40 năm đổi mới, phát triển và kỷ nguyên vươn mình

Kinh tế - xã hội
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng sẽ đánh dấu sự mở đầu kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam - kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, giàu mạnh.
aa

1. Nền tảng vững chắc từ 40 năm đổi mới và phát triển

Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng khởi đầu cho công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế, tạo thế và lực, cùng vị thế quốc tế chưa từng có cho đất nước.

Về tổng thể, vượt qua nhiều khó khăn và thử thách, kinh tế Việt Nam không ngừng phát triển cả về lượng và chất, hiệu quả và bền vững hơn.

Các chỉ số và cân đối kinh tế - tài chính vĩ mô của Việt Nam ngày càng được cải thiện, môi trường kinh doanh đáp ứng ngày càng cao hơn các chuẩn mực chung của thế giới. Năm 2024, tăng trưởng kinh tế của cả nước đạt 7,09% GDP (vượt mức mục tiêu đề ra là 6 - 6,5% GDP), thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Việt Nam đã có quy mô nền kinh tế gần 500 tỉ USD, tăng gần 100 lần so với năm 1986, đứng thứ tư Đông Nam Á và thứ 34 thế giới; giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỉ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Việt Nam có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử trong top 10 của thế giới. Theo báo cáo "Kinh tế số Đông Nam Á năm 2024" do Google - Temasek công bố, năm 2024, quy mô nền kinh tế internet Việt Nam đạt 36 tỉ USD, tăng 16% so với năm 2023. Thương mại điện tử bán lẻ tiếp tục là trụ cột với 22 tỉ USD, tăng 18% và chiếm 61% tổng quy mô nền kinh tế internet. Dự kiến, thương mại điện tử sẽ đạt 45 tỉ USD năm 2025.

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024, cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, theo đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng 11,86%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,64%; khu vực dịch vụ chiếm 42,36%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,14%. Đặc biệt, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 8,32% so với năm 2023 (trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,83%); CPI bình quân tăng 3,63% đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2024 ước đạt 2.037,5 nghìn tỉ đồng, bằng 119,8% dự toán năm và tăng 16,2% so với năm 2023; tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành ước đạt 3.692,1 nghìn tỉ đồng, tăng 7,5% so với năm 2023. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện ước đạt 25,35 tỉ USD, tăng 9,4% so với năm 2023, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Bình quân một tháng có gần 19,5 nghìn doanh nghiệp trong nước thành lập mới và quay trở lại hoạt động; gần 16,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Việt Nam đang thuộc top 5 nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu dệt may, da giầy, gạo, cà phê, tiêu, điều, cao su, nhiều mặt hàng nông sản và thủy sản khác. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 405,53 tỉ USD, tăng 14,3% so với năm 2023, với 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, chiếm 94,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó có 7 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỉ USD, chiếm 66,5%); kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 405,53 tỉ USD, tăng 14,3% so với năm 2023; cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,77 tỉ USD và là năm thứ 8 liên tiếp xuất siêu; nhập siêu dịch vụ năm 2024 là 12,34 tỉ USD.

Tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2024 là 2,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với năm 2023, trong đó khu vực thành thị là 2,53%; khu vực nông thôn là 2,05%. Theo kết quả sơ bộ khảo sát mức sống dân cư năm 2024, thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2024 đạt khoảng 5,4 triệu đồng/người/tháng, tăng 8,8% so với năm 2023. Tỉ lệ nghèo tiếp cận đa chiều ước giảm còn dưới 3%. Cả nước có gần 7.500 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên được thị trường đón nhận, ngày càng mở rộng quy mô sản xuất; đời sống vật chất và tinh thần của nông dân ngày càng cải thiện.

Việt Nam ngày càng chủ động hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu sâu rộng, đầy đủ và hiệu quả hơn.

Việt Nam, thuộc nhóm các nền kinh tế thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng hiệu suất đổi mới nhanh nhất.

Theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) 2024 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Trong đó, đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với năm 2023, từ vị trí 57 lên 53; đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với năm 2023, từ vị trí 40 lên 36.

Theo Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử năm 2024 của Liên hợp quốc, Việt Nam vươn lên vị trí thứ 71/193 quốc gia, tăng 15 bậc so với năm 2022, đây là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) ở mức rất cao và vươn lên vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá EGDI của Liên hợp quốc.

Việt Nam cũng không ngừng cải thiện nhiều chỉ số xếp hạng quốc tế quan trọng khác như: Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI); chỉ số Nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu; chỉ số Nước đáng sống nhất thế giới; chỉ số Các nước an toàn nhất; chỉ số Quốc gia hạnh phúc, chỉ số Xếp hạng bảo vệ nhà đầu tư; chỉ số Các nước "tốt nhất thế giới"; và chỉ số Quyền lực mềm toàn cầu. Theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, Chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục tăng từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020.

Đặc biệt, từ năm 2021, Việt Nam đã chính thức được xếp vào nhóm các nền kinh tế có "tự do trung bình", với điểm tổng thể của Việt Nam là 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới), là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới trong bảng xếp hạng Chỉ số tự do kinh tế (Index of Economic Freedom 2021) của Heritage Foundation (Mỹ).

Các quan hệ kinh tế đối ngoại và vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được củng cố.

Tính đến hết năm 2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trong 200 quốc gia trên toàn thế giới (nước mới nhất mà Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao là Malawi từ 23/9/2024 theo giờ Mỹ); thành viên Liên hợp quốc (so với 11 nước năm 1954); có quan hệ kinh tế và thương mại với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ; 71 quốc gia đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.

Việt Nam hiện thuộc top 20 thế giới về thị trường mới nổi và quy mô thương mại, với mạng lưới hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực; trong đó, có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã ký kết và triển khai với hơn 60 quốc gia và nền kinh tế lớn bao quát trên 50 - 60% GDP và thương mại toàn cầu; đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện với 31 đối tác, trong đó có toàn bộ các nước là Ủy viên Thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và các nền kinh tế Nhóm G7; 9 quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện gồm: Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc , Pháp và Malaysia; 10 quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược gồm: Tây Ban Nha, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland; Đức, Ý, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Philippines, New Zealand; 13 quốc gia có quan hệ đối tác toàn diện gồm: Nam Phi, Chile và Venezuela, Argentina, Ukraine, Đan Mạch, Myanmar và Canada, Hungary, Brunei và Hà Lan, Mông Cổ và Các tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE).

Việt Nam lọt vào nhóm 15 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI, với lũy kế đến nay có hơn 40,8 nghìn dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký khoảng 487 tỉ USD. Tính trong 11 tháng năm 2024, Việt Nam đã thu hút FDI đạt 31 tỉ USD, vốn FDI thực hiện đạt 20,4 tỉ USD, tăng 7%, cao nhất trong giai đoạn 5 năm (2020 - 2024) và là năm thứ 3 liên tiếp có mức FDI thực hiện đạt trên 20 tỉ USD, chiếm hơn 60% vốn đăng ký, vượt xa mức trung bình khoảng 40% trên thế giới, thể hiện niềm tin và sự hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, khẳng định Việt Nam là điểm đến của các dòng du khách và đầu tư quốc tế. Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam và Tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới NVIDIA đã ký kết hợp tác thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển và Trung tâm Dữ liệu trí tuệ nhân tạo (AI). Đây là sự kiện mang tính bước ngoặt lịch sử đối với Việt Nam, kỳ vọng đưa nước ta trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển AI hàng đầu ở châu Á.

Việt Nam cũng là điểm sáng trong bức tranh du lịch quốc tế: Tiềm năng tài nguyên du lịch đứng thứ 25 trên thế giới, với nhiều di sản vật thể và phi vật thể được thế giới công nhận; trong 11 tháng năm 2024, Việt Nam thu hút được hơn 15,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 41% so với cùng kỳ năm 2023. Ngày 26/5/2024, Tạp chí Du lịch Travel+Leisure của Mỹ đã công bố lựa chọn Việt Nam là một trong 8 quốc gia đáng sống có chi phí phải chăng dành cho những người về hưu. Việt Nam có chi phí sinh hoạt thấp hơn khoảng 59,3% so với ở Mỹ và giá thuê nhà thấp hơn khoảng 78,5% tùy thuộc vào địa điểm.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2024 ước đạt khoảng 807,7 tỉ USD, cao nhất từ trước đến nay, tăng 15% so với năm 2023 và vượt 2,5 lần so với mục tiêu kế hoạch Chính phủ giao là khoảng 6%. Trong đó, xuất khẩu trên 400 tỉ USD, tăng 14,4% và nhập khẩu tăng 16,4%. Cán cân thương mại ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp và ở mức cao gần 25 tỉ USD.

Về tổng thể, theo Tổng cục Thống kê, đến nay, cơ bản kinh tế nước ta đã phục hồi và đạt được mức tăng trưởng như giai đoạn trước dịch Covid-19, nhất là các chỉ số về sản xuất công nghiệp, dịch vụ - thương mại và xuất nhập khẩu. Quy mô nền kinh tế đứng thứ 35 thế giới và thuộc nhóm 20 nước có quy mô thương mại hàng đầu thế giới, với xuất siêu 9 năm liên tiếp; bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát tốt và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới tiếp tục duy trì tín nhiệm quốc gia của Việt Nam với triển vọng “Ổn định”.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được đánh giá là ngôi sao kinh tế toàn cầu, với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người hằng năm là 5,3% trong 30 năm qua (năm 1990 - 2021), nhanh hơn bất cứ nền kinh tế nào trong khu vực, ngoại trừ Trung Quốc. Năm 2024, Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Báo cáo e-Conomy SEA 2023 dự báo tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam đạt 20%/năm trong giai đoạn 2023 - 2025.

Năm 2025, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng đạt 6,5 - 7,0% GDP, phấn đấu tăng trưởng khoảng 8% GDP để tạo lực, khí thế thực hiện kế hoạch năm 2026 và tạo đà phấn đấu mức 2 con số trong giai đoạn 2021 - 2030. Mục tiêu GDP bình quân đầu người 4.900 USD nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế trên quy mô quốc tế. Phấn đấu Việt Nam xếp hạng 31 - 33 thế giới về quy mô GDP năm 2025. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,1%; tăng năng suất lao động xã hội bình quân từ 5,3 - 5,5%; đẩy mạnh chuyển đổi số, nâng tỉ trọng kinh tế số trong GDP lên khoảng 20%. Mặc dù tăng trưởng đạt 7,09% GDP năm 2024, nhưng nền tảng của sự phục hồi và tăng trưởng trong dài hạn chưa thực sự bền vững.

Việt Nam luôn theo dõi sát tình hình thế giới, phản ứng chính sách phù hợp, ưu tiên cho tăng trưởng, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tăng cường năng lực, sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng, thị trường vốn; tiếp tục cải cách để tăng năng suất, duy trì tăng trưởng lâu dài, bền vững và kiểm soát tốt các rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư…; thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng nhanh, bền vững dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng, nhân lực, tháo gỡ các vướng mắc về thể chế để huy động nguồn lực phát triển, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, đặt mục tiêu tăng trưởng cao hơn trong những thập kỷ tới, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả…; tập trung thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, các ngành, lĩnh vực mới như kinh tế số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chíp, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, nông nghiệp công nghệ cao… và các mô hình kinh tế mới như trung tâm tài chính quốc tế, khu vực, khu thương mại tự do… tại một số địa phương.

Năm 2024, GDP của Việt Nam đạt 7,09%, là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới (Nguồn: Internet)
Năm 2024, GDP của Việt Nam đạt 7,09%, là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu (Nguồn ảnh: Internet)

2. Động lực và cơ hội của kỷ nguyên vươn mình

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khóa XIII đã thống nhất khẳng định Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với nhiều động lực và cơ hội mới.

Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, sẽ đánh dấu sự mở đầu kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, thịnh vượng.

Trên nền tảng những thành tựu vĩ đại của 40 năm đổi mới, động lực hàng đầu để Việt Nam vững vàng bước vào kỷ nguyên mới là thúc đẩy những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới công tác tổ chức, thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả; đột phá trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; khơi dậy sự hứng khởi và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp; củng cố và phát huy sự đoàn kết, nhất trí, ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng, chung sức đồng lòng, phát huy mạnh mẽ tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, ứng dụng khoa học công nghệ 4.0 vào tất cả các lĩnh vực phát triển, quản lý đời sống vĩ mô và vi mô…

Động lực tổng hợp từ tinh gọn bộ máy được cộng hưởng từ nhiều nguồn gắn với kết quả trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và lâu dài của quá trình tinh gọn bộ máy: Từ việc tiết kiệm nguồn lực chi thường xuyên ngân sách nhà nước để nuôi bộ máy sang tăng chi cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội; từ các khoản tiết kiệm được các nguồn lực về thời gian, công sức và tài chính gắn với tuân thủ và tiếp cận chính sách cho người dân và doanh nghiệp, cũng như từ các khoản thu ngân sách nhà nước bổ sung do tinh giản bộ máy và đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng, trách nhiệm cán bộ quản lý, tăng năng lực phản ứng chính sách và phản ứng thị trường gắn với bối cảnh mới.

Ngoài ra, động lực còn đến từ củng cố lòng tin, cải thiện vị thế và sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, khai thác hiệu quả cơ hội đầu tư do bộ máy tinh gọn mang lại, từ đó làm tăng kết quả mở rộng đầu tư của doanh nghiệp trong nước, thu hút FDI và các nguồn lực tiềm năng; đồng thời, từ việc mở rộng các nguồn thu mới, khai thác các nguồn lực khác cho phát triển cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài, trong nước và ngoài nước…

Đặc biệt, động lực, cơ hội mới sẽ được mở ra và phát huy tỉ lệ thuận với làm rõ cũng như phân định rõ địa vị pháp lý, trách nhiệm, phân cấp, phân quyền, yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ từng vị trí công tác trong từng đơn vị và giữa các cơ quan, bộ phận thật đồng bộ, hợp lý, liên thông, gắn kết nhau; làm rõ phạm vi quản lý đa ngành, đa lĩnh vực của một số bộ, ngành, nhất là những bộ, ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, trùng lắp; kiên quyết cắt bỏ sự cồng kềnh, các tầng nấc, đầu mối và các khâu trung gian “ăn theo” không cần thiết, bảo đảm tính đảng, tính hợp lý, tính hợp pháp, tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; vừa phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và vai trò tự quản của địa phương, đơn vị, vừa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo và song trùng về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực; giảm thiểu tính ôm đồm, bao biện, làm thay; tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát, cải cách tối đa thủ tục hành chính; tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật chặt chẽ, khoa học, dân chủ để chính sách, pháp luật kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, thể hiện được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, tạo môi trường đầu tư cởi mở, thân thiện, phục vụ thuận lợi, an toàn, bình đẳng, giảm thiểu mọi chi phí cơ hội cho doanh nhân, doanh nghiệp phát triển và cống hiến, bảo đảm quyền đầu tư, kinh doanh của người dân, giải quyết kịp thời các vướng mắc, khiếu nại, kiến nghị của doanh nghiệp, người dân; bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển, hài hòa lợi ích và sự gắn kết các mục tiêu ngắn hạn, trung và dài hạn, ưu tiên lợi ích của quốc gia, dân tộc là trước hết và trên hết; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; tăng cường kiểm soát quyền lực, kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống nhũng nhiễu, tiêu cực, “lợi ích nhóm” và lãng phí trong hoạt động thể chế.

Đồng thời, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, chuẩn hóa chức danh và xác định vị trí việc làm theo khung tiêu chuẩn, tiêu chí ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình; tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, “vì việc tìm người”; coi trọng sử dụng người có năng lực nổi trội, chủ động, sáng tạo và trách nhiệm công vụ cao; coi trọng chất lượng tham mưu, đề xuất và năng lực điều phối, hướng dẫn, tổ chức thực hiện; thanh lọc kịp thời những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Nâng cao chất lượng, tinh thần trách nhiệm và kỷ cương công vụ, khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm; tăng cường phân cấp quản lý và sự phối hợp giữa và ngay trong nội bộ các cơ quan, cấp, ngành và địa phương theo tinh thần trên - dưới đồng lòng, dọc - ngang thông suốt, đảm bảo rõ người, rõ việc, rõ quy trình, rõ thời gian và mục tiêu, kết quả nhiệm vụ được giao; xóa bỏ các rào cản chính sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất, kinh doanh, sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán và các biểu hiện lợi ích cục bộ trong xây dựng và thực thi chính sách, xóa bỏ sự bất bình đẳng trong tiếp cận và tạo bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội.

Cuộc cách mạng tinh gọn về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tạo hứng khởi và niềm tin cho doanh nghiệp vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, vừa là giải pháp tạo động lực và cơ hội thể chế quan trọng để Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên vươn mình…/.

TS. Nguyễn Minh Phong (Hà Nội)

Tin bài khác

Phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên AI: Con người vẫn là trung tâm của chuyển đổi số

Phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên AI: Con người vẫn là trung tâm của chuyển đổi số

Trong hai ngày 7 - 8/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng phối hợp với Học viện Ngân hàng tổ chức chuỗi Chương trình Chào tân sinh viên K28 với chủ đề “Phát triển nguồn nhân lực trong thời đại AI”. Chương trình hướng tới lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, thích ứng công nghệ và nâng cao nhận thức về vai trò của con người trong kỷ nguyên số khi công nghệ đang định hình lại mọi hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Cùng viết tiếp những trang sử vàng vì hạnh phúc Nhân dân

Cùng viết tiếp những trang sử vàng vì hạnh phúc Nhân dân

Tại Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH), khi trả lời làm thế nào để giữa bề công việc của một người đứng đầu một cơ quan vẫn có thể vừa làm tốt trọng trách, vừa làm thơ, sáng tác nhạc, Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng chia sẻ, đó chính là tinh thần “thi đua là vượt lên chính mình”.
Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 13 Khóa XIII

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 13 Khóa XIII

Sáng nay, 8/10/2025, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bế mạc, hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề ra. Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu quan trọng tại phiên bế mạc Hội nghị. Trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 13 khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 13 khóa XIII

Sáng 6/10/2025, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Agribank thúc đẩy hoạt động khoa học và sáng kiến trong bối cảnh chuyển đổi số

Agribank thúc đẩy hoạt động khoa học và sáng kiến trong bối cảnh chuyển đổi số

Thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị và Chính phủ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã chủ động triển khai nhiều chiến lược phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bài viết phân tích vai trò then chốt của hoạt động khoa học và sáng kiến trong giai đoạn 2021 - 2025, qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế, số hóa quản lý, nâng cao năng lực nhân sự và xây dựng văn hóa đổi mới tại Agribank.
TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025).
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã dự và đọc Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025). Trân trọng giới thiệu Diễn văn của Tổng Bí thư.
80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), sáng 1/9, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô