Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank

Hoạt động ngân hàng
Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội tiếp tục có nhiều biến động, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tiếp tục nâng cao năng lực quản trị rủi ro, tái cấu trúc danh mục tín dụng, đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng cường hợp tác đa ngành, qua đó, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài, đồng thời, mở ra cơ hội nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác và hướng tới phát triển bền vững trong dài hạn.
aa

1. Giới thiệu chung

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô đầy biến động, các tổ chức tín dụng tại Việt Nam nói chung, Agribank nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức xuất phát từ bối cảnh gia tăng căng thẳng địa chính trị trên thế giới, sự suy giảm cầu tiêu dùng trong nước… ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng, huy động vốn và khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng.

Đặc biệt, với đặc thù phục vụ lĩnh vực “tam nông”, đối tượng khách hàng trọng tâm thuộc khu vực nông nghiệp - nông thôn và mạng lưới chi nhánh trải dài khắp các tỉnh, thành phố nên Agribank dễ bị tổn thương hơn so với các ngân hàng thương mại khác trước các cú sốc kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và triển khai các giải pháp trọng tâm nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ các yếu tố bên ngoài trở thành yêu cầu chiến lược cấp thiết đối với sự phát triển bền vững tại Agribank. Điều này không chỉ giúp Agribank bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, giữ vững vai trò định hướng dòng vốn phục vụ phát triển “tam nông”, mà còn đóng góp tích cực vào việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và công cuộc xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

2. Một số kết quả hoạt động kinh doanh của Agribank đến hết tháng 02/2025

Đến ngày 28/02/2025, hoạt động kinh doanh của Agribank đạt được nhiều kết quả tích cực. Nguồn vốn tiếp tục tăng trưởng liên tiếp trong vòng 3 năm trở lại, tăng 14.064 tỉ đồng (tương đương 0,7%), gấp 5,6 lần mức tăng năm 2024 (tăng 2.498 tỉ đồng). Dư nợ tín dụng tháng 02/2025 tiếp tục duy trì đà tích cực của tháng trước, tăng 1.073 tỉ đồng (tương đương 0,1%) so với đầu tháng, mức tăng trưởng dương đầu tiên sau nhiều năm dư nợ giảm mạnh trong tháng 02. Một số chỉ tiêu về vốn huy động và dư nợ cho vay được mô tả trong Bảng 1 và Bảng 2.

Bảng 1: Một số chỉ tiêu huy động vốn đến ngày 28/02/2025

Đơn vị tính: Tỉ đồng, %

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank
Nguồn: Báo cáo tài chính nội bộ của Agribank

Bảng 2: Một số chỉ tiêu dư nợ tín dụng đến ngày 28/02/2025

Đơn vị tính: Tỉ đồng, %

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank
Nguồn: Báo cáo tài chính nội bộ của Agribank

Đến ngày 28/02/2025, tỉ lệ nợ xấu nội bảng là 1,51%, giảm 0,04% so với đầu năm. Các tỉ lệ an toàn hoạt động bảo đảm theo quy định; trong đó: Hệ số an toàn vốn (CAR) là 11,23%; tỉ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR) là 83,77%, tăng 0,32% so đầu năm; tỉ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn là 21,55%, tăng 0,18% so đầu năm.

Về kết quả kinh doanh, đến ngày 28/02/2025, tổng thu nhập toàn hệ thống đạt 26.881 tỉ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó, thu từ hoạt động tín dụng là 23.745 tỉ đồng, tăng 3,2%. Tổng chi phí là 16.357 tỉ đồng, giảm 11,6% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó, chi hoạt động tín dụng là 11.889 tỉ đồng, giảm 15%.

3. Sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank

Do ảnh hưởng từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những khó khăn, hạn chế nội tại kéo dài nhiều năm, cùng với dịch bệnh và thiên tai diễn biến phức tạp, đặc biệt là cơn bão số 3 năm 2024 gây thiệt hại nặng nề tại nhiều địa phương, tình hình kinh tế - xã hội theo đó đã gặp không ít thách thức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành, các địa phương, nhiều giải pháp đã được triển khai đồng bộ, tập trung vào ba đột phá chiến lược đó là: Phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hoàn thiện hệ thống chính sách công, pháp luật. Nhờ đó, nền kinh tế đã phục hồi rõ nét, hoàn thành và vượt 15/15 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Trong đó, tăng trưởng GDP đạt 7,09%, thuộc nhóm các quốc gia có mức tăng trưởng cao trong khu vực. Lạm phát được kiểm soát tốt với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2024 tăng 3,63% so với năm trước. Các chỉ số kinh tế vĩ mô khác cũng ghi nhận nhiều kết quả tích cực.

Bước sang quý I/2025, kinh tế vĩ mô cơ bản được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát và các cân đối lớn được bảo đảm. Cụ thể, GDP quý I/2025 tăng khoảng 6,93% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức tăng cao nhất so với quý I các năm trong giai đoạn 2020 - 2025. CPI tháng 3/2025 giảm 0,03% so với tháng trước; tăng 1,3% so với tháng 12/2024 và tăng 3,13% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2025, CPI tăng 3,22% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,01%. Chỉ số giá vàng tháng 3/2025 tăng 4,68% so với tháng trước; tăng 32,68% so với cùng kỳ năm trước; tăng 10,75% so với tháng 12/2024; bình quân quý I/2025, chỉ số giá vàng tăng 31,45%. Chỉ số giá USD tháng 3/2025 tăng 0,77% so với tháng trước; tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước; tăng 0,92% so với tháng 12/2024; bình quân quý I/2025, chỉ số giá USD tăng 3,63% (Cục Thống kê, 2025). Trong quý I/2025, hoạt động của Agribank chịu tác động rõ rệt từ nhiều yếu tố kinh tế - xã hội, trong đó nổi bật là:

(i) Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức; rào cản thương mại gia tăng và sự phân mảnh nhiều hơn của nền kinh tế toàn cầu có khả năng tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, gây áp lực lạm phát... ảnh hưởng đến chi phí vốn, khả năng sinh lời và làm gia tăng rủi ro tín dụng.

(ii) Rủi ro trong ngành nông nghiệp: Tác động từ thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và thị trường xuất khẩu thiếu ổn định khiến khách hàng của Agribank vốn phần lớn thuộc khu vực “tam nông” dễ bị tổn thương, làm gia tăng nợ xấu và ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.

(iii) Yêu cầu chuyển đổi số và phát triển bền vững: Sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng và nhu cầu ngày càng cao đối với dịch vụ ngân hàng số, tài chính xanh đang đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc đổi mới mô hình hoạt động và ứng dụng công nghệ trong ngân hàng. Trước bối cảnh chuyển đổi số diễn ra toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó khẳng định phát triển công nghệ là yếu tố mang tính quyết định. Để đáp ứng yêu cầu này, Agribank cần đầu tư mạnh mẽ vào các dự án hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin nhằm số hóa toàn diện hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, quá trình triển khai các dự án công nghệ đang gặp nhiều vướng mắc về trình tự, thủ tục đầu tư, khiến tiến độ thực hiện bị kéo dài, gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, cũng như yêu cầu chuyển đổi số của quốc gia và ngành Ngân hàng.

(iv) Tác động xã hội - địa chính trị: Những biến động trên thị trường lao động, sự dịch chuyển của các chuỗi cung ứng toàn cầu và xung đột địa chính trị đang diễn ra phức tạp đã ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư và thương mại quốc tế, từ đó gián tiếp tác động đến hoạt động tín dụng và định hướng dòng vốn của các tổ chức tín dụng, trong đó có Agribank. Mặc dù đã rất nỗ lực trong việc nâng cao hiệu quả của các hoạt động đầu tư, tuy nhiên, hiện nay Agribank vẫn chưa xử lý trọn vẹn các khoản đầu tư kém hiệu quả do phụ thuộc vào các cơ quan Nhà nước liên quan. Việc tăng vốn pháp định cho các chi nhánh Agribank tại Campuchia theo quy định của Ngân hàng Quốc gia Campuchia chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Trong giai đoạn 2023 - 2024, Agribank đã được Quốc hội và Chính phủ quan tâm cấp bổ sung 17.100 tỉ đồng vốn điều lệ. Tuy nhiên, mức bổ sung này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tín dụng ngày càng gia tăng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Năm 2024, tăng trưởng tín dụng của Agribank đạt 11%; trong khi đó, định hướng tăng trưởng tín dụng toàn ngành Ngân hàng năm 2025 dự kiến khoảng 16%. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho Agribank ở mức gần 13%. Để bảo đảm tỉ lệ an toàn vốn theo chuẩn Basel II và tiến tới Basel III, trong điều kiện dư nợ hàng năm tăng thêm khoảng 200.000 tỉ đồng, Agribank cần tiếp tục được bổ sung thêm từ 15.000 - 17.000 tỉ đồng vốn tự có trong năm 2025 và những năm tiếp theo.

Bên cạnh việc hoàn thành hoặc vượt tiến độ các chỉ tiêu trong Phương án cơ cấu lại Agribank giai đoạn 2021 - 2025 gắn với xử lý nợ xấu, ngân hàng vẫn đang đối mặt với một số khó khăn, thách thức trong việc thực hiện các mục tiêu quan trọng, bao gồm: (i) Đưa tỉ lệ nợ xấu xuống dưới 3% vào cuối năm 2025 theo đúng phương án cơ cấu lại ngân hàng trong bối cảnh nợ xấu dự kiến tiếp tục có diễn biến phức tạp; (ii) Duy trì tỉ trọng cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ở mức khoảng 65%; (iii) Nâng tỉ trọng thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập lên mức 16 - 17% vào cuối năm 2025.

Đại diện lãnh đạo các chi nhánh Agribank có kết quả thu hồi nợ sau xử lý cao nhất năm 2024
Hội nghị vinh danh các chi nhánh Agribank có kết quả thu hồi nợ sau xử lý cao nhất năm 2024

4. Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank

Để ứng phó hiệu quả với những thách thức từ môi trường kinh tế - xã hội, Agribank cần tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tăng cường năng lực dự báo và quản trị rủi ro vĩ mô. Agribank cần đầu tư mạnh vào hệ thống phân tích dữ liệu và dự báo kinh tế để sớm nhận diện các rủi ro tiềm ẩn từ thị trường. Việc xây dựng các mô hình phân tích kịch bản, thực hiện kiểm tra định kỳ theo các biến động về lạm phát, lãi suất, tỉ giá... để chủ động hơn trong điều chỉnh danh mục tín dụng và chiến lược tài chính.

Thứ hai, cơ cấu lại danh mục tín dụng theo hướng linh hoạt và bền vững. Agribank nên đẩy mạnh tái cơ cấu danh mục tín dụng theo hướng giảm phụ thuộc vào các ngành có mức độ rủi ro cao trong lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, đồng thời tăng tỉ trọng tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp tuần hoàn và các ngành hỗ trợ chuỗi giá trị nông sản. Ngoài ra, cần phát triển các sản phẩm tài chính phù hợp với mô hình kinh tế nông thôn mới, kinh tế hợp tác...

Thứ ba, tăng cường năng lực tài chính và quản lý chi phí vốn. Trong bối cảnh chi phí vốn chịu áp lực gia tăng, Agribank cần tối ưu hóa cơ cấu nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn ổn định. Đồng thời, cần triển khai hiệu quả các công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỉ giá, kết hợp với việc kiểm soát tốt chi phí vận hành và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong hoạt động ngân hàng. Agribank cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI) vào các nghiệp vụ, bao gồm việc xây dựng và khai thác báo cáo động, phát triển và sử dụng hiệu quả kho cơ sở dữ liệu, cũng như thúc đẩy tài chính toàn diện. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số không chỉ giúp nâng cao năng suất, tiết giảm chi phí vận hành, mà còn mở rộng khả năng tiếp cận tài chính đến các nhóm khách hàng ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư vào hạ tầng công nghệ, phát triển hệ sinh thái ngân hàng số, bảo đảm an toàn bảo mật dữ liệu, nâng cao trải nghiệm người dùng, đồng thời phát triển các mô hình ngân hàng đại lý, ngân hàng lưu động phù hợp với đặc thù phục vụ khu vực nông thôn.

Thứ năm, tăng cường phối hợp chính sách với Nhà nước và các tổ chức liên quan. Với vai trò là ngân hàng thương mại nhà nước, Agribank cần chủ động triển khai các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả các chỉ thị, định hướng của Chính phủ và NHNN; tích cực phối hợp với các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong việc triển khai các chương trình tín dụng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc duy trì dòng vốn ổn định cho sản xuất và tiêu dùng. Đồng thời, Agribank cần kiến nghị Chính phủ sớm xây dựng, ban hành các cơ chế như bảo lãnh tín dụng, quỹ bảo hiểm nông nghiệp... nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng trong khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Thứ sáu, xây dựng nghị quyết, bổ sung quy định và chính sách phù hợp đối với từng nghiệp vụ, từng sản phẩm ngân hàng. Agribank cần rà soát, ban hành hoặc cập nhật các nghị quyết, quy định, chính sách cụ thể cho từng nghiệp vụ, từng sản phẩm ngân hàng, bảo đảm phù hợp với quy định của Chính phủ và NHNN, từ đó có cơ sở chỉ đạo điều hành kịp thời nhằm hoàn thành các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh năm 2025.

Các chỉ tiêu cụ thể gồm: (i) Tăng trưởng tổng tài sản phù hợp với tăng trưởng nguồn vốn (bao gồm cả nguồn vốn thị trường 1 và thị trường 2); vốn huy động tăng từ 7 - 10%, có điều chỉnh phù hợp với tăng trưởng dư nợ; dư nợ cho vay nền kinh tế tăng từ 9 - 11% và phù hợp với kế hoạch được NHNN phê duyệt. (ii) Tỉ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn đạt khoảng 65%; tỉ lệ nợ xấu theo Thông tư số 31/2024/TT-NHNN ngày 30/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về phân loại tài sản có trong hoạt động của ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là dưới 1,5%; tỉ lệ nợ nhóm 2 dưới 2%; tỉ lệ nợ có khả năng mất vốn dưới 1,5%; tỉ lệ nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa được xử lý, thu hồi và nợ tiềm ẩn nợ xấu dưới 2,76%. (iii) Thu dịch vụ (không bao gồm thu ròng kinh doanh ngoại tệ của Trung tâm kinh doanh Vốn và Tiền tệ) tối thiểu là 9.000 tỉ đồng; thu nợ đã xử lý rủi ro tối thiểu là 12.000 tỉ đồng; trích lập dự phòng rủi ro dự kiến là 23.000 - 25.000 tỉ đồng. (iv) Tổng thu nhập tối thiểu là 160.000 tỉ đồng; lợi nhuận trước thuế tăng 3 - 5% so với năm 2024 và không thấp hơn mức lợi nhuận kế hoạch được NHNN phê duyệt; tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) tối thiểu 18%. (v) Tiếp tục nâng cao thu nhập người lao động phù hợp với quy định của NHNN; các tỉ lệ an toàn hoạt động bảo đảm theo quy định.

Thứ bảy, tăng cường phối hợp với cơ quan Nhà nước trong xử lý các khoản đầu tư kém hiệu quả. Agribank cần chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để đẩy nhanh quá trình xử lý các khoản đầu tư kém hiệu quả. Năm 2025 là năm tăng tốc, bứt phá, đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện thành công Phương án cơ cấu lại Agribank giai đoạn 2021 - 2025 gắn với xử lý nợ xấu; đồng thời là năm bản lề để hoàn thành Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Agribank lần thứ X (nhiệm kỳ 2020 - 2025) và Đề án Chiến lược phát triển Agribank đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Đây cũng là giai đoạn chuẩn bị cho việc triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Agribank lần thứ XI, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Do đó, các đơn vị trong toàn hệ thống tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được, giữ vững đoàn kết, chủ động, quyết liệt và đồng bộ trong thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của Hội đồng thành viên và Ban điều hành; quyết tâm hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh năm 2025 với kết quả cao hơn các năm trước, tạo tiền đề phát triển bền vững cho giai đoạn tiếp theo.

Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội tiếp tục có nhiều biến động, Agribank cần chủ động xây dựng và triển khai các giải pháp mang tính chiến lược, toàn diện, đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng giữ vững vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế “tam nông”. Bên cạnh đó, Agribank tiếp tục nâng cao năng lực quản trị rủi ro, tái cấu trúc danh mục tín dụng, đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng cường hợp tác đa ngành, qua đó, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài, đồng thời, mở ra cơ hội nâng cao hiệu quả kinh doanh trong năm 2025, tăng cường năng lực cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác và hướng tới phát triển bền vững trong dài hạn.

ThS. Nguyễn Minh Hiền *; ThS. Đỗ Văn Hữu **
* Ban Kế hoạch chiến lược Agribank; ** Phó Trưởng nghiệp vụ Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Agribank

Tin bài khác

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Nghiên cứu này đã phân tích mối quan hệ giữa áp dụng ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2017 - 2024. Kết quả cho thấy hiệu quả ESG tổng thể có mối liên hệ tích cực mạnh mẽ và ngày càng tăng cường với hiệu quả tài chính. Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa ESG và hiệu quả tài chính gia tăng đáng kể theo thời gian, với bước ngoặt rõ rệt trong giai đoạn 2022 - 2024. Những phát hiện này đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu về ngân hàng bền vững tại các thị trường mới nổi Đông Nam Á và đưa ra những hàm ý thực tiễn có giá trị cho các bên liên quan trong ngành Ngân hàng Việt Nam. Khi Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu và cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, tầm quan trọng của các thực hành tài chính bền vững dự kiến sẽ ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Chuyển đổi số và thực hành ESG: “Tấm hộ chiếu” giúp doanh nghiệp và ngân hàng phát triển bền vững trên thị trường quốc tế

Chuyển đổi số và thực hành ESG: “Tấm hộ chiếu” giúp doanh nghiệp và ngân hàng phát triển bền vững trên thị trường quốc tế

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, với sự bùng nổ mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp cũng đang chuyển mình mạnh mẽ dựa trên nhiều giải pháp số và thực hành ESG (môi trường, xã hội, quản trị) để đáp ứng biến động không ngừng của xã hội. Đây cũng là nội dung trao đổi xuyên suốt tại Hội thảo “Giải pháp chuyển đổi số và thực hành ESG - Chìa khóa hướng tới hội nhập kinh tế toàn cầu” do Báo Dân trí tổ chức sáng 24/6/2025.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Báo chí với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Báo chí với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Chất lượng thông tin kinh tế trên báo chí không chỉ phản ánh chính sách và thực tiễn kinh tế mà còn thể hiện vai trò, hiệu quả của báo chí và môi trường đầu tư. Cùng với đó, hợp tác chặt chẽ với báo chí giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời đại công nghệ số.
Báo chí đồng hành cùng ngành Ngân hàng Việt Nam  vì sự phát triển bền vững

Báo chí đồng hành cùng ngành Ngân hàng Việt Nam vì sự phát triển bền vững

Trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển ngành Ngân hàng, báo chí phản ánh tiếng nói của ngành Ngân hàng, lan tỏa mô hình tốt, kịp thời đưa những khó khăn, vướng mắc đến các cơ quan chức năng để từ đó thúc đẩy chính sách đi vào cuộc sống. Đặc biệt, ở kỷ nguyên số ngày nay, báo chí không chỉ thực hiện chức năng truyền tin mà còn đồng hành, kiến tạo niềm tin, kết nối các giá trị giữa ngành Ngân hàng, Nhà nước và xã hội. Báo chí tiếp tục giữ vững tôn chỉ, đạo đức và trách nhiệm xã hội, luôn đứng cùng sự thật, đồng hành cùng ngành Ngân hàng, vì sự hưng thịnh của quốc gia - dân tộc.
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng