Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Chính sách
Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
aa

Kỳ 3: Tư duy mới, chiến lược mới - Phương châm đào tạo nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số

Đảng với vai trò lãnh đạo đã, đang và sẽ tiếp tục kiến tạo chiến lược nhân lực số, đồng thời đổi mới mạnh mẽ phương pháp đào tạo cán bộ, đảng viên. Xây dựng văn hóa học tập suốt đời không chỉ là khẩu hiệu mà phải trở thành cam kết, trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân trong hệ thống. Con đường phía trước còn nhiều thách thức: Khoảng cách kỹ năng giữa lao động Việt Nam với thế giới; sự mất cân đối giữa cung và cầu nhân lực; chất lượng đào tạo không đồng đều; hiện tượng “chảy máu chất xám”. Nhưng với tư duy mới và sự đoàn kết toàn dân, chúng ta có thể biến thách thức thành cơ hội. Như những con số về nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin đang cảnh báo, nếu không hành động ngay, Việt Nam sẽ bỏ lỡ “cơ hội vàng” của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Do đó, mỗi cấp ủy, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp và mỗi người dân phải coi đào tạo và tự đào tạo là nhiệm vụ cấp bách của chính mình. Chỉ khi đó, nguồn nhân lực Việt Nam mới đủ sức gánh vác khát vọng dân tộc, đưa đất nước vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên số.

Đào tạo nhân lực - Từ nhiệm vụ của ngành giáo dục đến chiến lược quốc gia

Trong một thời gian dài, công tác đào tạo nhân lực ở nước ta chủ yếu được hiểu là trách nhiệm của ngành giáo dục - đào tạo: Hệ thống nhà trường, cơ sở dạy nghề và các trung tâm đào tạo cán bộ. Sự phân công hành chính khiến trường học chỉ lo đào tạo, doanh nghiệp tập trung sản xuất - kinh doanh, còn cơ quan quản lý ban hành chính sách. Quan niệm này đã lạc hậu so với thời đại, không đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ. Bước vào thời đại công nghệ 4.0 và trước mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045, nhận thức ấy đã và đang được Đảng ta điều chỉnh sâu sắc: Xây dựng đội ngũ nhân lực không còn là nhiệm vụ riêng lẻ của ngành giáo dục, mà phải nâng tầm thành chiến lược phát triển quốc gia - đòn bẩy cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số. Việc “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” đã được xác định là một đột phá chiến lược cần khẩn trương triển khai.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã yêu cầu “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. Đây là bước ngoặt lớn: Thay vì truyền đạt kiến thức một chiều, giáo dục phải nuôi dưỡng tư duy độc lập, kỹ năng sáng tạo - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp đó, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, khẳng định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực khoa học - công nghệ, là một trong ba đột phá chiến lược.

Cùng với đó, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia CMCN 4.0 xác định rõ: Phải phát triển nhân lực chất lượng cao, hình thành trung tâm đào tạo xuất sắc và thúc đẩy hợp tác công - tư. Điểm chung của các văn kiện là thông điệp nhất quán: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là quốc sách hàng đầu, trụ cột chiến lược quyết định thành bại của chuyển đổi số và sự phát triển bền vững đất nước. Nếu tiếp tục coi đào tạo là việc riêng của ngành giáo dục, chúng ta không thể bù đắp thiếu hụt này cũng như nâng năng suất lao động. Chính vì vậy, Đảng yêu cầu huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội - từ nhà trường, doanh nghiệp, cơ quan quản lý đến từng người dân để cùng đảm nhận trọng trách phát triển nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số từ lâu đã được khẳng định là yếu tố then chốt để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đói nghèo, lạc hậu và giữ vững an ninh quốc phòng tại các vùng miền núi. Thực tiễn ở Quảng Ngãi cho thấy, khi được quan tâm đào tạo và bố trí công việc phù hợp, cán bộ tại chỗ có thể phát huy hiệu quả rõ rệt, trở thành “cầu nối tin cậy” đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào.

Câu chuyện của anh A Việt - người dân tộc Rơ Măm ở làng Le, xã biên giới Moảy tỉnh Quảng Ngãi là một minh chứng sống động. Sau khi được cử đi học đại học chuyên ngành luật kinh tế năm 2018, anh trở về địa phương và được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội Nông dân kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã. Anh bày tỏ: “Được Đảng, Nhà nước quan tâm tạo điều kiện học tập và công tác ổn định, tôi càng phải nỗ lực rèn luyện để xứng đáng với niềm tin được giao phó”. Không chỉ cán bộ, đội ngũ giáo viên người dân tộc thiểu số cũng giữ vai trò đặc biệt: Vừa truyền đạt tri thức, vừa kết nối nhà trường với phụ huynh và học sinh. Cô giáo Y Mỹ Thủy, giáo viên Trường Tiểu học - Trung học cơ sở Kroong, xã Ngọk Bay, tỉnh Quảng Ngãi chia sẻ: “Được đứng lớp bằng chính tiếng nói của mình là niềm tự hào, đồng thời là trách nhiệm. Chúng tôi mong tiếp tục được quan tâm về đãi ngộ và cơ sở vật chất để yên tâm công tác”.

Những câu chuyện ấy cho thấy: Xây dựng nhân lực dân tộc thiểu số chính là tạo ra lực lượng “gốc rễ” vững chắc cho hệ thống chính trị ở cơ sở, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, củng cố niềm tin của Nhân dân. Tinh thần này gắn với quan điểm trong Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được ban hành kèm theo Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ: Phát triển phải lấy người dân làm trung tâm, biến “tài nguyên con người” thành “sức mạnh con người” trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu. Tư duy ấy đã lan tỏa vào từng chương trình, chính sách, nhấn mạnh rằng con người - với trí tuệ, năng lực sáng tạo và khát vọng vươn lên là nguồn lực quý giá nhất của dân tộc.

Đảng dẫn đường - Doanh nghiệp hành động

Nếu đào tạo nhân lực là chiến lược quốc gia, thì Đảng chính là lực lượng dẫn đường, kiến tạo và đảm bảo chiến lược ấy đi đúng quỹ đạo. Đảng ta đã, đang và sẽ tiếp tục xây dựng chiến lược nhân lực số quốc gia, coi đây là yếu tố quyết định thắng lợi của chuyển đổi số và công nghiệp hóa. Với vai trò hạt nhân, Đảng không chỉ ban hành chủ trương, nghị quyết mà còn chỉ đạo cụ thể qua các kế hoạch, chương trình hành động; phân công rõ trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân trong hệ thống. Nhiều nghị quyết, chỉ thị đã xác định trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng quy hoạch nhân lực, tổ chức thực hiện và giám sát kết quả. Các ban đảng Trung ương xây dựng chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo; Đảng cũng yêu cầu gắn công tác đào tạo với quy hoạch cán bộ và nhiệm vụ phát triển của từng ngành, địa phương, đảm bảo đào tạo đúng hướng, đúng nhu cầu.

Hội nghị phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp bán dẫn diễn ra tại Hà Nội chiều 24/4/2025   Nguồn ảnh: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
Hội nghị phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp bán dẫn diễn ra tại Hà Nội chiều 24/4/2025 (Nguồn ảnh: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ)

Một nguyên nhân sâu xa của tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động kỹ thuật số nằm ở hành lang pháp lý chưa theo kịp thực tiễn. Luật Giáo dục năm 2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020 đã đề cập kỹ năng số, song đến nay vẫn chưa có khung chuẩn kỹ năng số quốc gia. Hiện Việt Nam mới chỉ áp dụng chuẩn công nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, mà chưa cập nhật các kỹ năng trọng yếu như phân tích dữ liệu, trí tuệ nhân tạo (AI). Quốc hội đã thẳng thắn thừa nhận: Đến nay, đất nước vẫn chưa có chuẩn kỹ năng số quốc gia làm căn cứ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; chương trình đào tạo công nghệ thông tin còn xa rời nhu cầu doanh nghiệp. Tương tự, Chính phủ chỉ ra hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp còn thiếu linh hoạt, chậm hiện đại, ở nhiều nơi còn nặng lý thuyết, chậm cập nhật công nghệ. Các trường vẫn nặng về quản lý hành chính; cơ chế tự chủ mới dừng ở thử nghiệm, chưa thực sự giải phóng tiềm năng sáng tạo. Tỉ lệ giảng viên ngành công nghệ thông tin có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh còn thấp, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực hội nhập quốc tế. Giáo dục nghề nghiệp chưa được đặt đúng vị trí trụ cột, còn tư tưởng chuộng bằng cấp hơn kỹ năng. Hệ quả là phát triển nhân lực công nghệ số vừa thiếu thực hành, vừa chậm cập nhật công nghệ, tạo ra khoảng cách lớn giữa “cung” và “cầu”.

Thiếu chuẩn chung khiến các cơ sở đào tạo “mạnh ai nấy làm”, chương trình xa rời thực tiễn, doanh nghiệp thì khó tìm nhân lực phù hợp, còn lao động trên nền tảng số chưa được pháp luật bảo vệ đầy đủ. Ở chiều liên kết, mối quan hệ giữa Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp chưa trở thành cơ chế vận hành thường xuyên. Nhiều sinh viên tốt nghiệp các ngành công nghệ thông tin, AI, an ninh mạng vẫn xa lạ với môi trường thực tế. Doanh nghiệp phàn nàn tình trạng “sinh viên ra trường không làm được việc ngay”; trong khi đó, chính sách thu hút chuyên gia Việt kiều và nhà khoa học quốc tế về nước chưa đủ hấp dẫn. Một bất cập quan trọng khác là thiếu dữ liệu thống nhất về nhu cầu nhân lực công nghệ trên phạm vi cả nước. Có thể nói, “cơn khát” nhân lực số một phần bắt nguồn từ sự chậm trễ trong điều phối và kết nối - lĩnh vực đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải hành động mạnh mẽ hơn.

Trước thực trạng đó, Hội nghị triển khai các Đề án về phát triển nguồn nhân lực và hợp tác "ba nhà" do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì ngày 14/6/2025 đã nhấn mạnh: Mô hình hợp tác “ba nhà”: Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp là điều kiện tiên quyết để hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Các đại biểu khẳng định: Nhà nước cần đổi vai trò từ cấp phát sang kiến tạo; cơ chế tài chính đột phá như khấu trừ thuế cho doanh nghiệp đặt hàng nghiên cứu tại đại học sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D), thay vì chỉ trông chờ ngân sách. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn (được điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội từ ngày 03/9/2025), nhấn mạnh: “Nhà nước đầu tư để dẫn dắt, nhưng doanh nghiệp phải là chủ thể chính trong đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ. Các trường đại học chính là nơi tập trung lực lượng nghiên cứu lớn nhất, còn doanh nghiệp phải là khu vực đầu tư nhiều nhất. Sự hợp tác giữa nhà trường, nhà nước và doanh nghiệp là vô cùng quan trọng để đưa khoa học công nghệ bứt phá”. Mô hình “ba nhà” được nhìn nhận không chỉ là một sáng kiến tổ chức, mà còn là giải pháp căn cơ để kết nối đào tạo - nghiên cứu - ứng dụng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời đại số. Đây chính là hướng đi đúng đắn để biến khoa học - công nghệ thành động lực của phát triển bền vững.

Trước thực tế đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết 66 nhấn mạnh: “Thể chế phải đi trước một bước, mở đường cho đổi mới sáng tạo”. Đây là định hướng then chốt để cải cách mạnh mẽ cơ chế pháp lý trong giáo dục và thị trường lao động, tạo môi trường hiện đại, linh hoạt cho phát triển lực lượng lao động kỹ thuật số. Đồng thời, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã đặt giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu và then chốt cho phát triển nhân lực. Nghị quyết này đề ra mục tiêu đến năm 2030, chất lượng giáo dục phổ thông và đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở châu Á; hướng tới năm 2045 xây dựng nền giáo dục hiện đại, thuộc nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới. Nghị quyết số 71-NQ/TW cũng thẳng thắn chỉ rõ: Cần trao tự chủ toàn diện cho các trường đại học, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, gắn chặt đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp và xu thế công nghệ toàn cầu. Việc chậm trễ thực thi những cải cách này chính là nguyên nhân quan trọng khiến “cơn khát” nhân lực số chưa được giải tỏa.

Khi thể chế “đi trước một bước”, nguồn lực công trở thành đòn bẩy cho đổi mới sáng tạo. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 66 về hoàn thiện thể chế và Nghị quyết 71 về đột phá giáo dục - khoa học, yêu cầu tăng chi cho khoa học và công nghệ không chỉ là mục tiêu tài khóa mà là cam kết chính trị cho tăng năng suất, nâng chất lượng nhân lực. Dữ liệu dưới đây cho thấy tỉ lệ chi ngân sách dành cho khoa học – công nghệ giai đoạn 2021 - 2025 và xu hướng điều chỉnh theo các mốc chính sách, qua đó phản ánh mức độ ưu tiên của Nhà nước đối với động lực tăng trưởng mới.

Biểu đồ 1: Tỉ lệ chi ngân sách cho khoa học, công nghệ giai đoạn 2021 - 2024

Đơn vị tính: %

Nguồn: Báo cáo của Bộ Tài chính giai đoạn 2021 - 2025
Nguồn: Báo cáo của Bộ Tài chính

Mức chi này chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi được “chuyển hóa” thành năng lực con người và kết quả nghiên cứu ứng dụng trong doanh nghiệp - đó là lý do cần đẩy mạnh cơ chế liên kết Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp, tự chủ đại học, và đơn đặt hàng nghiên cứu gắn nhu cầu thị trường. Về hoạch định, Đảng chỉ đạo xây dựng quy hoạch nhân lực gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo từng vùng, ngành; xác định nhu cầu nhân lực số cụ thể cho các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ thông tin, AI, khoa học dữ liệu, công nghệ sinh học, điện tử - viễn thông... Chẳng hạn, khi nhận thấy nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin sẽ tăng cao nhiều năm tới, các cơ quan tham mưu của Đảng đã đề xuất tăng chỉ tiêu tuyển sinh nhóm ngành kỹ thuật, khuyến khích mở mã ngành mới trong các trường đại học; đồng thời chỉ đạo các bộ ngành triển khai các chương trình đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng kỹ năng số cho đội ngũ công chức, viên chức. Các Ban cán sự đảng, đảng đoàn ở bộ, ngành, địa phương cũng được giao nhiệm vụ lồng ghép mục tiêu phát triển nhân lực công nghệ số vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành; định kỳ theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện.

Nếu coi hạ tầng số là “đường cao tốc” thì nguồn nhân lực số chính là “người cầm lái” quyết định sự thành công của công cuộc chuyển đổi số. Các chuyên gia thống nhất rằng, bên cạnh công nghệ, nhân sự chất lượng cao là yếu tố then chốt để các công cụ số thực sự phát huy giá trị. Ông Nguyễn Hoàng Dương - Chủ tịch, đồng sáng lập EZ Cloud nhấn mạnh: “Khi không có nhân lực trình độ cao thì mọi nền tảng công cụ số cũng không thể tạo ra giá trị. Vai trò nhân sự là yếu tố quyết định”. Chính vì vậy, doanh nghiệp phải là hạt nhân trong thúc đẩy chuyển đổi số. Điều này không chỉ thể hiện ở việc đầu tư công nghệ, mà còn ở chính sách nhân sự: Giữ chân người tài, xây dựng cơ chế phân quyền - ủy quyền hợp lý để nhân viên có tính tự chủ, đồng thời hình thành mô hình doanh nghiệp số. Ông Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hà Nội khẳng định: “Lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên phải là những người tiên phong trong việc hiểu, nắm rõ và thực hành chuyển đổi số. Doanh nghiệp cần những mô hình phù hợp để bảo đảm sự phát triển bền vững”. Như vậy, doanh nghiệp và giáo dục là hai trụ cột quan trọng bổ sung cho nhau. Một bên kiến tạo môi trường làm việc và ứng dụng công nghệ, bên kia đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Sự phối hợp chặt chẽ này sẽ tạo ra đội ngũ làm việc trong môi trường số vừa có kiến thức, kỹ năng, vừa có tư duy đổi mới - yếu tố quyết định để hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia số phát triển và bền vững.

Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp số trong giai đoạn 2020 - 2024 phản ánh xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số Việt Nam, cũng như hiệu quả của các chính sách hỗ trợ chuyển đổi số doanh nghiệp. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 có trên 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trên không gian số, đóng góp khoảng 30% GDP toàn nền kinh tế. Những con số dưới đây cho thấy tốc độ tăng trưởng ấn tượng của doanh nghiệp số Việt Nam trong giai đoạn 2020 - 2024 minh chứng rõ ràng cho nhu cầu cấp thiết phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng làn sóng phát triển mạnh mẽ của kinh tế số và công nghệ đổi mới sáng tạo.

Biểu đồ 2: Số lượng doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam giai đoạn 2020 - 2024

Nguồn: Theo số liệu của VnEconomy giai đoạn 2020 - 2024
Nguồn: VnEconomy

Một điểm đột phá khác trong tư duy mới là gắn kết đào tạo nhân lực với đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp. Báo cáo Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu năm 2024 do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố cho thấy, Việt Nam đã tăng hai bậc, tiếp tục đứng thứ 2 trong nhóm nước thu nhập trung bình thấp (chỉ sau Ấn Độ). Đây là năm thứ 14 liên tiếp Việt Nam đạt thành tích vượt trội so với trình độ phát triển kinh tế, phản ánh nỗ lực không ngừng trong đào tạo, sử dụng và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, khoảng cách với nhóm dẫn đầu thế giới vẫn còn xa. Muốn thu hẹp khoảng cách, chúng ta phải biến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thành công cụ trực tiếp nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo. Tiêu biểu là Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai dự án Khu đô thị đại học thông minh tại khu vực Thủ Đức (khoảng 643,7 ha) trên cơ sở liên kết giữa đại học - viện nghiên cứu - khu công nghệ cao - doanh nghiệp. Dự án này đang được định hướng trở thành mô hình thí điểm đô thị đại học thông minh, gắn với tinh thần của Nghị quyết 57‑NQ/TW về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tại đây, sinh viên, nhà khoa học và doanh nhân có thể cùng khởi nghiệp, tạo thành “vòng tuần hoàn tri thức - công nghệ - kinh doanh” ngay trong lòng đô thị. Năm 2024, hệ sinh thái này đã ươm tạo hơn 200 startup công nghệ, nhiều dự án gọi vốn thành công hàng triệu USD. Đây là minh chứng sinh động cho việc đào tạo không thể tách rời đổi mới sáng tạo.

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: Khu vực tư nhân hiện đóng góp ~50% GDP và tạo 82% việc làm cả nước. Vì vậy, muốn nhân lực chuyển đổi số phát triển phải huy động doanh nghiệp tham gia tích cực vào quá trình đào tạo; chiến lược nhân lực cần gắn liền với nhu cầu của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần coi chi phí đào tạo nhân viên là khoản đầu tư cho tương lai chứ không phải chi phí thông thường. Theo tư duy mới này, doanh nghiệp không chỉ là nơi sử dụng lao động mà còn là “trường học thứ hai”. Mỗi doanh nghiệp (đặc biệt doanh nghiệp lớn có tổ chức Đảng) phải có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phù hợp với chiến lược kinh doanh. Ngược lại, các trường đại học, cao đẳng phải hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp từ khâu xây dựng chương trình, tổ chức giảng dạy đến đánh giá, tuyển dụng. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo thể chế, cung cấp thông tin dự báo nhu cầu nhân lực, đồng thời hỗ trợ chính sách tài chính cho người học và doanh nghiệp.

Minh chứng tiêu biểu là chiến lược phát triển nhân lực của Tập đoàn công nghệ Cottech. Doanh nghiệp này đặt mục tiêu đến năm 2025 sẽ tuyển dụng từ 50.000 đến 60.000 lao động, phần lớn là lực lượng trẻ có trình độ chuyên môn sẵn sàng tiếp cận công nghệ hiện đại. Ông William Liu - Giám đốc Trung tâm Quản lý nguồn nhân lực Goertek Việt Nam nhấn mạnh: “Để đạt chỉ tiêu, chúng tôi không chỉ xây dựng môi trường làm việc nhân văn, thu nhập ổn định, mà còn mở rộng hợp tác với các trung tâm việc làm, hơn 500 trường đại học và các đơn vị cung ứng nhân lực để thu hút sinh viên mới tốt nghiệp. Song song đó, Cottech chủ động triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu, giúp người lao động làm chủ công nghệ hiện đại”.

Đặc biệt, sự gắn kết giữa doanh nghiệp và chính quyền địa phương đang mở ra hướng đi mới. Tại Hà Giang (trước khi sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Tuyên Quang), Công ty Cottech phối hợp với Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh trong tư vấn, đào tạo và tuyển dụng lao động. Ông Bùi Văn Lựa - Giám đốc Trung tâm việc làm tỉnh cho biết, 6 tháng đầu năm 2025, Trung tâm đã tổ chức 102 hội nghị tư vấn, định hướng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm cho người lao động/học sinh triên địa bàn tỉnh: “Chương trình hợp tác đã giúp địa phương tư vấn việc làm, học nghề cho 8.176 người, đạt 62,9% kế hoạch năm và tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là cơ hội để lực lượng lao động trẻ tiếp cận môi trường làm việc chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng nhân lực địa phương”.

Những con số ấy cho thấy, đổi mới sáng tạo không chỉ là công nghệ, mà còn nằm ở cách thức đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Khi doanh nghiệp, nhà trường và chính quyền địa phương bắt tay hợp tác, chúng ta không chỉ giải quyết nhu cầu lao động trước mắt, mà còn kiến tạo nền tảng nhân lực chất lượng cao để Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên kinh tế số toàn cầu.

Cần nhấn mạnh, Đảng luôn coi trọng kết hợp rèn luyện chuyên môn với bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng. Trong mọi chương trình, nội dung giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống cách mạng được lồng ghép với đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Mục tiêu là hình thành đội ngũ cán bộ, đảng viên “bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi chuyên môn, thạo kỹ năng hội nhập” như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 29-NQ/TW đã nêu. Đây là điểm cốt lõi giúp nhân lực Việt Nam không chỉ hội nhập quốc tế thành công mà còn giữ vững bản sắc và lý tưởng cách mạng.

Trong công cuộc phát triển nhân lực, bên cạnh tri thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh xây dựng một xã hội học tập, nơi mỗi người đều ý thức rằng học tập là nghĩa vụ chính trị, là phẩm chất đạo đức, là khát vọng tự thân. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Học tập suốt đời để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để trở thành người có ích cho xã hội”. Đây là lời hiệu triệu xây dựng một lớp người mới - giỏi nghề, vững chính trị, trong sáng đạo đức, kiên định lý tưởng. Một xã hội học tập như vậy chính là bệ phóng cho: Không chỉ đông về số lượng, mà còn mạnh về bản lĩnh, sáng tạo trong tư duy và kiên định trong hành động.

Người dân vùng cao tiếp cận dịch vụ số qua thiết bị thông minh - Nguồn ảnh: Báo Nhân dân
Người dân vùng cao tiếp cận dịch vụ số qua thiết bị thông minh (Nguồn ảnh: Báo Nhân Dân)

“Xã hội” học tập - hơi thở của kỷ nguyên số

“Học tập suốt đời” không chỉ là lời khuyến nghị, mà đã trở thành một tuyên ngôn chính trị và đạo đức về phát triển con người trong kỷ nguyên số. Cụm từ “năm cái dám” - dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám hy sinh - chính là nền tảng để kiến tạo một xã hội học tập, một xã hội số, một xã hội sáng tạo. Năm cái “dám” ấy tạo nên chuẩn mực nhân cách mới - mẫu hình công dân trong xã hội học tập, xã hội số, xã hội sáng tạo. Đây cũng là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt để biến khát vọng “Việt Nam hùng cường, thịnh vượng” thành hiện thực. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo vì thế không chỉ là một chính sách xã hội, mà chính là đầu tư cho tương lai của dân tộc.

Nhận thức mới của Đảng đặt ra yêu cầu: Đào tạo nhân lực không dừng ở mô hình tổ chức, mà phải gắn với đổi mới phương pháp, xây dựng văn hóa học tập suốt đời. Vì vậy, đòi hỏi đổi mới căn bản phương pháp đào tạo - chuyển từ “học thuộc” sang “học làm” và “học cách tư duy”, từ truyền đạt kiến thức sang rèn luyện năng lực quản trị, kỹ năng số và tinh thần sáng tạo.

Trước hết, nội dung đào tạo phải cập nhật nhanh các xu hướng công nghệ và phương pháp quản trị hiện đại. Cần chuyển từ đào tạo thiên về lý thuyết sang phát triển năng lực quản trị và kỹ năng số. Thay vì dạy học, học thuộc kiến thức, các chương trình bồi dưỡng cán bộ, đảng viên phải tập trung nhiều hơn vào kỹ năng lãnh đạo, quản trị chiến lược, phân tích dữ liệu, giải quyết vấn đề trong môi trường số. Các khóa học về AI, dữ liệu lớn (Big Data), Blockchain, an ninh mạng nên được lồng ghép vào chương trình đào tạo quản lý. Ở cấp cơ sở, đội ngũ công chức, viên chức cần được bồi dưỡng kỹ năng sử dụng hệ thống quản lý văn bản điện tử, dịch vụ công trực tuyến, chữ ký số... Những cải cách này giúp đội ngũ cán bộ chuyển từ “học thuộc” sang “học làm” và “học cách tư duy” và chỉ khi đó, việc đào tạo mới thực sự biến tri thức thành năng lực hành động.

Thứ hai, phương pháp đào tạo cần linh hoạt, kết hợp hài hòa giữa trực tiếp và trực tuyến. Việc tổ chức các khóa học trực tuyến, mô phỏng, bài tập tình huống, diễn đàn trao đổi kinh nghiệm sẽ giúp học viên chủ động, tích cực hơn. Trong thời đại số, học tập không chỉ trên giảng đường mà còn mọi lúc, mọi nơi - qua máy tính, điện thoại, qua mô hình thực tiễn ảo. Nhiều trường đại học và cơ quan đã triển khai nền tảng học trực tuyến mở, cho phép cá nhân tự lựa chọn khóa học phù hợp. Kết hợp giữa trực tuyến và trực tiếp (blended learning) vừa tiết kiệm chi phí, vừa giúp cán bộ ở xa vẫn tiếp cận được tri thức mới. Đại dịch Covid-19 đã cho thấy hiệu quả của đào tạo trực tuyến; nhiều bộ, ngành tổ chức các khóa học chuyển đổi số cho hàng nghìn công chức, viên chức qua hệ thống E-learning. Tuy nhiên, đào tạo trực tuyến cần đi kèm bài tập thực hành, case study, mô phỏng... để đảm bảo người học nắm vững kỹ năng.

Khai giảng Lớp bồi dưỡng kiến thức về trí thông minh nhân tạo, dữ liệu lớn và chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức - Nguồn ảnh: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Khai giảng Lớp bồi dưỡng kiến thức về trí thông minh nhân tạo, dữ liệu lớn và chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức (Nguồn ảnh: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.)

Thứ ba, công tác đánh giá và chứng nhận năng lực cần đổi mới theo hướng coi trọng thực hành. Các khóa học nên có bài tập tình huống, mô phỏng, đánh giá khả năng giải quyết vấn đề; kết quả học tập cần được đưa vào hồ sơ cán bộ, gắn với quy hoạch, bổ nhiệm. Một hạn chế phổ biến trước đây là thiếu cơ chế kiểm tra việc áp dụng kiến thức sau đào tạo. Do đó, cơ quan, tổ chức đào tạo cần xây dựng bộ chỉ số đánh giá năng lực sau đào tạo; kết quả học tập của cán bộ phải được gắn với việc quy hoạch, bổ nhiệm và khen thưởng. Chỉ khi người học áp dụng được kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hiệu suất công việc, việc đào tạo mới thực sự có ý nghĩa. Do vậy, các cơ quan cần theo dõi sự tiến bộ của cán bộ sau đào tạo và có cơ chế xử lý nếu hiệu quả không đạt yêu cầu.

Cuối cùng, đào tạo cán bộ, đảng viên phải gắn với xây dựng văn hóa tổ chức. Mỗi cơ quan, đơn vị cần coi đào tạo là nhiệm vụ trọng tâm; người lãnh đạo phải nêu gương trong việc học tập, tự bồi dưỡng. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ”, yêu cầu đảng viên không ngừng học tập, tu dưỡng để “vừa hồng, vừa chuyên”. Đây không chỉ là yêu cầu chính trị, mà còn là điều kiện để cán bộ đáp ứng nhiệm vụ ngày càng cao trong thời đại công nghệ 4.0. Xây dựng văn hóa tổ chức học tập chính là tạo môi trường thuận lợi để mỗi cá nhân phát huy tối đa năng lực.

Một trong những tư duy mới quan trọng nhất là xây dựng văn hóa học tập suốt đời trong toàn xã hội, đặc biệt trong hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp. Chỉ khi đó, nguồn nhân lực Việt Nam mới đủ sức thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và thị trường. Văn hóa học tập suốt đời bắt đầu từ nhận thức của mỗi người: Học không phải để có tấm bằng, mà để hoàn thiện bản thân, thích ứng với biến động, sáng tạo giá trị mới. Tự động hóa có thể thay thế tới 1/3 lao động ngành chế biến nông sản và 26% lao động ngành logistics ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa, nếu không học tập nâng cao kỹ năng, người lao động có nguy cơ bị máy móc đào thải. Vì vậy, Đảng ta khuyến khích mỗi cán bộ, đảng viên, người lao động đặt mục tiêu học tập hằng năm: Học một ngoại ngữ mới, cập nhật một kỹ năng số mới, tham gia ít nhất một khóa bồi dưỡng chuyên môn..

Để xây dựng văn hóa học tập, cần sự chung tay của gia đình, nhà trường, doanh nghiệp và xã hội. Cụ thể: (i) Trong doanh nghiệp, lãnh đạo phải coi nhân viên là tài sản lớn nhất; đầu tư cho đào tạo chính là đầu tư cho phát triển bền vững. Mỗi doanh nghiệp nên có quỹ hoặc chương trình đào tạo thường xuyên, tạo điều kiện cho nhân viên học tập nâng cao trình độ; (ii) Trong gia đình, cha mẹ cần làm gương cho con cái trong việc đọc sách, học ngoại ngữ, sử dụng công nghệ. Môi trường gia đình khuyến khích học hỏi sẽ nuôi dưỡng tinh thần ham học ngay từ nhỏ và (iii) Trong xã hội, cần phát triển các thư viện số, nền tảng học trực tuyến miễn phí, các câu lạc bộ học tập cộng đồng. Nhà nước cần hỗ trợ người dân nghèo, vùng sâu, vùng xa tiếp cận Internet và thiết bị học tập. Song song, đẩy mạnh phong trào đọc sách, khuyến khích nghiên cứu khoa học trong thanh thiếu niên để hình thành môi trường sáng tạo, nuôi dưỡng những ước mơ lớn.

Văn hóa học tập còn gắn liền với khát vọng tự cường và tinh thần dân tộc. Mỗi người Việt Nam cần ý thức rằng chỉ có tri thức và kỹ năng mới giúp đất nước sánh vai cường quốc năm châu. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phải bắt nguồn từ khát vọng vươn lên của mỗi người dân. Sự nghiệp đào tạo nhân lực chất lượng cao do đó vừa đáp ứng mục tiêu cá nhân - thăng tiến, thu nhập, hạnh phúc - vừa phục vụ mục tiêu chung - phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là tinh thần “dân tộc - khoa học - đại chúng” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong đường lối văn hóa những năm đầu lập nước.

Trên thực tế, nhiều mô hình “văn hóa học tập” trong các tổ chức đảng đã phát huy hiệu quả. Chẳng hạn, Đảng bộ Tập đoàn Viettel phát động phong trào “đọc sách mỗi ngày”, đặt mục tiêu mỗi cán bộ, đảng viên học ít nhất một ngoại ngữ và một kỹ năng số mới mỗi năm. Chương trình “Mỗi năm một kỹ năng” yêu cầu mỗi người lập kế hoạch tự học kỹ năng số và báo cáo kết quả cuối năm. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh triển khai phong trào “cán bộ, công chức học ngoại ngữ”, thu hút hàng nghìn người tham gia, nâng cao rõ rệt năng lực ngoại ngữ trong đội ngũ. Đảng ủy Bộ Khoa học và Công nghệ khuyến khích cán bộ sử dụng nền tảng học trực tuyến mở OneTouch, mỗi người tự chọn khóa học phù hợp công việc để học mọi lúc, mọi nơi…

Những mô hình này cho thấy khi văn hóa học tập trở thành phong trào, sức lan tỏa của nó rất lớn, tạo chuyển biến thực chất trong đội ngũ. Quan trọng hơn, Đảng chủ trương xây dựng văn hóa học tập suốt đời trong toàn xã hội. Bởi lẽ, tri thức hôm nay có thể lạc hậu ngay ngày mai; nếu không tự học, người lao động sẽ bị bỏ lại phía sau. Từ mô hình “tổ chức học tập” đến xây dựng “công dân học tập”, khát vọng tự học cần được cổ vũ mạnh mẽ. Mỗi doanh nghiệp hãy coi chi phí đào tạo là khoản đầu tư, mỗi gia đình hãy khuyến khích con trẻ học công nghệ, ngoại ngữ, kỹ năng mềm, và toàn xã hội hãy chung tay xây dựng các thư viện số, MOOC… hỗ trợ người dân học tập. Đổi mới phương pháp và xây dựng văn hóa học tập suốt đời chính là chìa khóa để nguồn nhân lực Việt Nam thích ứng và dẫn dắtthời đại số.

Tư duy mới trong đào tạo không chỉ đổi cách dạy, mà là đổi cách nghĩ - coi tri thức là động lực của tự cường dân tộc. Biến thách thức thành cơ hội cần sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Mỗi cấp ủy, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân hãy coi đào tạo và tự đào tạo là nhiệm vụ cấp bách của chính mình. Chỉ khi đó, nguồn nhân lực Việt Nam mới đủ sức gánh vác khát vọng đưa đất nước vươn lên mạnh mẽ trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu.

Đào tạo hôm nay chính là xây nền cho Việt Nam ngày mai!

Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS.,TS. Phạm Bảo Sơn, khẳng định: “Chúng tôi đã thành lập Công viên Công nghệ cao và Đổi mới sáng tạo, tập hợp các viện nghiên cứu và trung tâm dịch vụ khoa học - công nghệ để hỗ trợ kết nối với doanh nghiệp. Đây là cách thức thí điểm nhằm hình thành hệ sinh thái hợp tác mới, đồng thời thu hút chuyên gia quốc tế về làm việc tại Việt Nam”.

GS. Nguyễn Thị Thanh Mai - Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ sự chuyển biến: “Trước đây, nghiên cứu thường nặng tính học thuật, ít gắn với thực tiễn. Nhưng sau khi Nghị quyết số 57-NQ/TW ra đời, trường đã chủ động phối hợp với địa phương và doanh nghiệp, tổ chức nhiều đoàn công tác trực tiếp đến doanh nghiệp để cùng đánh giá, cùng xây dựng đầu bài hợp tác.”

GS. Nguyễn Văn Hiếu - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Phenikaa, nhận định: “Các chính sách quyết liệt, nhanh chóng, đặc biệt đối với những ngành khoa học cơ bản như vật lý hạt nhân, sẽ thay đổi tư duy phụ huynh và học sinh, khuyến khích ngày càng nhiều học sinh giỏi tham gia lĩnh vực trọng yếu này”.

PGS., TS. Nguyễn Ái Việt - Nguyên Viện trưởng Viện Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội chỉ rõ: “Chúng ta phải tập trung đào tạo thế hệ trẻ - những tài năng trẻ có khả năng thay đổi nhận thức một cách cốt lõi. Tư duy đổi mới sáng tạo và tuân thủ pháp luật phải trở thành nền tảng”.

Tài liệu tham khảo

1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

2. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

3. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

4. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

5. Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới.

6. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.

7. Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

8. Luật Giáo dục số 43/2019/QH14, có hiệu lực từ ngày 01/7/2020.

9. Bộ Tài chính (2025), Báo cáo ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021 - 2025, chuyên đề chi cho khoa học - công nghệ.

10. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2025), Tài liệu bồi dưỡng kiến thức về trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức.

Lê Thị Hoàng Anh
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

Tin bài khác

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô