Một số giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Thị trường tài chính
Xác định kinh tế tư nhân là trụ cột quan trọng cũng góp phần nâng cao năng lực nội sinh, củng cố vị thế tự lực, tự cường của nền kinh tế. Hoài bão về một đất nước Việt Nam thịnh vượng, hùng cường và tự chủ về kinh tế cũng sẽ trở nên gần hơn, khả thi hơn khi có sự chung tay của người dân và khu vực kinh tế tư nhân.
aa

Tóm tắt: Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: "Kinh tế tư nhân nước ta trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế và ngày càng thể hiện là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia". Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đang tạo ra hơn 50% GDP của nền kinh tế, đóng góp khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế. Do đó, để phát huy tiềm năng này, cần có những quyết sách mạnh mẽ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững.

Từ khóa: Kinh tế tư nhân, phát triển bền vững, doanh nghiệp.

PRIVATE SECTOR AND THE SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF ECONOMY

Abstract: The private sector plays a crucial role in the sustainable development of Vietnam’s economy. General Secretary Tô Lâm has affirmed: "Our country’s private sector has become one of the most important pillars of the economy and is considered the most significant driver of national economic growth". Currently, the private sector contributes more than 50% of the country’s GDP, accounts for approximately 30% of state budget revenue, attracts 85% of the labor force, and serves as the primary driver of economic growth. Therefore, stronger policies are needed to further promote the development of the private sector.

Keywords: Private sector, sustainable development, enterprises.

1. Kinh tế tư nhân chiếm hơn 50% GDP của cả nước

Trong gần bốn thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, chuyển mình từ một thành phần kinh tế còn nhỏ lẻ, manh mún thành một trụ cột quan trọng của nền kinh tế.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện đóng góp hơn 50% GDP. Trong đó, bộ phận doanh nghiệp đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP, khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác chiếm khoảng 40% GDP. Khu vực này tạo việc làm cho khoảng 85% lao động cả nước.

Như vậy, kinh tế tư nhân hiện nay quyết định tới số lượng và chất lượng hơn 50% GDP của Việt Nam. Việt Nam không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững và cũng không thể chuyển dịch sang nền kinh tế dựa nhiều trên công nghệ, đổi mới sáng tạo nếu như khu vực kinh tế tư nhân không tăng trưởng ở tốc độ cao, cũng như không chuyển mình mạnh mẽ để hấp thụ, phổ biến công nghệ và đổi mới sáng tạo.

2. Vai trò của kinh tế tư nhân đối với tổng cầu và mục tiêu tăng trưởng

Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong tổng cầu và do vậy đóng vai trò quyết định đối với tốc độ tăng trưởng. Sự đóng góp này thể hiện qua đầu tư tư nhân, tiêu dùng của doanh nghiệp, các cơ sở kinh tế và đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân cho xuất, nhập khẩu.

Từ góc độ tổng cầu, khu vực kinh tế tư nhân hiện đang đóng góp tới gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ góc độ đầu tư vốn - một cấu phần quan trọng của tổng cầu, khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng về đầu tư. Kinh tế tư nhân hiện đóng góp 56% tổng đầu tư toàn xã hội. Đây là tỉ trọng rất cao so với mức 28% của khu vực kinh tế nhà nước và 16% của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt khoảng 174 tỉ USD vào năm 2025, đầu tư tư nhân sẽ đóng góp khoảng 96 tỉ USD, xấp xỉ 56%. Đầu tư công sẽ chỉ đóng góp khoảng 36 tỉ USD, khu vực FDI khoảng 28 tỉ USD và đầu tư khác khoảng 14 tỉ USD.

Như vậy, chỉ cần đầu tư của kinh tế tư nhân tăng 1% sẽ mang lại mức tăng về giá trị tuyệt đối tương đương với việc đầu tư công phải tăng 2,5% và đầu tư nước ngoài phải tăng 3,5%. Tác động của tăng trưởng đầu tư tư nhân trong nước đối với tổng cầu lớn hơn rất nhiều so với đầu tư từ khu vực công và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Khác với đầu tư công và đầu tư nước ngoài vốn có những hạn chế để mở rộng về khối lượng như các giới hạn về trần nợ công, về áp lực đối với ngân sách nhà nước hay các cân nhắc về tỉ trọng cũng như chất lượng đầu tư FDI trong bài toán tổng thể về đầu tư của nền kinh tế, tiềm năng mở rộng đầu tư từ khu vực kinh tế trong nước là rất lớn nếu nhìn vào tài sản hiện vẫn được người dân nắm giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ, đất đai và tiết kiệm gửi trong hệ thống ngân hàng. Mở rộng đầu tư tư nhân sẽ nâng cao được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và có tính chất bền vững hơn.

3. Đóng góp của các doanh nghiệp tư nhân cho an sinh xã hội, góp phần hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Các doanh nghiệp tư nhân đã vượt qua khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực FDI, khu vực hành chính công về phương diện tạo thu nhập cho người lao động và khoảng cách này ngày một nới rộng hơn. Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đang tạo việc làm và sinh kế cho khoảng 85% lực lượng lao động. Việc làm do các doanh nghiệp khu vực tư nhân tạo ra đã giúp hàng triệu lao động chuyển từ công việc có mức lương thấp trong lĩnh vực nông nghiệp sang những ngành có năng suất và thu nhập cao hơn.

Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân không chỉ tạo sinh kế, việc làm mà còn tạo cơ hội để việc làm tốt hơn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người dân, đóng góp cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.

Các doanh nghiệp tư nhân đóng góp đáng kể vào sự mở rộng phạm vi che phủ của bảo hiểm xã hội và các chương trình an sinh xã hội. Do tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước suy giảm, lao động trong khu vực nhà nước và khu vực công có xu hướng giảm. Đặc biệt, trong bối cảnh sắp xếp lại bộ máy nhà nước như hiện nay, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đóng vai trò chủ chốt trong việc tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội trên cả nước từ 9,2 triệu người năm 2010 lên khoảng 17,5 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, đạt 38,08% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 14,3 triệu người tham gia bảo hiểm tự nguyện, đạt 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi tính đến năm 2023.

Với những nỗ lực đang tiếp diễn về cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải cách khu vực công, rõ ràng kinh tế tư nhân sẽ là khu vực chịu trách nhiệm chính cho mục tiêu đến năm 2025 có khoảng 45% và đến năm 2030 có khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Những điều này cho thấy kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

4. Lực lượng chính để chuyển dịch mô hình tăng trưởng và bảo đảm chất lượng tăng trưởng

Kể từ khi nền kinh tế bắt đầu công cuộc Đổi mới, mô hình tăng trưởng trong thời gian vừa qua đã giúp Việt Nam tận dụng được những lợi thế về lao động giá rẻ, tài nguyên đất đai, vị trí địa lý, khả năng nắm bắt cơ hội từ thương mại quốc tế. Chúng ta đã thu hút được một lượng lớn vốn FDI đóng góp cho sự tăng trưởng của đất nước.

Trong quá trình này, khu vực doanh nghiệp nhà nước cũng được đổi mới và tiếp tục lớn mạnh. Hiện nay, khu vực doanh nghiệp nhà nước nắm giữ tài sản gần 4 triệu tỉ đồng, sở hữu 20,5% nguồn vốn của khu vực doanh nghiệp. Thế nhưng, đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước không đồng đều, chủ yếu đều từ một số tập đoàn lớn như Petrovietnam, Viettel... Khu vực doanh nghiệp nhà nước sở hữu nguồn vốn lớn nhưng sử dụng chưa hiệu quả, chưa được như mong muốn và chưa thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng của đất nước.

Cùng với sự phát triển của khu vực doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tư nhân, trong đó nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân đã trở thành một lực lượng quan trọng và dần dần trưởng thành. Tuy nhiên, mối liên kết giữa các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong nước còn khá lỏng lẻo. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng và cần được phát huy mạnh mẽ hơn nữa để trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch sang mô hình kinh tế dựa nhiều trên hiệu quả, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Đây là thời điểm chúng ta cần phát huy tối đa nội lực của nền kinh tế. Vì thế, khu vực kinh tế tư nhân phải khẳng định được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và có tính chất bền vững hơn.

5. Kinh tế tư nhân không chỉ là các doanh nghiệp tư nhân lớn và doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp

Cơ cấu của các doanh nghiệp tư nhân đăng ký chính thức có sự mất cân đối về cơ cấu. Trong số 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động, phần lớn doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trong khi số lượng doanh nghiệp cỡ vừa còn hạn chế. Hiện nay, xấp xỉ 97% các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước có quy mô siêu nhỏ và nhỏ; các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm 1,5% tổng số. Đáng chú ý, các doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 1,5%, tạo ra cơ cấu doanh nghiệp “bất thường” khi so sánh với cơ cấu doanh nghiệp tại Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Hiện tượng “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa”, tức là tình trạng các doanh nghiệp quy mô trung bình có số lượng rất ít, là một vấn đề đáng lo ngại.

“Thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cũng là một biểu hiện cho thấy có rất ít doanh nghiệp nhỏ đã lớn lên để trở thành doanh nghiệp quy mô vừa do hạn chế về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và những khó khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Các doanh nghiệp nhỏ thiếu năng lực cũng như động cơ và tham vọng phát triển về quy mô. Hiện tượng “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cũng cho thấy sẽ không có nhiều doanh nghiệp quy mô vừa phát triển thành doanh nghiệp quy mô lớn trong trung hạn. Vấn đề “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cần phải được giải quyết do nguyên tắc thường thấy là các công ty lớn hơn có khả năng tốt hơn để tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô hoạt động hiệu quả hơn và mang lại năng suất cao hơn cho nền kinh tế. Nó cũng khiến nền kinh tế thiếu lực lượng dự bị để trở thành doanh nghiệp lớn, từ đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.

Bên cạnh đó, tính phi chính thức của khu vực kinh tế tư nhân còn rất cao. Ngoài 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp còn có hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, hàng trăm nghìn cá nhân kinh doanh, buôn bán, sản xuất nhỏ lẻ không đăng ký kinh doanh. Các chủ thể này đều thuộc khu vực kinh tế tư nhân, đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên, có địa vị pháp lý không rõ ràng.

Trên thực tế, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ còn duy trì tư cách chủ thể của cá nhân và pháp nhân. Tư cách chủ thể của hộ gia đình và tổ hợp tác được quy về cá nhân và quan hệ đại diện giữa các cá nhân đó. Trong khuôn khổ pháp luật hiện hành từ năm 2015, hộ kinh doanh không được công nhận là một bên trong các hợp đồng giao dịch thương mại và không phải là pháp nhân. Vì lý do đó, hộ kinh doanh không được tham gia các cuộc đấu thầu cạnh tranh và gặp khó khăn trong giao kết hợp đồng. Trên cơ sở Bộ luật Dân sự năm 2015, các quy định về tài chính, tín dụng, ngân hàng, hợp đồng cùng nhiều lĩnh vực khác cũng không còn công nhận địa vị pháp lý của hộ kinh doanh như một bên trong hợp đồng dân sự. Giao dịch với ngân hàng, tổ chức tín dụng, công ty tài chính cũng được quy về quan hệ với cá nhân là chủ hộ kinh doanh. Việc hộ kinh doanh không được đứng tên để vay vốn ngân hàng mà phải vay vốn dưới hình thức hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và chủ hộ kinh doanh đã phát sinh một số khó khăn khi giao kết hợp đồng dân sự.

Nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, cần các chính sách có tính kiến tạo để doanh nghiệp trong khu vực phi chính thức chuyển đổi thành doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi thành doanh nghiệp quy mô lớn hơn, các doanh nghiệp lớn sẽ nâng cao năng lực và trở thành động lực, hạt nhân tăng trưởng của một ngành, một khu vực hay một cụm doanh nghiệp.

Sự tập trung gần đây vào khu vực kinh tế tư nhân dường như mới chủ yếu ở các doanh nghiệp tư nhân được đăng ký chính thức, đặc biệt là các tập đoàn doanh nghiệp tư nhân lớn. Các chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới cần quan tâm và tập trung hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, vào vấn đề phát triển các doanh nghiệp cỡ vừa, các cơ sở kinh tế, chủ thể kinh doanh vẫn đang được coi là phi chính thức hoặc bán chính thức như hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.

6. Một số giải pháp để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Để phát huy tiềm năng vô cùng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, cần có những quyết sách mang tính đột phá nhằm nuôi dưỡng tinh thần doanh nghiệp, củng cố quyền tự do kinh doanh và doanh nghiệp thực sự được phép làm những điều pháp luật không cấm. Những quyết sách đó sẽ tạo nền tảng để quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp tiếp tục được khẳng định. Phương thức điều hành của cơ quan quản lý cần dựa trên các nguyên tắc, công cụ thị trường thay vì can thiệp bằng các quyết định hành chính.

Các quyết sách đối với khu vực kinh tế tư nhân cần định hướng để hệ thống pháp luật được xây dựng theo hướng không chỉ phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước mà còn đóng vai trò kiến tạo, khơi thông nguồn lực, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, chi phí thấp và tiệm cận các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống pháp luật phải sử dụng linh hoạt các công cụ và cơ chế thị trường trong huy động, phân bổ nguồn lực, khai thông được nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư vào khoa học - công nghệ và ứng dụng đổi mới sáng tạo. Điều này đòi hỏi cần thiết lập cơ chế pháp lý hỗ trợ các hoạt động có mức độ rủi ro cao nhưng mang lại lợi ích đột phá về năng suất và công nghệ. Những quyết sách này sẽ đặt nền móng cho việc triển khai nhanh chóng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox), chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, cũng như các biện pháp hỗ trợ hấp thụ, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Hệ thống pháp luật cần khuyến khích được tinh thần đầu tư mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro và hình thành hệ sinh thái hỗ trợ các dự án đầu tư mạo hiểm, ý tưởng kinh doanh của các doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ.

Cùng với đó, hệ thống pháp luật cần được cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ và hạn chế tối đa rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp. Đồng thời, các tổ chức và cơ quan thực thi chính sách cũng cần được đổi mới. Quá trình tinh gọn bộ máy hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền sẽ được đẩy mạnh hướng tới mô hình phục vụ doanh nghiệp và người dân thay vì chỉ quản lý hành chính. Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển, thể hiện qua việc cải thiện chất lượng dịch vụ công, đẩy nhanh tiến độ xử lý thủ tục hành chính và đảm bảo tính minh bạch trong quá trình ra quyết định.

Những quyết sách nêu trên sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động trong môi trường an toàn, được pháp luật bảo vệ và có cơ hội làm lại nếu thất bại. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ tự tin mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư vào R&D, triển khai các mô hình kinh doanh mới. Đồng thời, các chính sách cùng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, bảo vệ doanh nhân, doanh nghiệp khi triển khai những ý tưởng kinh doanh chưa có tiền lệ mà pháp luật không cấm. Điều này khuyến khích doanh nghiệp dám chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm, đổi mới sáng tạo hơn nữa thông qua Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật.

Những quyết sách này sẽ khẳng định và củng cố vai trò của kinh tế tư nhân là trụ cột và động lực chính của nền kinh tế. Đặc biệt, chúng sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ, giúp nền kinh tế dịch chuyển vững chắc sang nhóm thu nhập cao, dựa trên đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, giá trị gia tăng và hàm lượng tri thức.

Xác định kinh tế tư nhân là trụ cột quan trọng cũng góp phần nâng cao năng lực nội sinh, củng cố vị thế tự lực, tự cường của nền kinh tế. Hoài bão về một đất nước Việt Nam thịnh vượng, hùng cường và tự chủ về kinh tế cũng sẽ trở nên gần hơn, khả thi hơn khi có sự chung tay của người dân và khu vực kinh tế tư nhân.

TS. Lê Duy Bình
Giám đốc Economica Vietnam

Tin bài khác

Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Các ngân hàng tại Trung tâm tài chính quốc tế sẽ phải tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế với những yêu cầu về tính linh hoạt và khả năng đáp ứng cao, đặc biệt là trong môi trường tài chính toàn cầu hóa như hiện nay.
Việt Nam hướng đến xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ toàn cầu

Việt Nam hướng đến xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ toàn cầu

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng gắn kết và dòng vốn quốc tế liên tục dịch chuyển, việc phát triển trung tâm tài chính quốc tế (IFC) không chỉ là tham vọng chiến lược mà còn là cơ hội để Việt Nam tái định vị vị thế trên bản đồ tài chính khu vực. Đây là khẳng định của các chuyên gia tại sự kiện "Kinh nghiệm quốc tế và vai trò hệ thống ngân hàng trong trung tâm tài chính" do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 16/4/2025.
Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia đã chủ động phát triển các trung tâm tài chính như một mũi nhọn chiến lược thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập. Với độ mở kinh tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam liệu đã hội tụ đủ các điều kiện để phát triển các trung tâm tài chính. Sự ra đời của Nghị quyết 42/NQ-CP của Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến trung tâm tài chính tại Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong hành trình đó. Nhằm làm rõ thêm tiềm năng, điều kiện, thách thức cũng như những đề xuất cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, Thời báo Ngân hàng đã phỏng vấn TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.
Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Mục tiêu chính của bài viết là phân tích vai trò của tài chính xanh trong thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Bài viết tập trung đánh giá các cơ chế tài chính hiện có, làm rõ mối quan hệ giữa tài chính xanh và năng lượng tái tạo, từ đó đề xuất chính sách cần thiết để tối ưu hóa tác động của tài chính xanh trong lĩnh vực này.
Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Mô hình kết nối tài chính xanh với thị trường carbon là huy động nguồn vốn xanh cho các dự án, chương trình, hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bền vững. Ngoài ra, mô hình này còn thúc đẩy sự phát triển của các công cụ tài chính xanh trên cơ sở thị trường carbon.
Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Thế giới hiện nay đang trải qua một giai đoạn chuyển đổi sâu sắc, với những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Việt Nam cũng đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối các thành tựu của thời kỳ độc lập và đổi mới. Trong bối cảnh này, phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Điều này không chỉ hỗ trợ tăng trưởng bền vững mà còn góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.
Thủ tướng: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân

Thủ tướng: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân

Chiều ngày 02/4/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân đã chủ trì phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo, tiếp tục cho ý kiến, hoàn thiện thêm một bước dự thảo Đề án để chuẩn bị trình Bộ Chính trị.
Tiềm năng phát triển đối với chứng khoán hóa tài sản trí tuệ

Tiềm năng phát triển đối với chứng khoán hóa tài sản trí tuệ

Để khai thác tối đa tiềm năng của chứng khoán hóa tài sản trí tuệ, đa phần các quốc gia đều xây dựng một khung pháp lý chuyên biệt, hoàn thiện cơ chế định giá tài sản trí tuệ minh bạch và hiệu quả, cũng như sự tham gia tích cực của các chủ thể liên quan. Bài viết này sẽ tìm hiểu về cơ chế hoạt động, các thương vụ trên thế giới và lợi ích của chứng khoán hóa tài sản trí tuệ; qua đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm chuẩn bị cho trường hợp hoạt động chứng khoán hóa tài sản trí tuệ đi vào hoạt động tại thị trường Việt Nam thời gian tới.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc