Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hoạt động ngân hàng
Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
aa

Thực hiện Quyết định số 315/QĐ-NHNN ngày 24/02/2025 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về việc thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Chi nhánh Khu vực 15; Quyết định số 2315/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 315/QĐ-NHNN; để đảm bảo đồng bộ với hệ thống chính quyền cấp tỉnh sau sáp nhập phù hợp với điều kiện địa lý, hạ tầng giao thông, tạo thuận lợi trong chỉ đạo, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp, kể từ ngày 01/7/2025, NHNN Chi nhánh Khu vực 15 được sắp xếp lại, có trụ sở đặt tại tỉnh An Giang; có chức năng tham mưu, giúp Thống đốc NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối trên địa bàn các tỉnh An Giang, Cà Mau và thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng trung ương theo ủy quyền của Thống đốc NHNN.

Hiệu quả thực hiện chiến lược phát triển ngành Ngân hàng

Trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, tình hình trong nước và địa bàn tỉnh An Giang còn gặp nhiều khó khăn, song với sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương, sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tỉnh đã chủ động triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh An Giang đã ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, Kế hoạch tổ chức thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ và các Kế hoạch chuyên đề phục vụ phát triển ngành, lĩnh vực trên địa bàn (thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, Đề án một triệu ha lúa, phát triển OCOP, kinh tế biển, nuôi trồng thủy sản trên biển, phát triển kinh tế tập thể, hỗ trợ, thúc đẩy khởi nghiệp...); chỉ đạo các sở, ban, ngành, các cấp chính quyền địa phương tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp tại các kế hoạch.

Hiệu quả chiến lược ngân hàng tạo lực đẩy thúc đẩy tăng trưởng tỉnh An Giang
Quầy giao dịch khách hàng tại Agribank Chi nhánh An Giang. Ảnh: Trọng Triết

Trong đó, đối với lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn, UBND tỉnh An Giang ban hành nhiều Kế hoạch và văn bản, trong đó giao NHNN Chi nhánh Khu vực 15 chủ trì, phối hợp các sở, ngành, chính quyền địa phương triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả các giải pháp tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Đặc biệt, tập trung giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận vốn vay phục hồi, phát triển sản xuất - kinh doanh, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế; thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; Kế hoạch tái cơ cấu các TCTD gắn với xử lý nợ xấu; Kế hoạch thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), Chiến lược tài chính toàn diện... theo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, ưu tiên hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang.

Sau khi được sắp xếp tổ chức lại theo Quyết định số 315/QĐ-NHNN và Quyết định số 2315/QĐ-NHNN, hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh An Giang ổn định, thông suốt, tăng trưởng hợp lý, an toàn, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh. Các TCTD trên địa bàn tập trung huy động vốn nhàn rỗi tại địa phương để có nguồn vốn thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trên địa bàn an toàn, hiệu quả, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, cung ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn phục vụ lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Đề án, Kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, các mặt hàng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Đồng thời, NHNN Chi nhánh Khu vực 15 cũng chỉ đạo các TCTD trên địa bàn triển khai thực hiện tốt các chương trình, chính sách tín dụng, đẩy mạnh tín dụng chính sách xã hội; triển khai hiệu quả chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp theo hướng đa dạng nội dung, hình thức phối hợp phù hợp điều kiện thực tế nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn.

Số liệu thống kê từ NHNN Chi nhánh Khu vực 15 cho thấy, đến ngày 30/6/2025, huy động vốn tại địa bàn tỉnh An Giang đạt 171.768 tỉ đồng, tăng 43,49% so với cuối năm 2021, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,84%; dư nợ tín dụng đạt 266.608 tỉ đồng, tăng 42,18% so cuối năm 2021, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9,8%. Tín dụng tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh (chiếm 82,4% tổng dư nợ); cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tập trung vào 3 lĩnh vực kinh tế mũi nhọn là: Tín dụng khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 20,7% tổng dư nợ); tín dụng khu vực công nghiệp và xây dựng (chiếm 11,8% tổng dư nợ); tín dụng khu vực thương mại và dịch vụ (chiếm 67,5% tổng dư nợ).

Nhu cầu vốn đối với các lĩnh vực ưu tiên, chương trình, chính sách theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN được các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang giải quyết tốt và có mức tăng trưởng phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của các đối tượng thụ hưởng trên địa bàn; đảm bảo thực hiện đúng đối tượng và chính sách quy định. Kết quả, đến ngày 30/6/2025 tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 151.790 tỉ đồng, tăng 40,05% so với cuối năm 2021, chiếm 56,9% tổng dư nợ toàn tỉnh. Trong đó: Dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 140.850 tỉ đồng; dư nợ cho vay phục vụ xây dựng nông thôn mới đạt 102.266 tỉ đồng; dư nợ cho vay phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp (nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch) đạt 280 tỉ đồng. Tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu đạt 11.069 tỉ đồng, tăng 23,32% so với cuối năm 2021, chiếm 4,2% tổng dư nợ tín dụng. Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 36.960 tỉ đồng, tăng 60,52% so với cuối năm 2021, chiếm 13,9% tổng dư nợ tín dụng.

Bên cạnh đó, tín dụng đối với một số mặt hàng chủ lực của tỉnh An Giang tiếp tục được quan tâm, chú trọng đầu tư từ khâu trồng trọt, khai thác, nuôi trồng, thu mua, tiêu thụ, chế biến, bảo quản, cụ thể: Dư nợ ngành thủy sản đạt 37.965 tỉ đồng, tăng 65,06% so với cuối năm 2021. Trong đó: Dư nợ cho vay cá tra đạt 10.716 tỉ đồng; dư nợ cho vay tôm đạt 4.963 tỉ đồng; dư nợ ngành lúa, gạo đạt 28.232 tỉ đồng, tăng 24,95% so với cuối năm 2021; dư nợ ngành rau quả đạt 2.783 tỉ đồng, tăng 43,33% so với cuối năm 2021.

Điểm đáng chú ý, tín dụng chính sách xã hội tiếp tục tăng trưởng và đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất - kinh doanh của các đối tượng chính sách, góp phần thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới với dư nợ cho vay đến ngày 30/6/2025 đạt 12.906 tỉ đồng, tăng 65,75% so cuối năm 2021, chiếm 4,8% tổng dư nợ.

Đối với Chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở, như: Cho vay nhà ở xã hội (NƠXH) theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý NƠXH, doanh số lũy kế từ đầu chương trình đạt 1.158 tỉ đồng, dư nợ đạt 743 tỉ đồng. Cho vay NƠXH, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững, tỉnh An Giang có 6 dự án NƠXH đáp ứng đủ điều kiện. Các chi nhánh ngân hàng giải ngân 395 tỉ đồng với 181 tỉ đồng cho một chủ đầu tư, 214 tỉ đồng cho 234 người mua nhà.

Đối với Chương trình cho vay liên kết, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở danh sách các chủ thể tham gia Đề án, vùng chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp (tháng 02/2025) và các liên kết lúa gạo (tháng 5/2025) do Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố, các chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) và 6 ngân hàng thương mại (NHTM) đăng ký tham gia Chương trình trong giai đoạn thí điểm đến hết năm 2025 với quy mô vốn khoảng 16.300 tỉ đồng đã chủ động tiếp cận khách hàng, tuy nhiên chưa phát sinh kết quả cho vay.

Về cơ cấu lại và xử lý nợ xấu, kiểm soát chất lượng tín dụng, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh An Giang đã bám sát Kế hoạch, triển khai thực hiện hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025 do UBND tỉnh ban hành. Theo đó, các TCTD trên địa bàn đẩy mạnh sắp xếp tổ chức mạng lưới hoạt động, cơ cấu lại theo hướng phát triển dịch vụ và đầu tư vào các lĩnh vực an toàn, đổi mới và hiện đại hóa hoạt động điều hành, quản trị; đầu tư, nâng cấp chất lượng cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh toán, triển khai áp dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ mới hiện đại góp phần hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Đến ngày 30/6/2025, tỉnh An Giang có 75 TCTD với mạng lưới 417 cơ sở giao dịch gồm: 1 trụ sở chính NHTM, 114 chi nhánh ngân hàng (84 chi nhánh cấp tỉnh, 30 chi nhánh thuộc Agribank), 260 phòng giao dịch, 42 Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), 1 chi nhánh tổ chức vi mô CEP.

Các NHTM cũng cơ cấu lại theo hướng phát triển dịch vụ, đầu tư vào các lĩnh vực an toàn, đổi mới và hiện đại hóa hoạt động quản trị, điều hành. Các QTDND cơ cấu lại theo hướng nâng cao các chỉ số an toàn và hiệu quả hoạt động; nhiều chỉ tiêu hoạt động chủ yếu tiếp tục được giữ ổn định, phát huy được vai trò trong công tác huy động vốn, cho vay hỗ trợ cho các thành viên trên địa bàn phát triển sản xuất - kinh doanh, nâng cao đời sống của người dân, góp phần vào việc xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương, hạn chế “tín dụng đen”. Đến ngày 30/6/2025, toàn tỉnh có 42 QTDND đang hoạt động; nguồn vốn huy động đạt 4.042 tỉ đồng; dư nợ đạt 3.709 tỉ đồng, tỉ lệ nợ xấu 1,00%. NHNN Chi nhánh Khu vực 15 cũng chỉ đạo các TCTD tăng cường triển khai nhiều biện pháp thúc đẩy xử lý nợ xấu hiện hữu, kiểm soát chất lượng tín dụng, chủ động rà soát, có kế hoạch xử lý nợ xấu phù hợp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn sự gia tăng nợ xấu, nhờ đó nợ xấu qua các năm luôn được kiểm soát trong phạm vi an toàn.

Về thúc đẩy TTKDTM, tài chính toàn diện, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn: UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án TTKDTM giai đoạn 2021 - 2025, Chiến lược tài chính toàn diện, các văn bản chỉ đạo các sở, ngành, chính quyền địa phương phối hợp đẩy mạnh tổ chức các hoạt động thúc đẩy phát triển TTKDTM, Kế hoạch đẩy mạnh chi trả an sinh xã hội không dùng tiền mặt; Kế hoạch hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi số, Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia trên địa bàn; Kế hoạch phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2021 - 2025. Công tác phát triển TTKDTM trên địa bàn đạt được một số kết quả tích cực như: Triển khai thí điểm Mô hình “Tuyến chợ/tuyến phố TTKDTM” tại 3 huyện, thành phố thuộc địa bàn, tổ chức chương trình giáo dục tài chính tại các trường trung học phổ thông; tổ chức hội nghị về giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số, TTKDTM trong các trường học, cơ sở giáo dục đào tạo, bệnh viện, cơ sở y tế; cuộc thi trực tuyến chuyển đổi số với chủ đề “Thanh toán điện tử, TTKDTM” nhằm giúp người dân quan tâm và nâng cao hiểu biết về hoạt động thương mại điện tử, ngân hàng điện tử, TTKDTM; tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày chuyển đổi số quốc gia và Ngày chuyển đổi số tỉnh.

Nhờ sự chủ động, quyết liệt trong chỉ đạo, cùng sự đồng thuận, phối hợp của các cấp, các ngành, hoạt động TTKDTM trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng và công nghệ được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả (100% siêu thị, trung tâm mua sắm có thiết bị chấp nhận thẻ và cho phép người tiêu dùng thanh toán khi mua hàng bằng phương thức POS, quét mã QR thanh toán từ điện thoại thông minh...). TTKDTM trong lĩnh vực dịch vụ công đạt kết quả khả quan khi các cơ quan chức năng đã đẩy mạnh việc nộp thuế bằng phương thức trực tuyến. Việc kết nối giao dịch thanh toán với hệ thống Kho bạc Nhà nước tỉnh đảm bảo thông suốt, thuận tiện, hiệu quả. Nhận thức, hành động của người dân về TTKDTM có nhiều thay đổi, số lượng thực hiện TTKDTM tăng đáng kể. Hoạt động hệ thống thanh toán được diễn ra thông suốt, an toàn, hiệu quả; tiếp tục triển khai đẩy mạnh phát triển về các sản phẩm, dịch vụ và các ứng dụng công nghệ thanh toán hiện đại, góp phần đẩy mạnh TTKDTM trên địa bàn.

Hoạt động ngoại hối, kinh doanh vàng tiếp tục được tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các quy định của pháp luật, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và thị trường vàng trên địa bàn tỉnh An Giang. Theo đó, toàn tỉnh có 24 đại lý chi, trả ngoại tệ; 75 đại lý đổi ngoại tệ; 586 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Qua công tác chỉ đạo, điều hành linh hoạt, phù hợp điều kiện thực tế, hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh An Giang đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tín dụng thông suốt, tăng trưởng hợp lý, phù hợp nhu cầu vốn phát triển kinh tế tại địa phương và tiếp tục tập trung vào sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên tại địa phương; các chương trình tín dụng hỗ trợ ngành, lĩnh vực theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được triển khai thực hiện kịp thời, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phát triển sản xuất - kinh doanh, tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng, dịch vụ ngân hàng trên địa bàn. Công tác cơ cấu lại của các TCTD cơ bản đạt mục tiêu của NHNN và tỉnh An Giang. Sự ổn định, an toàn hoạt động của các TCTD tiếp tục được giữ vững, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền được bảo đảm, qua đó giúp củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào hệ thống TCTD.

Những vấn đề đặt ra

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh An Giang vẫn còn phát sinh một số tồn tại, hạn chế sau:

Một là, hoạt động cấp tín dụng còn khó khăn, thách thức tín dụng phục vụ nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn duy trì tăng trưởng, góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương nhưng tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với toàn quốc.

Hai là, một số chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực nhận được kỳ vọng, quan tâm của các cấp, các ngành và người dân, doanh nghiệp nhưng việc triển khai còn nhiều khó khăn, nợ xấu tăng và tiềm ẩn phát sinh cao.

Ba là, kinh tế đang phục hồi nhưng vẫn còn nhiều thách thức nên cầu tín dụng khó có sự đột phá lớn. Sức hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân còn thấp, hoạt động sản xuất - kinh doanh còn nhiều khó khăn, “sức khỏe” tài chính bị giảm sút; đồng thời xu hướng thắt chặt, cắt giảm chi tiêu của người dân dẫn đến cầu tín dụng thấp.

Bốn là, một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa do quy mô vốn nhỏ, năng lực hạn chế, thiếu phương án kinh doanh khả thi, trong khi các cơ chế, định chế hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn vay chưa phát huy hiệu quả.

Năm là, hoạt động sản xuất - kinh doanh các sản phẩm thuộc thế mạnh của địa phương chưa phát huy hết lợi thế như sản xuất nông nghiệp chậm hiện đại hóa, thiếu bền vững, các chuỗi liên kết trong nông nghiệp đã được hình thành nhưng chưa được khai thác tối ưu; số lượng doanh nghiệp tham gia liên kết còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chuỗi giá trị nông sản; kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đồng bộ, đặc biệt là hạ tầng phục vụ sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp cần tiếp tục được đầu tư, nâng cấp; tiến độ triển khai các dự án trọng điểm còn chưa đáp ứng yêu cầu…

Sáu là, việc triển khai một số chương trình tín dụng còn gặp khó khăn như Chương trình cho vay NƠXH, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư theo Nghị quyết số 33/NQ-CP do quy định thủ tục đầu tư, xây dựng, quy hoạch, đất đai, cấp phép còn nhiều vướng mắc; số lượng dự án NƠXH được công bố còn ít; chương trình cho vay liên kết, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long chưa phát sinh kết quả cho vay…

Giải pháp thời gian tới

Thời điểm từ nay đến cuối năm 2025, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh An Giang bám sát chặt chẽ tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh và các nội dung chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng của NHNN nhằm thực hiện đồng bộ các nội dung sau:

Thứ nhất, tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng. Cùng với đó, cân đối nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế, các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Chú trọng đầu tư tín dụng vào các dự án, công trình trọng điểm khả thi phục vụ phát triển kinh tế của khu vực như: Phát triển kinh tế biển, công nghiệp, logistics, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, du lịch và các mặt hàng nông sản chủ lực như lúa gạo, thủy sản...

Thứ hai, chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về lãi suất, phí cho vay. Huy động hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đảm bảo đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu vốn của người dân và doanh nghiệp.

Thứ ba, cấp tín dụng hướng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù của Ngành. Tăng trưởng tín dụng vào các ngành hàng thế mạnh của khu vực như lúa gạo, thủy sản, công nghiệp chế biến..., tiếp tục phát huy đà tăng trưởng cho vay công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cho vay các mô hình liên kết, tín dụng xanh; quan tâm đầu tư tín dụng vào các ngành, lĩnh vực mới, bền vững như nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, kinh tế chia sẻ.

Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, không hạ chuẩn tín dụng. Một số ngân hàng có tỉ lệ dư nợ ngắn hạn rất cao cần cân đối lại tỉ trọng cơ cấu dư nợ theo thời hạn; đa dạng hóa ngành, nghề cho vay, phương thức cho vay để hạn chế rủi ro, đảm bảo tăng trưởng dư nợ bền vững. Thực hiện cho vay ngoại tệ theo chủ trương của Chính phủ và NHNN về hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.

Thứ năm, cắt giảm các thủ tục không phù hợp, đơn giản hóa quy trình và thủ tục cấp tín dụng đi đôi với việc tuân thủ quy định của pháp luật, không nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng để đảm bảo an toàn hoạt động, hạn chế nợ xấu phát sinh. Áp dụng chuyển đổi số vào quy trình cấp tín dụng, tạo thuận lợi cho khách hàng vay vốn; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư trong các hoạt động ngân hàng.

Thứ sáu, Ngân hàng Chính sách xã hội Chi nhánh tỉnh An Giang tiếp tục thực hiện các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; triển khai Kế hoạch của tỉnh về việc thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.

Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động TTKDTM, đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. Đẩy mạnh triển khai các mô hình thanh toán tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với triển khai Kế hoạch hành động Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia... Đẩy mạnh thanh toán điện tử dịch vụ công, trong đó có hoạt động thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công và chi trả các chương trình an sinh xã hội. Bên cạnh đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ và gia tăng trải nghiệm để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán. Đẩy mạnh ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán qua mã QR, ví điện tử... để từ đó tăng số lượng giao dịch. Hướng dẫn khách hàng áp dụng các biện pháp phòng, tránh gian lận, lừa đảo... để tạo niềm tin cho khách hàng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng số lượng và giá trị giao dịch, nhất là các giao dịch có giá trị lớn. Tăng cường phối hợp với các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ như các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, trường học, bệnh viện…

Tài liệu tham khảo:

1. Công văn số 1584/UBND-KT ngày 01/10/2021 của UBND tỉnh Kiên Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh An Giang) về việc tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn vay khôi phục, phát triển sản xuất - kinh doanh.

2. Công văn số 1353/UBND-KT ngày 05/8/2022 của UBND tỉnh An Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) về việc thực hiện hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Công văn số 2532/UBND-KT ngày 13/12/2023 về việc phối hợp triển khai kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.

3. Công văn số 787/UBND-KT ngày 22/4/2024 của UBND tỉnh Kiên Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh An Giang) về việc phối hợp triển khai các giải pháp tiền tệ, tín dụng của Chính phủ, NHNN trên địa bàn tỉnh Kiên Giang năm 2024.

4. Công văn số 1539/UBND-KT ngày 19/7/2024 của UBND tỉnh Kiên Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh An Giang) về việc phối hợp tổ chức các hoạt động thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

5. Công văn số 1672/UBND-KT ngày 06/8/2024 của UBND tỉnh Kiên Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh An Giang) về việc phối hợp ngăn chặn hoạt động mua, bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên.

6. Công văn số 272/UBND-KT ngày 13/02/2025 của UBND tỉnh An Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) về việc tiếp tục phối hợp đẩy mạnh triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

7. Kế hoạch số 183/KH-UBND ngày 16/8/2022 của UBND tỉnh An Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) triển khai thực hiện Đề án “Cơ cấu lại Hệ thống các TCTD gấn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025” ban hành kèm theo Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chỉnh phủ. Kế hoạch số 94/KH-UBND ngày 23/6/2020 của UBND tỉnh An Giang thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

8. Kế hoạch số 813/KH-UBND ngày 24/12/2020 của UBND tỉnh An Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) về triển khai thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh An Giang.

9. Kế hoạch số 09/KH-UBND ngày 12/01/2022 của UBND tỉnh Kiên Giang (thời điểm trước khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh An Giang) về triển khai thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

10. Báo cáo sơ kết việc thực hiện chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của UBND tỉnh An Giang (giai đoạn 2021 - 2025 theo địa giới hành chính mới).

ThS. Trần Trọng Triết
NHNN Chi nhánh Khu vực 15

Tin bài khác

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô