Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Thị trường tài chính
Trong hơn một thập kỷ qua, vàng đã trở lại mạnh mẽ như một tài sản dự trữ chiến lược toàn cầu. Trước năm 2010, các ngân hàng trung ương thường bán vàng để chuyển sang giữ USD hoặc EUR. Thế nhưng, xu hướng này đã hoàn toàn đảo ngược.
aa

Theo số liệu của IMF và Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), từ năm 2010 - 2024, các ngân hàng trung ương đã mua ròng tổng cộng hơn 5.600 tấn vàng, nâng tổng dự trữ vàng toàn cầu lên gần 36.500 tấn. Đặc biệt, chỉ trong ba năm gần đây (2022 - 2024), mỗi năm các ngân hàng trung ương đã mua ròng vượt mốc 1.000 tấn - mức cao kỷ lục chưa từng có, con số này vượt xa so với lượng mua trung bình của giai đoạn 2010 - 2021 là 437 tấn/năm.

Số lượng vàng mua vào của các ngân hàng trung ương theo quý (ĐVT: tấn)
Số lượng vàng mua vào của các ngân hàng trung ương theo quý (ĐVT: tấn)

Theo dữ liệu từ Hội đồng Vàng Thế giới năm 2024, một số quốc gia mua vàng nhiều nhất bao gồm Ba Lan (89,54 tấn), Ấn Độ (72,9 tấn),Trung Quốc (44,17 tấn), Cộng hòa Séc (20,5 tấn), Iraq (20,06 tấn).

Top 10 quốc gia có lượng dự trữ vàng lớn nhất thế giới (năm 2024)

Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới
Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới

Bên cạnh làn sóng mua vào, thị trường cũng ghi nhận các hoạt động bán ra của các ngân hàng trung ương. Tuy nhiên lượng bán ra nhỏ và mang tính kỹ thuật trong bối cảnh giá vàng tăng mạnh. Chẳng hạn ngân hàng trung ương Philippines đã bán ra 30 tấn vàng từ tháng 3 đến tháng 8/2024 với lý do chính là do giá vàng tăng mạnh. Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS) bán 10 tấn. Ngân hàng Bundesbank (Đức) giảm 1 tấn, khả năng phục vụ cho chương trình đúc tiền xu.

Mặc dù làn sóng mua vàng vẫn mạnh mẽ, nhưng bước sang năm 2025 tốc độ mua đã chững lại. Số liệu của WGC cho thấy lượng mua ròng tháng 4/2025 của các ngân hàng trung ương là 12 tấn, thấp hơn tháng trước 12%. Nguyên nhân chính của việc này được cho là do giá vàng tăng mạnh đã làm giảm đà mua của các ngân hàng trung ương.

Xu hướng nắm giữ vàng của các ngân hàng trung ương

Những năm qua đã ghi nhận xu hướng tăng tích trữ vàng của các ngân hàng trung ương toàn cầu và trong bối cảnh môi trường địa chính trị và kinh tế ngày càng bất ổn, khó đoán định như hiện nay, các nhà quản lý dự trữ ngày càng thận trọng hơn, do đó xu hướng nắm giữ vàng được dự đoán sẽ vẫn tiếp tục.

Khảo sát của WGC thực hiện từ ngày 25/2 - 20/5/2025 cũng cho thấy mức độ quan tâm ngày càng cao của các ngân hàng trung ương toàn cầu đến hoạt động quản lý vàng. Số ngân hàng tham gia khảo sát năm nay là 73 ngân hàng thuộc nhiều khu vực địa lý khác nhau, con số lớn nhất trong 8 năm thực hiện khảo sát của Hội đồng Vàng thế giới.

Nhận định của các ngân hàng trung ương về xu hướng thay đổi dự trữ vàng toàn cầu trong 12 tháng tới

Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới
Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới

Kết quả khảo sát cho thấy 95% ngân hàng tham gia tin rằng tổng dự trữ vàng toàn cầu sẽ tiếp tục tăng trong 12 tháng tới, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ 81% vào năm trước.

Đối với câu hỏi khảo sát về kế hoạch đầu tư vào vàng, có tới 43% ngân hàng tham gia cho biết dự trữ vàng của họ sẽ tăng trong kỳ tới và không có ngân hàng nào sẽ giảm dự trữ vàng. Còn trong vòng 5 năm tới, 76% ngân hàng cho rằng vàng sẽ chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng dự trữ của họ (con số này năm trước là 69%).

Dự kiến thay đổi lượng vàng nắm giữ của từng ngân hàng trung ương trong 12 tháng tiếp theo

Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới
Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới

Nơi lưu trữ vàng phổ biến

WGC cũng thực hiện khảo khát về nơi lưu trữ vàng của các ngân hàng trung ương. Theo đó, Ngân hàng Trung ương Anh là lựa chọn phổ biến trong việc lưu giữ vàng ở nước ngoài (64%), tiếp theo là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (17%), Ngân hàng Thanh toán quốc tế (14%). Việc lưu trữ vàng ở các trung tâm tài chính quốc tế này có ưu điểm là thuận tiện cho việc mua bán, cho vay hoặc sử dụng làm tài sản thế chấp, giảm thiểu các chi phí liên quan đến vận hành kho lưu giữ so với lưu giữ vàng trong nước.

Tuy nhiên, việc lưu trữ ở nước ngoài cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như thiếu kiểm soát trực tiếp và rủi ro chủ quyền; rủi ro đối tác và rủi ro địa chính trị (từ phía nước lưu trữ); chi phí lưu kho phải trả định kỳ cho đơn vị lưu ký và chi phí vận chuyển về trong nước cao; thiếu minh bạch và khó xác minh thực tế sự tồn tại và an toàn của kho vàng khi tài sản được giữ ở nước ngoài.

Bên cạnh đó, các ngân hàng trung ương cũng có xu hướng tăng lưu giữ vàng ở trong nước với 59% số ngân hàng tham gia có lựa chọn lưu trữ vàng trong nước, tăng so với 41% vào năm ngoái. Lưu trữ vàng trong nước có thể gây hạn chế về tính thanh khoản và khả năng tiếp cận nhanh chóng các thị trường giao dịch vàng quốc tế lớn như London hay New York; đồng thời việc lưu trữ vàng trong nước yêu cầu chi phí cao để vận hành kho lưu trữ.

Tuy vậy, các ngân hàng trung ương vẫn chọn lưu giữ vàng trong nước bởi việc lưu giữ vàng trong nước giúp quốc gia đó có thể thực hiện quyền kiểm soát trực tiếp và toàn diện đối với tài sản này; chủ động hoàn toàn trong việc xây dựng và triển khai các biện pháp đảm bảo an ninh vật chất cho kho vàng theo tiêu chuẩn riêng; giảm thiểu các rủi ro liên quan đến đối tác lưu giữ ở nước ngoài hoặc các biến động địa chính trị toàn cầu. Trong những năm gần đây, một số quốc gia như Đức, Hà Lan, Áo, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ có xu hướng chuyển một phần hoặc toàn bộ vàng dự trữ đang được giữ ở nước ngoài về kho chứa trong nước.

Lý do chính của việc nắm giữ vàng của các ngân hàng trung ương

Về mặt lịch sử, vàng vốn được xem là tài sản chiến lược bởi các đặc tính độc đáo như lưu trữ giá trị, tính hiệu quả cao trong thời kỳ khủng hoảng và đa dạng hóa danh mục.

Khảo sát của WGC cho thấy có tới 85% số ngân hàng cho rằng hiệu suất của vàng trong khủng hoảng là rất quan trọng, 81% các ngân hàng đánh giá cao khả năng đa dạng hóa danh mục, 80% ngân hàng nhấn mạnh tới vai trò lưu giữ giá trị của vàng.

Trong những thời kỳ khủng hoảng, giá vàng thường tăng lên mạnh mẽ. Do đó hiệu suất của vàng được bảo toàn và là công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro lạm phát. Việc tăng cường dự trữ vàng còn góp phần củng cố niềm tin vào sự ổn định tài chính quốc gia và hệ thống tiền tệ.

Thời gian qua, ngân hàng trung ương các nước đã liên tục tăng lượng nắm giữ vàng do nhu cầu đa dạng hóa danh mục tài sản dự trữ ngoại hối, nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng đô la Mỹ (USD). Động thái này càng trở nên rõ rệt hơn trong bối cảnh các biện pháp trừng phạt tài chính gia tăng và lo ngại về vị thế của đồng USD trong hệ thống tài chính toàn cầu tương lai.

Khảo sát của WGC cũng cho thấy, 73% các ngân hàng trung ương tin rằng tỷ trọng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ giảm trong 5 năm tới, trong khi 76% dự báo tỷ trọng vàng sẽ tăng. Điều này phản ánh lo ngại của nhiều quốc gia, nhất là các nền kinh tế mới nổi, trước nguy cơ USD bị sử dụng làm “vũ khí tài chính” trong các lệnh trừng phạt.

Bên cạnh đó, môi trường địa chính trị thế giới ngày càng phức tạp với nhiều bất ổn leo thang, diễn biến bất ngờ đã thúc đẩy các WGC tìm đến vàng như một “tài sản trú ẩn an toàn”, có tính thanh khoản cao và trung lập về mặt chính trị.

Các lý do ngân hàng trung ương nắm giữ vàng

Nguồn: Hội đồng Vàng thế giới
Nguồn: Hội đồng Vàng thế giới

Có thể nói vai trò của vàng như một tài sản chiến lược của một quốc gia là không thể phủ nhận. Tuy vậy, chiến lược quản lý và nắm giữ vàng vẫn có nhiều sự khác biệt trong nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (EMDE) và nhóm các quốc gia có nền kinh tế phát triển.

Theo khảo sát của WGC, 43% tổ chức tham gia khảo sát cho biết trong vòng một năm tới họ sẽ tăng dự trữ vàng, cao hơn hẳn tỷ lệ 29% vào năm ngoái. Trong đó, các ngân hàng EMDE thể hiện xu hướng tích lũy vàng mạnh mẽ hơn so với các nền kinh tế phát triển. Điều này cũng phù hợp với xu hướng tăng mua vàng trong thực tế của các ngân hàng trung ương, đặc biệt là ngân hàng trung ương các nước trong nhóm EMDE.

Về hiệu suất của vàng trong khủng hoảng, tỷ lệ đồng ý với lý do này ở các nước thuộc nhóm EMDE là 87%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 77% ở nhóm các nước phát triển. Về vai trò vàng như một công cụ đa dạng hóa do bối cảnh địa chính trị, có 78% ngân hàng thuộc nhóm các nước EMDE đồng ý, trong khi ở nhóm các nước phát triển con số này chỉ 46%.

Trong một thế giới ngày càng bất ổn và khó dự đoán, các đặc tính của vàng như an toàn, thanh khoản, lợi nhuận, vốn là ba mục tiêu quản lý của các ngân hàng trung ương lại càng trở nên quan trọng, khiến nhu cầu về nắm giữ vàng của các ngân hàng trung ương được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần. Tuy nhiên, xu hướng mua này cũng còn có sự khác biệt giữa các quốc gia, tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế, chính trị trong nước, quy mô dự trữ ngoại hối cũng như mục tiêu quản lý của ngân hàng trung ương quốc gia đó.

Đàm Hương - Trung Thành

Tin bài khác

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Đề án nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ là một dấu mốc kỹ thuật trong phân loại quốc tế, mà còn góp phần tăng quy mô vốn hóa và thanh khoản ổn định, nâng cao chất lượng doanh nghiệp niêm yết, củng cố năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng, đồng thời cải thiện vị thế và hình ảnh quốc gia trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng thông qua giáo dục tài chính là rất cần thiết nhằm nâng cao dân trí tài chính, giúp người dân hiểu rõ hơn về các kiến thức liên quan, tiếp cận công cụ tài chính an toàn, quản lý tài chính cá nhân hiệu quả và giảm thiểu rủi ro từ tín dụng đen và các hình thức lừa đảo, đặc biệt là lừa đảo trực tuyến.
Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một mô hình quản trị linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Giang, giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường tính minh bạch, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là cơ chế áp thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu vào EU, với mục đích bảo đảm rằng hàng hóa sản xuất bên ngoài EU không được hưởng lợi từ việc phát thải cao hơn tiêu chuẩn của EU, được đề xuất chính thức vào tháng 7/2021 và bắt đầu áp dụng thử nghiệm vào năm 2023, với việc triển khai toàn diện dự kiến từ năm 2026.
Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Trong kỷ nguyên số hóa toàn diện, hành vi tiêu dùng đang chuyển dịch mạnh mẽ, đặc biệt trong phương thức thanh toán, mô hình mua trước trả sau ngày càng phổ biến nhờ tính linh hoạt, không yêu cầu thẻ tín dụng và không phát sinh lãi suất trong ngắn hạn.
Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Tại Việt Nam, hầu hết doanh nghiệp vẫn đối mặt với thách thức về dự báo dòng tiền và quản lý vốn lưu động, dẫn đến áp lực về thanh toán và chi phí vốn cao. Do đó, việc học tập kinh nghiệm quản trị dòng tiền của các doanh nghiệp lớn trên thế giới là điều cần thiết giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao hiệu quả sử dụng dòng tiền, góp phần cải thiện năng lực tài chính và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của công nghệ, tài chính số đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Tài chính toàn diện - với mục tiêu bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính chất lượng và chi phí phải chăng, đang ngày càng được quan tâm trên toàn thế giới. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được tài chính toàn diện là hiểu biết tài chính số, giúp người dân có thể tận dụng các công cụ và dịch vụ tài chính hiện đại một cách hiệu quả.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô