
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị
1. Tình hình kinh tế - tài chính thế giới
Kinh tế toàn cầu tăng trưởng cải thiện chậm trong điều kiện bất định về thương mại gia tăng. Theo Liên hợp quốc - UN (tháng 01/2025), tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ duy trì ở mức 2,8% vào năm 2025, không thay đổi so với năm 2024 và phụ thuộc vào hai nền kinh tế hàng đầu là Mỹ và Trung Quốc. Trong báo cáo kinh tế sơ bộ “Vượt qua sự không chắc chắn” phát hành tháng 3/2025, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 3,1% năm 2025, giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2024, do các rào cản thương mại cao hơn ở một số nền kinh tế thuộc nhóm G20, sự gia tăng bất ổn về địa chính trị, chính sách đã gây áp lực lên đầu tư và chi tiêu hộ gia đình.
Kinh tế Mỹ ước tính tăng trưởng - 0,3% trong quý I/2025, thấp hơn mức 0,8% của kỳ vọng và mức 2,4% của quý IV/2024. Hoạt động sản xuất, kinh doanh đang chịu áp lực do sự không nhất quán xung quanh chính sách thuế quan của Mỹ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất chế tạo. Chỉ số Quản lý thu mua (PMI) sản xuất của Mỹ giảm từ 52,7 vào tháng 02/2025 xuống còn 50 vào tháng 3/2025. Tâm lý người tiêu dùng hiện đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 11/20221. Riêng trong quý I/2025, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã hạ dự báo tăng trưởng GDP Mỹ từ mức 2,3% trước đó xuống còn 1,5%; JPMorgan hạ dự báo tăng trưởng của kinh tế Mỹ xuống 1,5% so với ước tính trước đó là 2,25%; Goldman Sachs hạ dự báo còn 1,6%, thay cho mức dự báo đưa ra cuối tháng 01/2025 là 2,6%2.
Đối với Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế trong quý I/2025 đạt mức 5,4%, trong bối cảnh căng thẳng thương mại với Mỹ leo thang. Chỉ số PMI sản xuất tháng 3/2025 đạt 50,5%, phục hồi tháng thứ hai liên tiếp và là mức cao nhất của chỉ số này kể từ tháng 3/2024. OECD dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt 4,8% năm 2025, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 12/2024 nhưng vẫn thấp hơn 0,2 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 5,0% của năm 2024, mặc dù những tác động tiêu cực của chính sách thuế quan phần lớn đã được bù đắp bằng sự hỗ trợ chính sách. Theo UN, triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc đang giảm dần, với mức tăng trưởng đạt 4,9% năm 2024 và dự báo đạt 4,8% năm 2025, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2024. Đầu tư công và hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ bù đắp một phần cho tăng trưởng tiêu dùng chậm lại và sự yếu kém kéo dài trong lĩnh vực bất động sản. Chính quyền Trung Quốc đã tăng cường hỗ trợ chính sách để thúc đẩy thị trường bất động sản, giải quyết các thách thức về nợ của chính quyền địa phương và thúc đẩy nhu cầu trong nước. Dân số giảm, căng thẳng thương mại và công nghệ gia tăng, nếu không được giải quyết, có thể làm suy yếu triển vọng tăng trưởng trung hạn.
Kinh tế khu vực đồng Euro cũng tăng trưởng chậm trong quý I/2025 (khoảng 0,3%) do chính sách tiền tệ thắt chặt trước đó; đáng chú ý, kinh tế Đức - một trụ cột kinh tế EU, có khả năng tăng trưởng chậm hơn so với các nước khác. OECD nhận định khu vực đồng Euro sẽ ít chịu tác động kinh tế trực tiếp từ các biện pháp thuế quan do chính quyền Donald Trump áp đặt đối với hàng nhập khẩu nhưng gia tăng bất ổn về địa chính trị và chính sách vẫn có khả năng kìm hãm tăng trưởng của khu vực này. OECD dự báo tăng trưởng của khu vực đồng Euro sẽ tăng nhẹ từ 0,7% năm 2024 lên 1,0% năm 2025, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2024.
Lạm phát có xu hướng giảm. Lạm phát của khu vực đồng Euro giảm nhẹ còn 2,2% trong tháng 3/20253 do giá của dịch vụ và năng lượng giảm. Đáng chú ý, mặc dù Trung Quốc đang áp dụng gói kích cầu quy mô lớn, nhưng vẫn giảm phát (lạm phát giảm từ 0,5% tháng 01/2025 còn -0,1% trong tháng 3/2025). Lạm phát của Mỹ giảm đáng kể còn 2,4% trong tháng 3/2025 (tháng 02/2025 là 2,8%)4. Lạm phát giảm tại Thái Lan (từ 1,08% trong tháng 02/2025 còn 0,84% trong tháng 3/2025 do giá năng lượng thấp hơn và các chính sách của chính phủ nhằm giảm bớt áp lực chi phí sinh hoạt). IMF nhận định lạm phát toàn cầu giảm xuống còn 4,2% trong năm 2025 so với mức 5,8% trong năm 2024. Tuy nhiên, lạm phát dịch vụ vẫn cao hơn lạm phát hàng hóa, đặc biệt ở các nền kinh tế phát triển và thị trường mới nổi. Theo OECD, lạm phát chung cho các nền kinh tế G20 sẽ giảm từ 3,8% năm 2025 xuống còn 3,2% năm 2026. Lạm phát cơ bản dự kiến sẽ vẫn cao hơn mục tiêu của ngân hàng trung ương tại nhiều quốc gia, bao gồm cả Hoa Kỳ, vào năm 2026. Các yếu tố dự kiến sẽ ảnh hưởng khác nhau đến lạm phát toàn cầu năm 2025, gồm: Giá năng lượng và thực phẩm giảm; tác động trễ của chính sách tiền tệ thắt chặt; khả năng thay đổi chính sách thương mại và tăng thuế quan có thể làm tăng lạm phát; bất ổn và xung đột địa chính trị có thể dẫn đến cú sốc cung và giá hàng hóa tăng cao hơn; phục hồi trong lĩnh vực dịch vụ có thể khiến lạm phát tăng cao hơn; tăng trưởng tiền lương mạnh mẽ ở một số nền kinh tế có khả năng gây áp lực lạm phát.
Thương mại hàng hóa toàn cầu tăng nhưng có khả năng suy giảm mạnh do sự gia tăng thuế quan và sự bất ổn trong chính sách thương mại5. Giá trị thước đo thương mại hàng hóa tháng 01/2025 đạt 102,8, tăng 0,1 điểm phần trăm so với tháng 12/2024. Điều này cho thấy thương mại hàng hóa có xu hướng tăng trong đầu năm 2025. Nguyên nhân chính có thể do sự gia tăng bất ổn về chính sách thương mại đã thúc đẩy thương mại trong ngắn hạn khi các doanh nghiệp và người tiêu dùng tăng cường nhập khẩu trong bối cảnh không chắc chắn về chính sách thương mại. Tuy nhiên, xu hướng này có thể giảm vào cuối năm 2025. Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo, tăng trưởng thương mại toàn cầu sẽ tăng lên mức trung bình khoảng 3,1% trong giai đoạn 2025 - 2026, tăng 0,4 điểm phần trăm so với mức 2,7% trong năm 2024. UN dự báo tăng trưởng khối lượng thương mại toàn cầu đạt 3,2% trong năm 2025, thấp hơn 0,1 điểm phần trăm so với mức tăng 3,3% năm 2024. Theo các tổ chức quốc tế, thương mại toàn cầu năm 2025 có mức độ bất ổn cao. Nguyên nhân là do căng thẳng địa chính trị gia tăng; các rào cản thương mại mới nổi và khả năng gia tăng các hạn chế thương mại, đặc biệt là những hạn chế liên quan đến Hoa Kỳ và Trung Quốc; bất ổn về chính sách thương mại liên quan đến các thay đổi chính sách sau bầu cử và áp đặt thuế quan của Hoa Kỳ.
Về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu: Năm 2025, nền kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng tăng trưởng chậm lại so với giai đoạn trước đại dịch. Theo WB, tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo đạt 2,7% trong năm 2025, giảm so với mức 3,0% của năm 2024. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, tháng 4/2025) dự báo GDP toàn cầu sẽ giảm mạnh từ mức 3,3% (năm 2024) xuống 2,8% (năm 2025) và 3% (năm 2026), thấp hơn lần lượt 0,5 và 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2025, trong đó: tăng trưởng GDP của các nước phát triển giảm xuống còn 1,4% (năm 2025) và 1,5% (năm 2026); tăng trưởng của các nước đang phát triển cũng giảm mạnh từ mức 4,3% (năm 2024) xuống còn 3,7% (năm 2025) và 3,9% (năm 2026). Tuy vậy, rủi ro triển vọng kinh tế toàn cầu sẽ khó đoán định do căng thẳng thương mại và chính sách thuế quan, do đó, IMF đã xem xét bổ sung hai kịch bản gồm: (i) Kịch bản dự báo trước ngày 02/4/2025, GDP toàn cầu sẽ tăng 3,2% trong năm 2025 - 2026, mỗi năm giảm 0,1% so với dự báo đưa ra hồi tháng 01/2025; (ii) Kịch bản dự báo sau ngày 09/4/2025, GDP toàn cầu sẽ tăng 2,8% trong năm 2025 và tăng khoảng 2,9% trong năm 2026.
Cùng với đó, chính sách thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương, đặc biệt là Fed và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), tiếp tục tác động đến tăng trưởng kinh tế. Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung tiếp tục ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu, với mức thuế mới áp dụng cho nhiều mặt hàng công nghệ. Chiến sự tại một số khu vực như Đông Âu và Trung Đông cũng làm tăng giá năng lượng, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất toàn cầu. IMF dự báo lạm phát toàn cầu sẽ giảm từ mức 5,7% trong năm 2024 xuống 4,3% trong năm 2025 và 3,6% trong năm 2026. Trong đó, tại các nước phát triển, lạm phát sẽ giảm dần về mục tiêu của ngân hàng trung ương xuống tỉ lệ 2,5% (năm 2025) và 2,2% (năm 2026); tại các nước đang phát triển, lạm phát năm 2025 - 2026 giảm xuống còn 5,5% và 4,6%. Năm 2025, thương mại toàn cầu được dự báo giảm xuống mức 1,7%, thấp hơn 1,5% của dự báo tháng 01/2025, phản ánh tác động tiêu cực của chính sách thuế đến các dòng thương mại, xóa nhòa tác động tích cực mang tính chu kỳ trong hoạt động thương mại gần đây.
Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2022 - 2026 (%)
![]() |
Nguồn: IMF, WB, OECD |
2. Tình hình kinh tế - tài chính trong nước
GDP quý I/2025 ước tính tăng 6,93% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức tăng cao nhất so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2020 - 20256. Kết quả tăng trưởng này đã vượt mục tiêu đặt ra cho quý I/2025 của kịch bản tăng trưởng cả năm 2025 là 6,5 - 7,0% tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2025 của Chính phủ7, nhưng chưa đạt mục tiêu phấn đấu của kịch bản tăng trưởng năm 2025 đạt 8,0% do thế giới biến động nhanh8, nhiều bất ổn đã ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội nước ta. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế: (i) Khu vực dịch vụ tăng 7,7%, đóng góp 53,74% nhờ các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao; (ii) Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,42%, đóng góp 40,17% nhờ một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng khá, đáp ứng nhu cầu đơn hàng mới của doanh nghiệp; (iii) Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,74%, đóng góp 6,09%.
4 tháng đầu năm 2025, sản xuất công nghiệp tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tình hình doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, cả nước có hơn 51,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là hơn 68,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 12,9%; gần 20,2 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 5,7%; hơn 7,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 26,1%. Tiêu dùng trong nước tăng cao trong các kỳ nghỉ lễ, Tết đầu năm; số lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng cao là các nhân tố đóng góp tích cực cho tăng trưởng của ngành thương mại, dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 76,7% tổng mức và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú, ăn uống chiếm 11,8% tổng mức và tăng 14,9%; doanh thu du lịch lữ hành tăng 24,5%.
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng trưởng tích cực, cán cân thương mại duy trì trạng thái xuất siêu, nhưng cũng đối mặt với những thách thức từ căng thẳng thương mại quốc tế. Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 276,89 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, xuất khẩu hàng hóa đạt 140,34 tỉ USD, tăng 13,0%; nhập khẩu hàng hóa đạt 136,55 tỉ USD, tăng 18,6%; cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 3,79 tỉ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 9,06 tỉ USD).
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2025 theo giá hiện hành đạt khoảng 666,5 nghìn tỉ đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu nhờ đầu tư của khu vực Nhà nước và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tính đến hết tháng 4/2025, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới, đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 13,82 tỉ USD, tăng 39,9% so với cùng kỳ năm trước; vốn FDI thực hiện đạt khoảng 6,74 tỉ USD - mức cao nhất của 4 tháng trong 5 năm qua, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước.
Chính sách tài khóa được triển khai theo hướng tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế. Thu ngân sách nhà nước (NSNN) tiếp tục tăng mạnh; chi NSNN được thực hiện theo dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn, chăm lo cho các đối tượng hưởng lương, lương hưu và trợ cấp xã hội từ NSNN, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội...
Về điều hành chính sách tài khóa, nhiều giải pháp về thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất… đã được ban hành nhằm tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện chính sách giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 10% trong 6 tháng đầu năm 2025 theo Nghị quyết số 174/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội; tiếp tục giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn áp dụng cho năm 2025 như đã áp dụng trong năm 2024 theo Nghị quyết số 60/2024/UBTVQH15 ngày 24/12/2024 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đã thực hiện điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu của nhiều nhóm hàng hóa để hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, góp phần cân bằng thương mại với các đối tác thương mại lớn; đồng thời, kéo dài Chương trình ưu đãi thuế đối với công nghiệp hỗ trợ ô tô đến hết năm 2027 để tiếp tục hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô trong nước. Về lệ phí trước bạ, thực hiện ưu đãi lệ phí trước bạ đối với ô tô điện chạy pin và tiếp tục thực hiện giảm mức thu phí, lệ phí từ 10% đến 50% nhằm khuyến khích sử dụng dịch vụ công trực tuyến (áp dụng đến hết năm 2025). Thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2025 theo Nghị định số 82/2025/NĐ-CP ngày 02/4/2025, gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước theo Nghị định số 81/2025/NĐ-CP ngày 02/4/2025.
Trong 4 tháng đầu năm 2025, thu NSNN ước đạt 944,1 nghìn tỉ đồng, bằng 48,0% dự toán năm và tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước; chi NSNN ước đạt 595,4 nghìn tỉ đồng, bằng 23,4% dự toán năm và tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát được kiểm soát; mặt bằng lãi suất ổn định và có xu hướng giảm nhẹ; tuy nhiên, tỉ giá và giá vàng liên tục tăng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2025 tăng 0,07% so với tháng trước do giá nhà ở thuê, giá thực phẩm và ăn uống ngoài gia đình tăng. Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, CPI bình quân tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,05%.
3. Triển vọng và thách thức đối với kinh tế Việt Nam
Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được9, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường. Một số yếu tố tích cực đang hỗ trợ cho triển vọng này, bao gồm đà phục hồi rõ nét của xuất, nhập khẩu trong quý I/2025, giải ngân đầu tư công được thúc đẩy mạnh mẽ, và dòng vốn FDI tiếp tục chảy mạnh vào các ngành công nghệ cao, điện tử, năng lượng. Tiêu dùng nội địa đang hồi phục nhờ ổn định vĩ mô và niềm tin thị trường được củng cố. Tuy nhiên, thách thức lớn vẫn đến từ môi trường quốc tế bất ổn, năng suất lao động trong nước còn thấp và khả năng hấp thụ vốn chưa được cải thiện rõ rệt ở nhiều địa phương.
Một số điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2025 được nhận định như sau:
Thứ nhất, đầu tư công quy mô lớn là động lực tăng trưởng quan trọng. Với kế hoạch giải ngân hơn 800.000 tỉ đồng trong năm 2025, tập trung vào các lĩnh vực then chốt như hạ tầng giao thông, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số. Do đó, nếu được thực hiện hiệu quả sẽ có tác động lan tỏa sang khu vực tư nhân, kích thích tổng cầu và tạo việc làm.
Thứ hai, sự dịch chuyển của dòng vốn FDI tiếp tục là điểm sáng khi Việt Nam được xem là điểm đến hấp dẫn nhờ ổn định chính trị, chi phí cạnh tranh và vị trí địa chiến lược trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Các dự án FDI mới đang gia tăng trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như bán dẫn, trung tâm dữ liệu, năng lượng tái tạo, từ đó góp phần mở rộng xuất khẩu và nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Thứ ba, tiêu dùng nội địa cũng đang phục hồi vững chắc nhờ thu nhập người dân cải thiện, tỉ lệ thất nghiệp thấp và tâm lý tiêu dùng tích cực hơn. Các chính sách kích cầu, như giảm thuế VAT, hỗ trợ doanh nghiệp và khuyến khích tiêu dùng thông minh, tiếp tục đóng vai trò hỗ trợ tăng trưởng.
Thứ tư, ngành du lịch và các dịch vụ liên quan như lưu trú, vận chuyển, bán lẻ và giải trí đều đang hồi phục nhanh chóng, trở thành động lực tăng trưởng mới. Việt Nam cũng đang duy trì được ổn định vĩ mô, với tỉ giá được kiểm soát, lạm phát ở mức hợp lý và dự trữ ngoại hối tăng. Niềm tin của nhà đầu tư và doanh nghiệp vào chính sách điều hành đang được củng cố, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững.
Tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Cụ thể:
Thứ nhất, căng thẳng thuế quan sẽ làm giảm khả năng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ thời gian tới do thuế nhập khẩu tăng. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng lo ngại nguy cơ bị áp thuế cao do Việt Nam hiện là đối tác gây thâm hụt thương mại lớn thứ ba của Mỹ. Lạm phát có khả năng tăng cao hơn ở Mỹ do tăng thuế nhập khẩu cũng có thể ảnh hưởng đến giá hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam, đặc biệt là giá một số sản phẩm liên quan đến thức ăn chăn nuôi, khí hóa lỏng.
OECD (tháng 3/2025) ước tính, thuế quan song phương được nâng cao hơn nữa đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu phi hàng hóa vào Hoa Kỳ với sự gia tăng tương ứng của thuế quan áp dụng cho nhập khẩu phi hàng hóa từ Hoa Kỳ ở tất cả các quốc gia khác có thể làm sản lượng toàn cầu giảm 0,3% vào năm thứ ba, lạm phát toàn cầu tăng 0,4 điểm phần trăm mỗi năm trong ba năm đầu tiên, làm tăng thêm áp lực giảm chi tiêu của hộ gia đình và doanh nghiệp trên toàn cầu. Tác động của những cú sốc này sẽ lớn hơn nếu sự bất ổn về chính sách tiếp tục gia tăng hoặc có sự định giá lại rủi ro trên thị trường tài chính.
Thứ hai, giá dầu thế giới và lạm phát thế giới hạ nhiệt giúp giảm áp lực lạm phát đối với Việt Nam. Mặc dù vậy, lạm phát có khả năng quay trở lại ở một số quốc gia (như Mỹ) và áp lực chi phí đầu vào tăng do đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu có thể ảnh hưởng tới lạm phát và giá cả hàng hóa tại Việt Nam thời gian tới.
Bên cạnh đó, nợ công dự kiến duy trì ở mức cao do gia tăng nhu cầu vay để thúc đẩy tăng trưởng, thực hiện chuyển đổi xanh, giải quyết các vấn đề mang tính cơ cấu về già hóa dân số và bảo đảm ngân sách quốc phòng trong bối cảnh bất ổn gia tăng. Nợ công toàn cầu ước đạt 93% GDP toàn cầu, tương ứng với 100 nghìn tỉ USD vào cuối năm 2024, là mức cao nhất trong lịch sử. Trong kịch bản xấu nhất, IMF dự báo nợ công có thể đạt 115% GDP toàn cầu trong ba năm tới. Nguy cơ vỡ nợ vẫn là thách thức thường trực, chưa giải quyết triệt để tại nhiều nước thu nhập thấp. Cùng với đó là rủi ro về tỉ giá gia tăng với xu hướng mạnh lên của đồng USD. Những biện pháp thuế quan đối với hàng nhập khẩu và chính sách hỗ trợ tài khóa sẽ khiến rủi ro lạm phát quay trở lại và FED có thể sẽ thận trọng hơn với lộ trình cắt giảm suất, trong khi mức lợi suất trái phiếu của Chính phủ Mỹ tăng cao. Tất cả những yếu tố này đều sẽ củng cố đà tăng của đồng USD. Trong ngắn hạn, USD mạnh hơn sẽ làm tăng rủi ro giảm giá cho VND. Điều này có thể ảnh hưởng đến kế hoạch vay và trả nợ của Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ ba, ở trong nước, năng suất lao động tuy có sự cải thiện nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, trong khi nền kinh tế chủ yếu vẫn tăng trưởng theo chiều rộng. Việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, kinh tế số và xanh còn ở giai đoạn đầu, chưa tạo ra đột phá rõ rệt về năng lực cạnh tranh. Tiến độ giải ngân đầu tư công tuy được cải thiện nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu ở nhiều địa phương, do vướng mắc về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng và năng lực triển khai. Thể chế, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư công, đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), năng lượng và logistics, còn thiếu tính đồng bộ và linh hoạt. Ngoài ra, áp lực lạm phát còn tiềm ẩn có thể khiến giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu trên thế giới tăng đột biến. Tỉ giá và thị trường tài chính trong nước cũng cần được theo dõi sát sao, nhất là trong bối cảnh các nền kinh tế lớn duy trì lãi suất cao. Rủi ro từ nợ xấu ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản tiếp tục là mối lo ngại, làm giảm hiệu ứng lan tỏa từ khu vực tài chính sang sản xuất - tiêu dùng.
Bảng 2: Dự báo tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam năm 2025
![]() |
Nguồn: Tổng hợp |
4. Đề xuất một số giải pháp
Thứ nhất, cần tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ; đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, nhằm phát huy hiệu quả các cơ chế, chính sách, quy định mới, đột phá đã ban hành, qua đó tháo gỡ và giải phóng nguồn lực của nền kinh tế. Khẩn trương, nghiêm túc thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2025 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
Thứ hai, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư công: Đầu tư công tiếp tục giữ vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng trong năm 2025. Để tạo tác động lan tỏa đến toàn bộ nền kinh tế, Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ giải ngân, đồng thời nâng cao chất lượng triển khai bằng cách gắn trách nhiệm giải ngân với người đứng đầu bộ, ngành, địa phương. Tháo gỡ nhanh các nút thắt về pháp lý như giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư, đấu thầu. Tăng cường giám sát đi kèm hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương còn yếu về năng lực triển khai sẽ giúp đảm bảo vốn đầu tư được sử dụng đúng nơi, đúng lúc và đúng mục tiêu.
Thứ ba, theo dõi sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước, gắn với việc nâng cao chất lượng công tác phân tích, dự báo; chủ động xây dựng các phương án, giải pháp đồng bộ, toàn diện để có phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, nhất là đối với những vấn đề mới phát sinh, vấn đề khó, nhạy cảm. Trong đó, cần theo dõi chặt chẽ nguy cơ suy giảm kinh tế của Mỹ và biến động lãi suất của Mỹ nhằm dự báo nguy cơ suy giảm toàn cầu và các bất ổn vĩ mô, sức ép tỉ giá và lạm phát trong nước. Phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm trọng điểm với chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả và các chính sách vĩ mô khác nhằm giữ vững nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Thứ tư, rà soát, cắt giảm, bãi bỏ các thủ tục, điều kiện kinh doanh không còn phù hợp. Kịp thời giải đáp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo mọi điều kiện giải quyết nhanh các thủ tục đầu tư, khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư nhằm thu hút các dự án FDI quy mô lớn, công nghệ cao.
Thứ năm, phát triển thị trường tài chính lành mạnh và bền vững: Xây dựng một hệ thống tài chính phát triển lành mạnh là điều kiện để phân bổ vốn hiệu quả, giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng và tăng sức chống chịu của nền kinh tế. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tăng cường minh bạch thông tin và nâng chuẩn mực giám sát. Thúc đẩy vai trò của các định chế tài chính trung gian, đặc biệt là công ty xếp hạng tín nhiệm, để hỗ trợ nhà đầu tư đánh giá rủi ro tốt hơn. Mở rộng kênh huy động vốn cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm, fintech và sàn giao dịch khởi nghiệp. Nghiên cứu triển khai hệ thống giám sát tài chính tích hợp, giúp phát hiện sớm rủi ro vĩ mô từ các thị trường tín dụng, trái phiếu và bất động sản.
Sớm xây dựng và phát triển Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam, cụ thể là ở Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng để phát triển thị trường tài chính, thu hút vốn, huy động có hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm minh bạch, hiệu quả. Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế hiện đại, tiên tiến, bắt kịp các chuẩn mực quốc tế; tạo động lực mới cho nền kinh tế phát triển; thúc đẩy quá trình tham gia sâu rộng vào kinh tế thế giới của Việt Nam
Thứ sáu, kiểm soát lạm phát và đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường từng mặt hàng, đặc biệt là các hàng hóa, dịch vụ thiết. Chủ động rà soát các phương án điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý, các dịch vụ công đang triển khai lộ trình thị trường, đánh giá kỹ tác động đối với mặt bằng giá, mục tiêu kiểm soát lạm phát để có phương án điều chỉnh giá phù hợp. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng hợp, phân tích, dự báo, xây dựng các kịch bản, phương án ứng phó trong trường hợp các hàng hóa trên thị trường thế giới tiếp tục tăng cao để điều hành sản xuất trong nước, cân đối và điều hành cung cầu, góp phần giữ ổn định giá cả thị trường.
1Kết quả khảo sát tâm lý người tiêu dùng do Đại học Michigan công bố cho thấy, chỉ số này giảm xuống 57,9 trong tháng 3/2025 - thấp hơn mức điều chỉnh của tháng 02 là 64,7 và thấp hơn nhiều so với dự báo là 63,1
2Morgan Stanley hạ dự báo tăng trưởng 2025 của Mỹ xuống 1,5% (từ mức 1,9%)
3Tháng 02/2025 là 2,33% và 01/2025 là 2,52%
4Nguồn: tradingeconomics.com
5WTO (Tháng 3/2025), “Thước đo thương mại hàng hóa tháng 01/2025”, https://www.wto.org/english/news_e/news25_e/wtoi_12mar25_e.pdf, truy cập ngày 24/3/2025.
6Tốc độ tăng GDP quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2020 - 2025 lần lượt là: 3,21%; 4,85%; 5,42%; 3,46%; 5,98% và 6,93%.
7Kịch bản tăng trưởng GDP cả năm 2025 đạt từ 6,5% - 7,0%, trong đó tăng trưởng của quý I/2025 đạt 6,2% - 6,6%.
8Theo đó, mục tiêu tăng trưởng của quý I/2025 là 7,7%.
9Kết quả phân tích cho thấy đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 8% là kịch bản lạc quan, với khả năng đạt được từ mức thấp tới trung bình (với xác suất khoảng 30%) với 04 điều kiện: (1) Đầu tư công hiệu quả; (2) FDI tăng mạnh; (3) Tiêu dùng phục hồi; (4) Xuất khẩu cải thiện.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo số 158/BC-BTC ngày 05/5/2025 của Bộ Tài chính về Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2025.
2. Báo cáo số 106/BC-CTK ngày 06/5/2025 của Cục Thống kê về Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2025.
3. OECD (3/2025), Báo cáo kinh tế sơ bộ “Vượt qua sự không chắc chắn”, https://www.oecd.org/en/publications/oecd-economic-outlook-interim-report-march-2025_89af4857-en.html
4. FR (3/2025), Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2025, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-march-2025-18-03-2025
5. UN (01/2025), “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới tháng 01/2025”, https://www.un.org/development/desa/dpad/publication/world-economic-situation-and-prospects-2025/
6. IMF (04/2025), World economic outlook: A critical juncture amid policy shifts, https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2025/04/22/world-economic-outlook-april-2025
7. WB (3/2024), Báo cáo điểm lại tháng 3/2025 - Hành trình bứt phá chuyển đổi sang xe điện tại Việt Nam, https://www.worldbank.org/vi/news/press-release/2025/03/12/viet-nam-s-economy-forecast
Tin bài khác


Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam
