Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Quốc tế
Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
aa

Thuế quan đối ứng của Mỹ và những hệ lụy

Chiều 02/4/2025 theo giờ địa phương, Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump đã công bố chính sách mới, theo đó áp thuế cơ bản 10% đối với tất cả hàng hóa của các nước từ ngày 5/4/2025 và áp các mức thuế đối ứng khác nhau với từng đối tác thương mại kể từ ngày 9/4/2025 (đều theo giờ Mỹ), trừ một số nước đang chịu thuế nhập khẩu cao vào Mỹ và trừ mặt hàng thép, nhôm, đồng, vàng đã chịu thuế theo Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại. Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên phòng Mỹ (CBP) sẽ đưa ra hướng dẫn về cách đánh thuế đối với hàng hóa có nguồn gốc xuất xứ Mỹ (căn cứ hàm lượng hàng hóa Mỹ trong hàng hóa nhập khẩu ít nhất là 20%).

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Khu vực châu Á sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề, với mức thuế: Campuchia 49%, Lào 48%, Việt Nam 46%, Myanmar 45%, Thái Lan 37%, Trung Quốc 34%, Indonesia 32%, Đài Loan 32%, Ấn Độ 27%, Hàn Quốc 26%, Brunei, Nhật Bản và Malaysia đều là 24%, và Philippines 18%, Singapore 10%. Lesotho ở châu Phi chịu mức cao nhất tới 50%. Riêng Trung Quốc sẽ chịu mức thuế lên tới 54% vì Mỹ đã tăng thêm 20% trước đó.

Triều Tiên, Cu Ba, Nga và Belarus không có trong danh sách áp thuế vì các lệnh trừng phạt của Mỹ đã "ngăn cản mọi hoạt động thương mại có ý nghĩa" giữa Mỹ và các quốc gia này; Canada và Mexico cũng không có tên trong danh sách nhưng vì mức thuế hiện hành đối với họ đã quá cao (25%).

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, theo phân tích của BBC Verify - dịch vụ kiểm tra thông tin chuyên dụng của BBC, công thức tính thuế nhập khẩu của Mỹ không được thiết lập dựa trên các tiêu chí truyền thống (như: các nước sẽ áp dụng mức thuế tương đương đối với nhau, có tính đến cả các rào cản phi thuế quan như tiêu chuẩn kỹ thuật và quy định nhập khẩu; tình hình cạnh tranh giữa các ngành hàng), mà được tính bằng công thức đơn giản: Lấy mức thâm hụt thương mại hàng hóa của Mỹ với quốc gia đó chia cho tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu từ quốc gia đó vào Mỹ và chia tiếp kết quả cho 2, rồi làm tròn lên. Ngoài ra, Mỹ cũng áp thuế nhập khẩu 10% chung cho tất cả các mặt hàng từ các nước, ngay cả khi không có thặng dư thương mại với Mỹ.

Cách tính này của Mỹ dù đang gây bất ngờ và nhiều tranh cãi trong giới chuyên gia kinh tế - tài chính, song về bản chất, đó là cách tính khá lợi hại, kiểu “một mũi tên trúng bốn đích”:

Thứ nhất, tập trung vào việc xóa bỏ thâm hụt thương mại song phương của Mỹ với từng quốc gia riêng lẻ, do nước nào có thặng dư cao với Mỹ thì phải tự cân bằng để hưởng thuế suất thấp hơn. Năm 2024, Mỹ nhập siêu 1,21 nghìn tỉ USD hàng hóa và tổng thâm hụt thương mại hàng năm của Mỹ đối với toàn bộ hàng hóa và dịch vụ là 918,4 tỉ USD. Mỹ nhập siêu với Trung Quốc 295,4 tỉ USD, Liên minh châu Âu 235,6 tỉ USD, Mexico 171,8 tỉ USD và Ireland 86,7 tỉ USD.

Thứ hai, tạo áp lực buộc đối tác có thặng dư cao với Mỹ phải hạ thuế nhập khẩu và tăng nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu từ Mỹ để cân bằng thương mại, mà không cần tranh cãi và xét đến mức thuế nhập khẩu mà các nước đang áp lên hàng hóa xuất khẩu Mỹ.

Thứ ba, tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước và buộc chuỗi cung ứng chuyển sản xuất về Mỹ khi bị yêu cầu hàng nhập khẩu Mỹ phải có tỉ lệ tối thiểu xuất xứ Mỹ mà không tính đến các yếu tố khác ảnh hưởng đến thương mại, như chi phí sản xuất và điều kiện tự nhiên thuận lợi. Việc bỏ qua các lợi thế so sánh kinh tế truyền thống này khiến các hoạt động chuỗi cung ứng quốc tế dàn trải ra các nước trên thế giới sẽ mất ý nghĩa, đồng nghĩa với việc đưa sản xuất và việc làm quay lại nước Mỹ.

Thứ tư, tạo dư địa, “gợi mở và áp lực” đàm phán thiết lập “thuế quan đối xứng giảm giá”, để các đối tác có thặng dư thương mại cao phải tiếp tục đàm phán riêng lẻ có lợi cho Mỹ.

Đông đảo giới quan sát chính trị và chuyên gia kinh tế quốc tế nhấn mạnh, thông điệp từ chính sách thuế mới của Mỹ là sự hội tụ tập trung các yếu tố chính trị và bảo hộ kinh tế, biểu hiện điển hình về “nước Mỹ trên hết” của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Trong khi các ý kiến ủng hộ cho rằng, quyết định thuế quan mới này là hành động chính sách thương mại và kinh tế vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ, góp phần tái công nghiệp hóa rộng rãi và tạo việc làm cho tầng lớp lao động tại Mỹ…, thì không ít ý kiến phản đối và cảnh báo rằng, bên cạnh các tác động kỳ vọng nêu trên, nước Mỹ có thể đối diện với những hệ lụy đáng quan ngại, thậm chí đau đớn, như bị lên án và tẩy chay, thậm chí bị đáp trả và gia tăng cuộc chiến thuế quan thương mại, căng thẳng đối ngoại cả với các đối thủ lớn nhất và đối tác thân cậy nhất; sự gia tăng chi phí hàng nhập khẩu và áp lực lạm phát trở lại gây thiệt hại cho người tiêu dùng nội địa và làm suy giảm tổng cầu xã hội, kéo theo suy giảm kinh tế Mỹ và cả kinh tế thế giới.

Thực tế đã, đang và sẽ còn cho thấy, không chỉ nhiều công ty Mỹ phụ thuộc vào nguyên liệu và linh kiện nhập khẩu, mà người tiêu dùng Mỹ cũng có xu hướng chuộng mua hàng nhập khẩu, vì giá cả cạnh tranh hơn hoặc do sản phẩm có chất lượng cao hơn. Ngoài ra, đồng USD mạnh còn khiến hàng hóa Mỹ trở nên đắt đỏ hơn trên thị trường quốc tế, làm giảm xuất khẩu trong khi gia tăng nhập khẩu.

Thuế quan đối ứng là một chiến thuật phổ biến trong các tranh chấp thương mại song phương. Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời với phạm vi rộng lớn và tác động đến nhiều khu vực khác nhau trên toàn cầu đã tạo sốc cho nhiều bên liên quan.

Phản ứng của các quốc gia

Trung Quốc đã "kiên quyết phản đối" chính sách thuế quan mới của Mỹ và tuyên bố sẽ áp dụng các biện pháp ứng phó để bảo vệ quyền lợi của mình, bao gồm khả năng tăng thuế đối với hàng hóa Mỹ hoặc thực hiện các quy định kiểm soát nhập khẩu nghiêm ngặt hơn. Về phía Nhật Bản, với sự lo ngại về tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư, coi chính sách thuế mới của Mỹ là "điều đáng tiếc". Họ cho rằng nó không chỉ gây tổn hại cho các công ty Nhật Bản muốn đầu tư vào thị trường Mỹ mà còn có thể làm tổn hại nền kinh tế của chính quốc gia này. Nhật Bản cũng sẽ tiếp tục yêu cầu Mỹ miễn trừ thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản và bày tỏ lo ngại về việc Mỹ có thể không tuân thủ các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Mặc dù chỉ bị Mỹ (đối tác thương mại lớn nhất nhập hoa, cà phê và dầu khí) áp mức thuế đối ứng 10%, tương tự như một số các quốc gia khác như Brazil và Argentina, song Colombia vẫn coi chính sách thuế mới của Mỹ là "một sai lầm lớn" và cho rằng, cách hiểu của chính phủ Mỹ về việc tăng thuế nhập khẩu hàng hóa sẽ giúp tăng sản lượng trong nước, tăng giá trị kinh tế và tạo thêm việc làm tại “xứ cờ hoa” là chưa chính xác. Thủ tướng Italy thì cho rằng, việc Mỹ công bố các mức thuế quan đối với EU là biện pháp sai lầm và không phù hợp với bất kỳ bên nào. Mặc dù sẽ không áp thuế trả đũa đối với Mỹ, song Thủ tướng Australia cũng khẳng định, chính sách thuế quan thương mại của Tổng thống Mỹ là “hoàn toàn không có cơ sở”…

Ấn Độ thì đang xem xét tác động lên các ngành nội địa, đồng thời cân nhắc đàm phán với Mỹ để giảm bớt tác động tiêu cực. Hàn Quốc cũng nhanh chóng thiết lập các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và bắt đầu đàm phán với Mỹ nhằm tìm kiếm một giải pháp có lợi hơn.

Các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm Thái Lan và Indonesia, cũng đang đánh giá tác động đối với ngành xuất khẩu. Một số nước có thể điều chỉnh chính sách tiền tệ hoặc hỗ trợ tài chính cho các ngành bị ảnh hưởng nhằm giảm tác động tiêu cực… Thủ tướng Thái Lan tuyên bố rằng, quốc gia này đã có "kế hoạch mạnh mẽ" và sẽ thực hiện các bước đi phù hợp kể cả đàm phán với Mỹ để giảm thuế.

Mexico và Canada không bị đưa vào đợt tăng thuế lần này. Tuy nhiên, trước đó, mức thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu đã được công bố và Canada đã áp thuế để đáp trả việc Mỹ tăng thuế lên 25%. Liên minh châu Âu cũng đã áp thuế với 26 tỉ euro (28 tỉ đô la) với hàng hóa của Mỹ.

Ông Olu Sonola, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu kinh tế Mỹ tại tổ chức xếp hạng Fitch Ratings cho biết: Theo chính sách toàn cầu mới mà Tổng thống Trump áp dụng, mức thuế quan của Mỹ đối với tất cả hàng nhập khẩu đã tăng lên 22%, từ mức 2,5% năm 2024. Đây là một bước ngoặt, không chỉ đối với nền kinh tế Mỹ mà còn đối với nền kinh tế toàn cầu. Nhiều quốc gia có khả năng sẽ rơi vào suy thoái.

Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Christine Lagarde đã phát biểu tại một sự kiện ở Ireland ngày 02/4/2025, rằng: Châu Âu cần phải hành động ngay bây giờ và đẩy nhanh nỗ lực cải cách kinh tế để cạnh tranh trong thế giới đảo ngược... Ngày nay, chúng ta phải đối mặt với việc đóng cửa, phân mảnh và bất ổn.

Dự báo, trong những tháng tới, giá cả sẽ tăng, từ đó nhu cầu sẽ giảm, khi giá của hàng nghìn mặt hàng được người tiêu dùng và doanh nghiệp trên khắp thế giới mua sẽ có mức giá mới. Nếu chiến tranh thương mại mở rộng, điều đó sẽ có tác động lớn hơn nữa lên các nước phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Nếu chính sách tăng thuế đẩy Mỹ vào suy thoái, điều đó sẽ gây áp lực nặng nề lên các nước đang phát triển. Giáo sư kinh tế và khoa học chính trị tại Đại học California - Barry Eichengreen đã nhận định: Những gì xảy ra ở Mỹ không chỉ giới hạn ở Mỹ mà phần còn lại của thế giới cũng chắc chắn bị ảnh hưởng.

Tổng Giám đốc IMF nhấn mạnh rằng tổ chức này sẽ sớm điều chỉnh dự báo tăng trưởng toàn cầu cho năm 2025. Tác động đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ rất khác nhau, do phạm vi thuế quan dao động từ 10% đến 49%.

Việt Nam chủ động, sẵn sàng đàm phán thuế với Mỹ theo chiều hướng cả hai cùng có lợi

Sau khi chính sách thuế mới của Mỹ được công bố, trong ngày 3/4/2025, giá cổ phiếu tương lai của Mỹ giảm tới 3%; cổ phiếu Apple đã giảm tới 7,9%; cổ phiếu của Amazon giảm 6% và cổ phiếu Tesla giảm 8% trong giao dịch ngoài giờ; giá dầu giảm hơn 2 USD/thùng và bitcoin giảm 4,4%.

Ngày 3/4/2025, thị trường chứng khoán châu Á đồng loạt giảm mạnh trong phiên giao dịch. Tình trạng bán tháo diễn ra trên diện rộng, khiến các chỉ số chính của thị trường chứng khoán ở khu vực châu Á lao dốc. Tại Nhật Bản, chỉ số Nikkei 225 giảm 2,8% và thị trường Tokyo dẫn đầu mức lỗ ở châu Á; tại Hàn Quốc chỉ số Kospi giảm phiên thứ hai liên tiếp, tương đương 0,76%; Tại Trung Quốc, chỉ số Shanghai Composite của thị trường Thượng Hải giảm nhẹ 0,2% và chỉ số Hang Seng của Hồng Kông (Trung Quốc) mất 1,6%; tại Việt Nam, chốt phiên 3/4, chỉ số VN-Index giảm 6,68% và chỉ số HNX-Index giảm 7,22%...

Mỹ hiện đang là đối tác thương mại lớn thứ hai, thị trường xuất siêu số một và là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng nhất, một trong những đối tác đầu tư hàng đầu của Việt Nam và đang dần trở thành nguồn cung về các sản phẩm máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ, năng lượng, tạo động lực mạnh cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Mỹ năm 2024 đạt gần 150 tỉ USD, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước và thặng dư thương mại 123,5 tỉ USD.

Chính sách thuế của Mỹ dự báo sẽ ảnh hưởng lớn đến 5 nhóm ngành chính đang chiếm 64,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ năm 2024, bao gồm: (i) Điện tử (các mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện) chiếm 28,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của sang Mỹ; (ii) Dệt may, da giầy chiếm 21,9%; (iii) Gỗ và sản phẩm từ gỗ chiếm 7,6%; (iv) Nông - thủy - hải sản chiếm 3,5%; (v) Thép và nhôm chiếm 2,7%. Cụ thể, máy tính - linh kiện (23,2 tỉ USD), máy móc - thiết bị (22 tỉ USD) và dệt may (16,2 tỉ USD); điện thoại, gỗ, giày dép cũng đóng góp lớn với kim ngạch từ 8,3 - 9,8 tỉ USD; xuất khẩu hạt điều đạt 1,15 tỉ USD, xuất khẩu thủy sản 1,83 tỉ USD và cà phê 323 triệu USD. Dự báo, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ năm 2025 có thể đạt hơn 2 tỉ USD, tăng 10 - 12% so với năm trước. Với mức thuế 46%, hàng thủy sản Việt Nam vào Mỹ có thể phải chịu thêm số tiền là 0,92 tỉ USD trong năm 2025.

Việc Việt Nam đối mặt với mức thuế đối ứng lên tới 46% đối với 90% tổng giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ đang tạo ra sức ép lớn và gây lo ngại cho cộng đồng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là các ngành chủ lực như điện tử, dệt may – da giày, đồ gỗ và nội thất, thủy sản. Điều này có thể dẫn đến sự giảm lợi nhuận, thu hẹp đơn hàng và thị phần xuất khẩu, cũng như sự gián đoạn chuỗi cung ứng và tăng tồn kho, khi các đối tác Mỹ có thể tìm nguồn cung thay thế từ các nước không bị áp thuế cao. Mức thuế cao này còn có thể khiến các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là từ Mỹ, Trung Quốc và Hàn Quốc, phải xem xét lại chiến lược đầu tư tại Việt Nam…

Theo dự báo của Bloomberg, chính sách thuế mới của Mỹ có thể kéo giảm GDP của Việt Nam đến 8,9% vào năm 2030, tức giảm khoảng 1,5 - 2% một năm. Nếu trước đó GDP dự kiến tăng trưởng 7-8% vào năm 2025, thì giờ đây mức tăng trưởng có thể chỉ còn 5-6,5%, hoặc thậm chí thấp hơn.

Ngoài ra, việc giảm xuất khẩu sang Mỹ có thể gây áp lực về giảm xuất siêu, giảm nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu và gia tăng áp lực lên tỉ giá, việc làm, thu nhập và an sinh xã hội trong thời gian tới… Điều này phụ thuộc vào khả năng đàm phán, kích thích tiêu dùng nội địa và đầu tư công, cùng khả năng phản ứng chính sách và phản ứng thị trường linh hoạt và hiệu quả của Chính phủ và doanh nghiệp.

Ngay sau khi Mỹ công bố chính sách thuế mới, Thường trực Chính phủ đã họp với các bộ, ban ngành để đánh giá tình hình và thảo luận tìm ra giải pháp trước mắt. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thành lập ngay tổ phản ứng nhanh để lắng nghe các ý kiến từ các doanh nghiệp xuất khẩu, chủ động ứng phó để giảm thiểu tác động và thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng bền vững, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh nội địa hóa và mở rộng chuỗi cung ứng toàn cầu, kiên định mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên vào năm 2025.

Đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có công hàm đề nghị phía Mỹ tạm hoãn quyết định áp thuế để dành thời gian trao đổi, tìm giải pháp hợp lý cho cả hai bên. Bộ Công Thương đang thu xếp một cuộc điện đàm giữa hai bộ trưởng hai nước, cũng như ở cấp kỹ thuật với các đồng nghiệp tại Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) trong thời gian sớm nhất.

Trước mắt, cùng với việc tiếp tục tạo ra cơ chế ưu đãi hơn nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng nội lực và năng lực cạnh tranh, Chính phủ cần chủ động thúc đẩy đàm phán song phương với chính quyền Mỹ đối với mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam; sớm giảm thuế các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ, tương ứng với mức thuế hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và thúc đẩy tăng nhập khẩu từ Mỹ (mức thuế quan trung bình Việt Nam áp dụng với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ hiện là 9,5% trong khi Mỹ chỉ áp dụng với Việt Nam là 3,3%) để sớm cải thiện cán cân thương mại, do đó, tạo động lực cải thiện giảm thuế đối ứng với Hoa Kỳ. Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2025/NĐ-CP ngày 31/3/2025 sửa đổi, bổ sung mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của một số mặt hàng, trong đó đưa thuế nhập khẩu tất cả các sản phẩm gỗ từ Mỹ về bằng 0%, được kỳ vọng sẽ góp phần giúp cho quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ phát triển bền vững và ngành gỗ tránh bị áp thuế hơn.

Đồng thời, trong bối cảnh phức tạp đan xen các xu hướng thương mại tự do hóa, bảo hộ và gia tăng rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại của các thị trường lớn, cộng đồng doanh nghiệp cần bình tĩnh, chủ động nắm tình hình, đánh giá tác động và xây dựng kịch bản ứng phó linh hoạt; sớm làm quen và chuyển từ trạng thái "thuế nhập khẩu nguyên liệu cao" sang "thuế nhập khẩu thành phẩm cao"; vừa tăng cường năng lực phòng vệ thương mại, vừa chuyển đổi mạnh sang sản xuất FOB (chủ động nguyên liệu, hoàn thiện sản phẩm) để các khách hàng cùng chia sẻ về thuế, đẩy mạnh việc khai thác các thị trường tiềm năng thông qua FTA và đa dạng hóa thị trường để tăng cường xuất khẩu.

* Chiều 04/4/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc cùng lãnh đạo các bộ, ngành đã họp với các hiệp hội, doanh nghiệp, các cơ quan ngoại giao để bàn về các giải pháp xử lý vấn đề thuế quan với Hoa Kỳ. Tại phiên họp, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc nêu rõ, hàng hóa của Việt Nam và Hoa Kỳ không cạnh tranh nhau mà bổ trợ cho nhau. Thời gian qua, Việt Nam đã chủ động rà soát, giảm nhiều sắc thuế, cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần doanh nghiệp hoạt động, để thúc đẩy sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững. Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng nêu rõ, Việt Nam luôn luôn chủ động, cầu thị, phối hợp mạnh mẽ với phía Hoa Kỳ để đàm phán thuế một cách công bằng; chống vấn đề trung chuyển hàng hóa, đẩy mạnh thương mại hai chiều theo hướng cả hai cùng có lợi… Chính phủ Việt Nam đề nghị phía Hoa Kỳ cân nhắc tạm hoãn áp thuế từ 1-3 tháng để đàm phán, hướng tới đảm bảo công bằng về thuế.

* Tối 04/4/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Theo đó, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá cao cuộc trao đổi, trong đó hai nhà lãnh đạo khẳng định mong muốn tiếp tục tăng cường hợp tác song phương, vì lợi ích hai nước và đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Hai nhà lãnh đạo cùng đánh giá quan hệ hai nước đang phát triển tốt đẹp trên các lĩnh vực. Về quan hệ thương mại song phương, hai nhà lãnh đạo cùng trao đổi các biện pháp để tiếp tục thúc đẩy việc giao thương, trong đó Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Hoa Kỳ để đưa mức thuế nhập khẩu về 0% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ, đồng thời đề nghị Hoa Kỳ áp dụng mức thuế tương tự đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, tiếp tục nhập khẩu nhiều hàng hóa từ Hoa Kỳ mà Việt Nam có nhu cầu và khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các công ty từ Hoa Kỳ tăng cường đầu tư hơn nữa vào Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo khẳng định sẽ cùng trao đổi, sớm ký một thỏa thuận song phương giữa hai nước để cụ thể hóa những cam kết trên.

Tài liệu tham khảo:

1. https://vnbusiness.vn/the-gioi/thue-quan-cua-tong-thong-donald-trump-duoc-tinh-toan-nhu-the-nao-1105923.html

2. https://baotintuc.vn/phan-tichnhan-dinh/chinh-sach-thue-quan-doi-xung-cua-tong-thong-trump-tac-dong-ra-sao-toi-chau-a-20250403170136695.htm

3. https://plo.vn/5-nhom-nganh-chinh-bi-tac-dong-manh-nhat-khi-my-tang-thue-viet-nam-can-lam-gi-post842324.html

4. https://baotintuc.vn/the-gioi/chinh-sach-thue-cua-my-trung-quoc-ra-tuyen-bo-cung-ran-20250403113920582.htm

5. https://www.vietnamplus.vn/my-ap-thue-46-doi-voi-mot-so-hang-hoa-nhap-khau-tu-viet-nam-post1024443.vnp

6. https://tienphong.vn/trat-tu-thuong-mai-toan-cau-nguy-co-do-vo-bong-ma-suy-thoai-tro-lai-post1730560.tpo

7. https://baochinhphu.vn/chinh-phu-de-nghi-hoa-ky-tam-hoan-ap-thue-de-dam-phan-102250404175911541.htm

8. https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-to-lam-dien-dam-voi-tong-thong-hoa-ky-donald-j-trump-102250404231610635.htm

TS. Nguyễn Minh Phong

Tin bài khác

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Xem thêm
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô