25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
aa

Lịch sử hoạt động thông tin tín dụng (TTTD) liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của hệ thống tài chính và ngân hàng. Hoạt động TTTD được khởi đầu từ thế kỷ 19 tại Mỹ và Anh khi các doanh nghiệp thương mại thường cần thông tin về khả năng tín dụng của khách hàng để đưa ra quyết định giao dịch. Tuy nhiên, đến thế kỷ 20, hoạt động TTTD mới dần dần phát triển rộng khắp tại các quốc gia trên thế giới từ châu Mỹ, châu Âu và lan rộng tới châu Á.

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu do nước ta mới chuyển sang áp dụng cơ chế thị trường, khả năng thích ứng với nền kinh tế này còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng trong hệ thống ngân hàng; đặc biệt thiếu thông tin, dữ liệu chính xác, đầy đủ phục vụ cho quản lý điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Chính vì vậy, đứng dưới góc độ quản lý vĩ mô, việc xây dựng một tổ chức tập trung thu thập, xử lý và cung cấp TTTD trong toàn hệ thống là việc làm cần thiết và cấp bách trong bối cảnh bấy giờ. Sau khi thử nghiệm thành lập Trung tâm Phòng ngừa và giám sát rủi ro tại NHNN Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 10/1991, chỉ gần một năm sau đó, vào ngày 12/9/1992, Phòng Thông tin phòng ngừa rủi ro trực thuộc Vụ Tín dụng, NHNN là tiền thân của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) đã được thành lập. Năm 1995, Phòng Thông tin phòng ngừa rủi ro được đổi tên thành Trung tâm Thông tin tín dụng (nay là CIC) và chính thức tách ra, hoạt động độc lập với cơ chế là đơn vị sự nghiệp trực thuộc NHNN vào tháng 02/1999.

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam
CIC đóng góp tích cực vào sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng

Hiện nay, CIC hoạt động với vai trò là cơ quan TTTD công lập trực thuộc NHNN. Với đặc thù trong quá trình hình thành và phát triển, mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong chức năng nhiệm vụ của CIC hướng tới hỗ trợ công tác quản lý nhà nước của NHNN và bảo đảm an toàn, lành mạnh cho hoạt động tín dụng trong hệ thống ngân hàng. Hoạt động của CIC là sự kết hợp giữa hoạt động chức năng cơ quan TTTD công lập và công ty TTTD tư nhân, do đó, các sản phẩm, dịch vụ của CIC được xây dựng, thiết kế nhằm hỗ trợ hoạt động của NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD) và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khách hàng vay.

Cụ thể, hệ thống sản phẩm, dịch vụ TTTD không ngừng được nghiên cứu đổi mới và hoàn thiện theo xu hướng quản lý nhà nước và quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng, góp phần bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của toàn Ngành. Vai trò, uy tín của CIC trong cơ sở hạ tầng tài chính quốc gia được ghi nhận nhờ hệ thống sản phẩm, dịch vụ TTTD được tạo lập từ dữ liệu của cơ sở dữ liệu TTTD quốc gia không ngừng được đổi mới và hoàn thiện.

Thứ nhất, đối với các sản phẩm, dịch vụ phục vụ công tác quản lý nhà nước

CIC đã hoàn thành tốt vai trò là đơn vị đầu mối cung cấp thông tin hỗ trợ công tác quản lý điều hành, hoạch định chính sách, thanh tra giám sát cho NHNN. Từ khi bắt đầu triển khai hoạt động TTTD, CIC không ngừng hoàn thiện, cải tiến sản phẩm, mẫu biểu đáp ứng nhu cầu khai thác thông tin của Ban Lãnh đạo NHNN, các đơn vị, vụ, cục trực thuộc NHNN và NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, bao gồm: Nhiều mẫu biểu phục vụ công tác thanh tra giám sát, giám sát từ xa; dự báo thống kê; đánh giá tác động và hoạch định chính sách đối với một số lĩnh vực ưu tiên trọng điểm hoặc các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Năm 2014, CIC đã phối hợp với các đơn vị, vụ, cục NHNN phát triển nhiều sản phẩm, dịch vụ và tạo tiện ích ứng dụng trên Website CIC cho các đơn vị khai thác, sử dụng. Đến năm 2023, CIC tiếp tục hoàn thành xây dựng 15 báo cáo tổng hợp phục vụ công tác tham mưu chính sách, chỉ đạo điều hành của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, các vụ, cục NHNN; 12 báo cáo phục vụ công tác quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố. Hệ thống báo cáo mới được phát triển thêm nhiều chỉ tiêu, nội dung báo cáo đa chiều, linh hoạt nhiều cấp độ, sử dụng các công cụ khai thác, phân tích dữ liệu mới. Ngoài ra, CIC tích cực phối hợp và cung cấp thông tin cho các đơn vị quản lý nhà nước khác, hỗ trợ triển khai công tác hoạt động theo chức năng của từng đơn vị như Bộ Công an, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia…

Thứ hai, đối với các sản phẩm, dịch vụ phục vụ công tác quản trị rủi ro

CIC không ngừng cải tiến danh mục, tăng cường chất lượng sản phẩm, dịch vụ dành cho các TCTD và các đơn vị khác trong hệ thống TTTD. Cụ thể, năm 2013, CIC thực hiện bổ sung và cung cấp sản phẩm cảnh báo tới tất cả các đơn vị khai thác và sử dụng theo 3 góc độ: Cảnh báo liên quan đến TCTD; cảnh báo liên quan đến ngành, vùng kinh tế, tỉnh/thành phố; cảnh báo liên quan đến khách hàng vay. Sản phẩm cảnh báo khách hàng vay S37 tức thời đã phát huy được hiệu quả và được nhiều đơn vị đăng ký sử dụng với mức độ tra cứu thông tin tăng đột biến trong năm 2022, đạt hơn 34 triệu lượt tra cứu. Năm 2021, đối với mô hình chấm điểm khách hàng cá nhân, CIC đã nâng cấp và kiểm thử thành công theo các tiêu chuẩn quốc tế mới nhất. Trong mô hình này, CIC đã ứng dụng công nghệ học máy (Machine Learning) giúp hỗ trợ tính toán các chỉ số, thông tin phi tài chính trong chấm điểm đối với những khách hàng không có lịch sử tín dụng (THIN file) nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho đối tượng này, từ đó hỗ trợ các TCTD từng bước chuyển đổi từ hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản sang hình thức cho vay tín chấp dựa trên dự báo mức độ rủi ro của khách hàng. Năm 2023, các báo cáo TTTD do CIC cung cấp được bổ sung thêm một số trường thông tin hữu ích cho đơn vị sử dụng như bổ sung thông tin xác suất vỡ nợ, thông tin xác thực với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Để phù hợp với xu thế về dịch vụ tài chính số, CIC đã ra mắt sản phẩm Báo cáo TTTD tức thời (S11T) vào tháng 5/2024 nhằm hỗ trợ các đơn vị sử dụng ra quyết định nhanh chóng khi xét duyệt khoản vay trên môi trường số. Ngoài ra, CIC cung cấp các sản phẩm theo yêu cầu đáp ứng nhu cầu đánh giá khách hàng vay, xây dựng và kiểm định mô hình của các TCTD.

Theo thống kê, số lượng báo cáo TTTD do CIC cung cấp cho các đơn vị sử dụng có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ theo từng giai đoạn 5 năm, đặc biệt trong giai đoạn 2014 - 2019 (tăng 8,5 lần) và giai đoạn 2019 - 2024 (tăng 2,3 lần). Trong năm 2024 (tính đến tháng 10), CIC đã cung cấp gần 75 triệu báo cáo cho các TCTD, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm 2023.

Thứ ba, đối với các sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ, phục vụ cho khách hàng vay, tăng cường tính minh bạch, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng và thúc đẩy tài chính toàn diện

Sau khi Cổng thông tin kết nối khách hàng vay chính thức được vận hành vào năm 2019, CIC tiếp tục đẩy mạnh phát triển và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ trực tiếp cho khách hàng vay. Tính đến tháng 10/2024, CIC đã ghi nhận hơn 1,9 triệu khách hàng cá nhân và gần 1,6 nghìn khách hàng pháp nhân đăng ký tài khoản và khai thác báo cáo TTTD thông qua Cổng thông tin kết nối khách hàng vay với số lượng báo cáo TTTD khai thác trung bình trong giai đoạn từ năm 2019 đến nay ước đạt khoảng gần 400.000 báo cáo/năm.

Nhờ có sự ra đời của hoạt động TTTD, bức tranh toàn cảnh về hoạt động tín dụng trong hệ thống ngân hàng trở nên rõ ràng, minh bạch hơn, giảm thiểu thông tin bất cân xứng giữa người cho vay và người đi vay. Đặc biệt, kết quả hoạt động TTTD do CIC là đơn vị đầu mối triển khai đã được ghi nhận và đánh giá cao khi hỗ trợ tích cực cho NHNN trong công tác quản lý nhà nước, hoạch định chính sách, thanh tra giám sát; hỗ trợ các TCTD trong công tác quản trị rủi ro, bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng. Trong suốt thời gian hơn 32 năm triển khai và 25 năm chính thức thành lập, hoạt động TTTD của NHNN đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba, hạng Nhì và hạng Nhất lần lượt vào các năm 2009, 2014 và 2019. Bước sang giai đoạn tiếp theo trong quá trình hình thành và phát triển, hoạt động TTTD của NHNN thông qua đơn vị đầu mối CIC được kỳ vọng sẽ tiếp tục giữ vững vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, góp phần tích cực trong bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Cao Văn Bình
Chủ tịch Hội đồng quản lý CIC

Tin bài khác

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô