụng công nghệ để nâng cao kỹ năng số cho người dân, thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu thực tiễn.
Bên cạnh đó, thị trường lao động toàn cầu đang rộng mở. Công nghệ số cho phép người Việt làm việc từ xa cho các công ty quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở những công đoạn có giá trị cao như thiết kế phần mềm, phân tích dữ liệu, tư vấn công nghệ. Theo IMARC Group, thị trường AI tại Việt Nam có trị giá khoảng 547 triệu USD năm 2023 và dự kiến tăng lên hơn 2 tỉ USD vào năm 2032, với tốc độ tăng trưởng gần 15,8% mỗi năm. Điều này cho thấy nhu cầu nhân lực về AI, dữ liệu lớn, an ninh mạng và các ngành liên quan sẽ tiếp tục tăng mạnh. Nếu được chuẩn bị tốt về nguồn nhân lực, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm cung cấp dịch vụ công nghệ số và AI cho cả khu vực.
Trái với nhu cầu nhân lực tăng cao, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho nhân viên trong doanh nghiệp vẫn còn manh mún. Nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược đào tạo dài hạn, chỉ chú trọng đào tạo đội ngũ quản lý; còn công nhân, kỹ thuật viên thường phải tự học hoặc tự nâng cao tay nghề. Kết quả là hiệu quả sử dụng và quản trị nhân lực thấp, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế số. Do đó, Nhà nước và doanh nghiệp cần phối hợp xây dựng một hệ thống giáo dục - đào tạo linh hoạt, kết nối chặt chẽ với nhu cầu thị trường, để mỗi đồng vốn và thời gian đầu tư cho đào tạo đều phát huy tối đa hiệu quả.
Ngày 27/9/2025, tại trụ sở Bộ Giáo dục và Đào tạo đã diễn ra phiên họp Hội đồng Quốc gia về Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực được tổ chức với sự chủ trì của lãnh đạo Bộ. Báo cáo tại phiên họp nêu rõ, Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045” đã được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành theo Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 24/5/2025 xác định mục tiêu xây dựng lực lượng nhân lực STEM dồi dào, có chuyên môn cao và kỹ năng kỹ thuật tinh thông, đủ năng lực tham gia nghiên cứu, đổi mới và ứng dụng công nghệ tiên tiến. Nhiều đại biểu và chuyên gia đã phân tích kinh nghiệm quốc tế, trao đổi các mô hình hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo song song với tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu và doanh nghiệp - phải luôn song hành với nhu cầu của nền kinh tế tri thức. Nhiều ý kiến tại cuộc họp khẳng định: Chỉ khi Việt Nam chủ động chuẩn bị lực lượng lao động tinh hoa, có năng lực làm chủ công nghệ lõi trong những ngành mũi nhọn như bán dẫn, AI, năng lượng tái tạo và công nghệ sinh học thì mới có thể bắt kịp xu thế toàn cầu.
“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài. Đầu tư vào con người chính là điểm khởi đầu của mọi ước mơ và chặng đường phía trước - khi đó, khát vọng Việt Nam vươn mình mới trở thành ngọn lửa bền bỉ thắp sáng tương lai.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh. Sửa đổi lối làm việc (1947), Trích trong: Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số (2023), Báo cáo về chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực.
3. Cục Thống kê (2024), Thông cáo báo chí quý IV/2023 về lao động - việc làm.
4. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia CMCN 4.0.
5. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
6. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
7. Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục, đào tạo.
Tin bài khác


Đoàn kết, trách nhiệm, tăng tốc, bứt phá, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước đoàn kết, bứt phá, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới của đất nước

Bức thư gửi về quá khứ

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Doanh nghiệp - Động lực trong kỷ nguyên vươn mình

40 năm đổi mới, phát triển và kỷ nguyên vươn mình

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chèo lái con thuyền ngành Ngân hàng vượt qua thách thức năm 2024, tạo động lực bứt phá năm 2025

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
