Chính sách tiền tệ, tín dụng thúc đẩy chuyển đổi xanh và bền vững cho khu vực hợp tác xã

Hoạt động ngân hàng
Mặc dù quá trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh tại các hợp tác xã còn tồn tại nhiều hạn chế, đặc biệt về nguồn lực tài chính, hạ tầng công nghệ và năng lực con người. Tuy nhiên, từ những tín hiệu tích cực như số lượng hợp tác xã áp dụng tiêu chuẩn chất lượng tăng đều qua các năm, hay sự vào cuộc tích cực của các cơ quan trung ương và địa phương trong ban hành cơ chế hỗ trợ hợp tác xã, có thể khẳng định tiềm năng đổi mới, phát triển của khu vực này vẫn rất lớn nếu được đầu tư bài bản, định hướng đúng đắn và hỗ trợ kịp thời.
aa

Tóm tắt: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững là xu thế tất yếu, đặc biệt với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Trong bối cảnh này, các hợp tác xã - nhân tố quan trọng trong tái cơ cấu nông nghiệp, ổn định xã hội và phát triển cộng đồng - đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới toàn diện. Theo đó, chính sách tiền tệ và tín dụng xanh đóng vai trò then chốt, là kênh dẫn vốn chiến lược giúp hợp tác xã có nguồn lực đầu tư, cải tiến công nghệ và phát triển bền vững. Bài viết này phân tích, đánh giá vai trò của chính sách tiền tệ, tín dụng đối với khu vực hợp tác xã, từ đó đề xuất các giải pháp khả thi nhằm thúc đẩy hợp tác xã phát triển theo hướng xanh và bền vững.

Từ khóa: Hợp tác xã, chuyển đổi xanh, chính sách tiền tệ.

THE MONETARY AND CREDIT POLICIES PROMOTE GREEN AND SUSTAINABLE TRANSFORMATION IN COOPERATIVE SECTOR

Abstract: In the context of globalization, climate change, and the accelerating Fourth Industrial Revolution, transitioning to a green and sustainable growth model has become an inevitable trend, especially for developing economies like Vietnam. In this context, the cooperatives, which are key factors in agricultural restructuring, social stability, and community development, are now facing an urgent need for comprehensive transformation. Accordingly, monetary and green credit policies play pivotal role as strategic financial channels, that enable cooperatives to access resources for investment, technological upgrades, and sustainable development. This article analyzes the current situation and evaluates the role of monetary and credit policies in relation to the cooperative sector, thereby proposing feasible solutions to promote green and sustainable for the cooperatives.

Keywords: Cooperative, green transition, monetary policies.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Tổng quan về tình hình phát triển khu vực hợp tác xã tại Việt Nam

1.1. Vai trò của khu vực hợp tác trong phát triển kinh tế nông nghiệp

Trong những năm gần đây, khu vực hợp tác xã ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là tại khu vực nông thôn, miền núi và vùng sâu, vùng xa. Theo thống kê của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, tính đến cuối năm 2024, cả nước có trên 33.500 hợp tác xã đang hoạt động, thu hút sự tham gia của hơn 6,1 triệu thành viên - phần lớn là các hộ nông dân, tiểu thương và lao động nông thôn. Trong tổng số hợp tác xã này, hợp tác xã nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn, đóng vai trò trung tâm trong việc tổ chức sản xuất nông sản, bảo đảm sinh kế bền vững cho hàng triệu người dân, đồng thời góp phần quan trọng vào quá trình tái cơ cấu nông nghiệp và phát triển nông thôn mới.

Khu vực hợp tác xã không chỉ góp phần giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động mà còn nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất thông qua mô hình liên kết - hỗ trợ - chia sẻ giữa các thành viên. Thông qua việc tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và tiếp cận công nghệ, nhiều hợp tác xã đã giúp các hộ thành viên vượt qua tình trạng sản xuất manh mún, tự phát, từ đó từng bước hình thành chuỗi giá trị nông sản bền vững. Ngoài ra, hợp tác xã còn đóng vai trò là cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp, giúp mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy chuyển giao khoa học kỹ thuật và nâng cao năng lực quản trị cho người sản xuất. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh và hội nhập sâu rộng, hợp tác xã chính là mô hình tổ chức kinh tế tập thể linh hoạt, thích ứng và mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng.

Cùng với quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế tuần hoàn trong cả nước, các hợp tác xã kiểu mới đang trở thành cầu nối quan trọng giữa hộ sản xuất nhỏ lẻ với thị trường nội địa cũng như quốc tế, từ đó nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Việc thúc đẩy khu vực hợp tác xã phát triển theo hướng bền vững là một trong những giải pháp chiến lược nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm và giảm nghèo bền vững. Thời gian qua, khu vực hợp tác xã cũng đang tích cực tham gia vào quá trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong cả nước. Số lượng hợp tác xã áp dụng tiêu chuẩn chất lượng tăng đều qua các năm, hay sự vào cuộc tích cực của các cơ quan trung ương, địa phương trong ban hành cơ chế hỗ trợ hợp tác xã đã khẳng định tiềm năng đổi mới, phát triển của khu vực này.

1.2. Một số khó khăn trong phát triển khu vực hợp tác xã

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, thực tiễn cũng cho thấy phần lớn các hợp tác xã vẫn đang vận hành theo mô hình truyền thống, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, trình độ tổ chức, quản trị còn đơn giản và thiếu chuyên nghiệp. Năng suất lao động tại nhiều hợp tác xã còn thấp, thiếu tính liên kết ngang - dọc trong chuỗi giá trị và chưa hình thành được các mô hình kinh tế tập thể hiện đại đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, khả năng tiếp cận tài chính của hợp tác xã hiện vẫn còn nhiều rào cản. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tại Diễn đàn hợp tác xã quốc gia 2025: “Chuyển đổi xanh cho phát triển bền vững” ngày 11/4/2025 tại Hà Nội, mặc dù các tổ chức tín dụng (TCTD) đã tích cực triển khai các chính sách ưu đãi, tuy nhiên tỉ trọng dư nợ tín dụng dành cho khu vực hợp tác xã vẫn ở mức khá khiêm tốn. Đến cuối tháng 01/2025, dư nợ cho vay đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đạt 6.428 tỉ đồng, giảm 6,23% so với cuối năm 2024, chiếm 0,04% tổng dư nợ nền kinh tế. Thực tế này phản ánh rõ sự khó khăn của hợp tác xã trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay chính thức. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều hợp tác xã không có tài sản bảo đảm, hoạt động tài chính thiếu minh bạch, chưa xây dựng được phương án sản xuất, kinh doanh rõ ràng và hiệu quả. Mô hình tổ chức còn lỏng lẻo, hệ thống kế toán, kiểm toán chưa được chuẩn hóa, năng lực quản trị của đội ngũ lãnh đạo hợp tác xã còn yếu, trình độ hạn chế trong xây dựng chiến lược phát triển dài hạn. Những yếu tố này khiến cho các TCTD gặp khó khăn trong việc thẩm định và đánh giá rủi ro, từ đó e ngại trong việc cung cấp tín dụng, đặc biệt là tín dụng không có tài sản bảo đảm.

Song song với khó khăn về vốn, quá trình chuyển đổi xanh, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số tại các hợp tác xã vẫn còn đang ở giai đoạn khởi đầu, diễn ra chậm và thiếu đồng bộ. Khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam thực hiện trong năm 2023 - 2024 cho thấy, chỉ khoảng 24% hợp tác xã áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất an toàn như VietGAP, GlobalGAP hay ISO22000. Điều này cho thấy trình độ công nghệ của các hợp tác xã còn thấp và chưa theo kịp yêu cầu của thị trường, ngay cả thị trường nội địa. Hầu hết các hợp tác xã vẫn sử dụng quy trình sản xuất thủ công, thiết bị lạc hậu, chưa áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải hay thân thiện với môi trường, trong khi đây là những điều kiện cần thiết để tiến tới mô hình sản xuất tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ hay phát triển bền vững.

Về mức độ chuyển đổi số, kết quả khảo sát dựa trên Bộ tiêu chí đánh giá mức độ chuyển đổi số của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy, điểm chuyển đổi số trung bình mà các hợp tác xã đạt được năm 2024 chỉ ở mức 95 điểm, tương đương mức 2 trên thang 6 bậc, tức là mới chỉ ở giai đoạn “khởi động” chuyển đổi số. Các ứng dụng công nghệ số hiện có chủ yếu tập trung vào các phần mềm kế toán, email, phần mềm truy xuất nguồn gốc đơn giản hoặc sử dụng mạng xã hội để quảng bá sản phẩm. Rất ít hợp tác xã có chiến lược tổng thể về chuyển đổi số, hoặc đầu tư vào các hệ thống quản trị doanh nghiệp (ERP), thương mại điện tử tích hợp, công nghệ truy xuất thông minh, Internet vạn vật (IoT) hay công nghệ chuỗi khối (Blockchain).

1.3. Một số nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân lý giải cho tình trạng trên. Thứ nhất, nguồn lực đầu tư cho đổi mới công nghệ còn hạn chế, phần lớn các hợp tác xã không đủ vốn để đầu tư trang thiết bị hiện đại, cũng như chưa có cơ chế tài chính phù hợp để khuyến khích đổi mới sáng tạo. Thứ hai, trình độ nhân lực yếu, nhất là trong việc tiếp cận và vận hành các công nghệ mới. Đa phần cán bộ quản lý hợp tác xã chưa được đào tạo bài bản về công nghệ số, trong khi các hợp tác xã cũng không có cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin. Hạ tầng kỹ thuật tại nhiều địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, còn nhiều bất cập như thiếu đường truyền Internet ổn định, thiết bị vi tính, điện thoại thông minh hoặc phần mềm phù hợp với điều kiện sản xuất thực tế. Thứ ba, về rào cản nhận thức còn khá lớn do nhiều hợp tác xã chưa thấy được tầm quan trọng và lợi ích của việc chuyển đổi số, chưa chủ động tiếp cận các chương trình hỗ trợ hay đề xuất lộ trình cải tiến cụ thể.

2. Chính sách tiền tệ, tín dụng thúc đẩy khu vực hợp tác xã chuyển đổi xanh và bền vững

Trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang hướng xanh, bền vững, chính sách tiền tệ, tín dụng đóng vai trò như một “đòn bẩy tài chính” quan trọng để khơi thông nguồn lực, thúc đẩy đầu tư vào các mô hình sản xuất tuần hoàn, thân thiện môi trường. Với vai trò là cơ quan điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, NHNN đã thể hiện cam kết mạnh mẽ thông qua việc thiết kế, hoàn thiện và tổ chức thực thi nhiều chính sách đồng bộ nhằm hỗ trợ khu vực kinh tế tập thể, đặc biệt là các hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn tín dụng thuận lợi, an toàn và hiệu quả hơn.

Trên nền tảng phát triển bền vững và yêu cầu thực tiễn ngày càng khắt khe từ thị trường, NHNN đã chú trọng hướng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp xanh, năng lượng tái tạo, ứng phó với biến đổi khí hậu, từ đó tạo điều kiện để các hợp tác xã nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ và mở rộng quy mô hoạt động. Theo số liệu thống kê của NHNN, tính đến hết tháng 5/2025, dư nợ tín dụng nông nghiệp nông thôn tăng 5,31% so với cuối năm 2024, chiếm 23,16% dư nợ tín dụng nền kinh tế (cuối năm 2024 tăng 11,27%)1. Đặc biệt, phát triển tín dụng xanh cho khu vực nông nghiệp, nông thôn nói chung, khu vực hợp tác xã nói riêng là một trong những trụ cột quan trọng trong chính sách tiền tệ, tín dụng của NHNN. Theo đó, NHNN đã tập trung xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, tạo cơ sở vững chắc cho các TCTD triển khai các sản phẩm tài chính thân thiện môi trường.

Ngày 07/8/2018, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam, Quyết định này được điều chỉnh theo Quyết định số 1663/QĐ-NHNN ngày 06/8/2024 của Thống đốc NHNN. Đề án đã định hình khung chính sách chung cho hoạt động ngân hàng hướng đến mô hình phát triển bền vững, đồng thời khuyến khích các TCTD chủ động xây dựng danh mục sản phẩm tín dụng xanh, ưu tiên tài trợ cho các dự án có yếu tố bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và phát triển nông nghiệp sinh thái.

Thông tư số 17/2022/TT-NHNN được Thống đốc NHNN ban hành ngày 23/12/2022 về hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã đặt ra yêu cầu cho các TCTD tăng cường công tác quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Điều này không chỉ góp phần tăng cường khả năng quản trị rủi ro cho hệ thống ngân hàng, mà còn tạo ra áp lực tích cực buộc các doanh nghiệp và hợp tác xã phải nâng cao trách nhiệm môi trường nếu muốn tiếp cận nguồn vốn.

Bên cạnh đó, Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của Thống đốc NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cũng được triển khai mạnh mẽ, theo đó đã hướng dẫn cụ thể các ngân hàng thương mại xây dựng danh mục sản phẩm tín dụng xanh, đồng thời khuyến khích mở rộng tín dụng với các điều kiện ưu đãi cho các dự án thân thiện môi trường. Thông qua các chính sách này, dòng vốn tín dụng ngày càng được định hướng rõ rệt vào các lĩnh vực như nông nghiệp sạch, năng lượng tái tạo, mô hình liên kết sản xuất phát thải thấp, mà điển hình là Đề án phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Cửu Long, qua đó, vừa góp phần bảo vệ môi trường, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh ngành hàng chủ lực là sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.

Không dừng lại ở định hướng tín dụng xanh, Chính phủ và NHNN đã ban hành hàng loạt chính sách tín dụng ưu đãi dành riêng cho khu vực nông nghiệp và hợp tác xã, đặc biệt là các mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, kinh tế tuần hoàn và sản xuất bền vững. Cụ thể, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và các nghị định sửa đổi, bổ sung như Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018, cho phép các hợp tác xã được vay vốn mà không cần tài sản bảo đảm với hạn mức có thể lên tới 3 tỉ đồng, điều này đặc biệt ý nghĩa trong bối cảnh nhiều hợp tác xã gặp khó khăn về thế chấp tài sản. Đối với các hợp tác xã triển khai mô hình sản xuất công nghệ cao, mức vay không có tài sản bảo đảm có thể lên tới 70 - 80% giá trị phương án sản xuất, giúp khơi thông nguồn vốn cho đầu tư công nghệ, cải tiến quy trình và mở rộng thị trường.

Mới đây nhất, ngày 16/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, từ ngày 01/7/2025, hợp tác xã nông nghiệp sẽ được TCTD xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm với hạn mức cao hơn trước, cụ thể là hợp tác xã có thể được vay tối đa 5 tỉ đồng mà không cần tài sản bảo đảm.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều chương trình tín dụng quy mô lớn nhằm hỗ trợ hợp tác xã trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Chương trình tín dụng 100.000 tỉ đồng hỗ trợ sản xuất lúa gạo chất lượng cao, thủy sản và lâm sản là một ví dụ điển hình, với lãi suất thấp hơn từ 1 - 2%/năm so với mức thông thường, mang lại hiệu quả thiết thực trong việc giảm chi phí vốn cho người sản xuất. Ngoài ra, các chính sách giảm lãi suất 2%/năm thuộc chương trình phục hồi kinh tế - xã hội hay gói tín dụng đặc biệt từ Ngân hàng Chính sách xã hội cũng giúp hợp tác xã và thành viên hợp tác xã tiếp cận vốn với điều kiện linh hoạt, phù hợp với đặc thù hoạt động sản xuất nông nghiệp và mô hình phát triển kinh tế cộng đồng.

Dù có nhiều chính sách ưu đãi, thực tế cho thấy khả năng tiếp cận tín dụng của các hợp tác xã vẫn còn nhiều trở ngại, đặc biệt là trong khâu thẩm định hồ sơ, chứng minh năng lực tài chính và khả năng trả nợ. Trước tình hình đó, NHNN đã và đang chỉ đạo toàn hệ thống ngân hàng từng bước tháo gỡ những rào cản này thông qua việc cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình cấp tín dụng và nâng cao khả năng đánh giá tín nhiệm khách hàng không có tài sản bảo đảm.

Đồng thời, Thống đốc NHNN đã ban hành các Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2024/TT-NHNN ngày 18/6/2024 và Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 quy định về việc TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ khách hàng gặp khó khăn do bão số 3. Trong đó, hợp tác xã được coi là đối tượng ưu tiên, nhờ đó có thể duy trì hoạt động sản xuất trong giai đoạn bất ổn mà không bị rơi vào tình trạng mất khả năng tiếp cận tài chính trong tương lai.

Không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ tài chính trực tiếp, ngành Ngân hàng còn chú trọng đồng hành cùng hợp tác xã trong quá trình xây dựng phương án sản xuất, tăng cường kỹ năng quản trị và minh bạch tài chính, những yếu tố then chốt giúp nâng cao mức tín nhiệm và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Mặt khác, việc mở rộng cơ chế bảo lãnh tín dụng, phát triển các sản phẩm tín dụng vi mô, tổ chức các chương trình kết nối ngân hàng - hợp tác xã cũng đang được triển khai đồng bộ ở nhiều địa phương nhằm tạo môi trường tín dụng cởi mở, thân thiện, hiệu quả hơn.

3. Một số kiến nghị trong việc thúc đẩy hợp tác xã phát triển xanh và bền vững

Để khu vực hợp tác xã có thể tham gia một cách sâu rộng vào tiến trình chuyển đổi xanh và bền vững, cần thiết phải triển khai các giải pháp một cách đồng bộ, toàn diện, xuyên suốt. Những giải pháp này không chỉ đến từ phía Nhà nước hay ngành Ngân hàng, mà còn đòi hỏi sự chủ động từ chính các hợp tác xã, cũng như vai trò kết nối, hỗ trợ từ các tổ chức trung gian như Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Mỗi chủ thể cần đóng góp một phần trách nhiệm để tạo thành một mạng lưới phối hợp nhịp nhàng, đưa hợp tác xã tiến lên một nấc thang phát triển mới - hiện đại, chuyên nghiệp và bền vững. Một số khuyến nghị cụ thể như sau:

3.1. Đối với NHNN và hệ thống các TCTD

Thứ nhất, với vai trò là đầu mối điều phối dòng chảy vốn trong nền kinh tế, NHNN cần tiếp tục đổi mới chính sách, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn tín dụng xanh, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và các mô hình kinh tế tuần hoàn. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính sách tín dụng phù hợp với mô hình hợp tác xã kiểu mới, có tính liên kết sản xuất và áp dụng công nghệ cao. Các sản phẩm tín dụng nên được thiết kế linh hoạt hơn, không cứng nhắc theo mô hình doanh nghiệp truyền thống, mà phù hợp với đặc thù quản trị tập thể của hợp tác xã.

Thứ hai, các TCTD cần mở rộng phạm vi tín dụng xanh đến các lĩnh vực có nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác đầy đủ như hợp tác xã sản xuất phân bón sinh học, hợp tác xã phát triển năng lượng tái tạo quy mô nhỏ, mô hình hợp tác xã trồng rừng bền vững… nhằm nhân rộng những mô hình vừa hiệu quả kinh tế vừa gắn với trách nhiệm môi trường.

Thứ ba, các TCTD cần linh hoạt hơn điều kiện cho vay, theo đó, cần giảm bớt những rào cản như yêu cầu tài sản bảo đảm phức tạp trong đánh giá, thẩm định tín dụng. Thay vào đó, nên áp dụng các phương án đánh giá tín nhiệm dựa trên chuỗi liên kết, tiềm năng phương án sản xuất, hoặc dòng tiền dự kiến của các hồ sơ vay vốn.

Thứ tư, NHNN và các TCTD cần tăng cường công tác truyền thông, tập huấn cho các hợp tác xã về tài chính xanh, quản trị rủi ro môi trường, xã hội, các khung tiêu chuẩn quốc tế như ESG. Khi hợp tác xã hiểu rõ mình cần thay đổi ra sao, thì mới có thể chủ động chuẩn bị điều kiện để đón nhận dòng vốn một cách hiệu quả và bền vững.

3.2. Đối với các bộ, ban, ngành và chính quyền địa phương

Một là, xây dựng hệ thống tiêu chí, hướng dẫn cụ thể cho hợp tác xã về phát triển xanh và chuyển đổi số, phù hợp với từng lĩnh vực ngành, nghề và trình độ phát triển của từng vùng miền. Những tiêu chí này sẽ là căn cứ quan trọng để đánh giá, phân loại và hỗ trợ hợp tác xã có lộ trình cải thiện rõ ràng.

Hai là, ưu tiên nguồn lực từ các chương trình mục tiêu quốc gia như xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi để hỗ trợ hợp tác xã tiếp cận máy móc, thiết bị công nghệ, phần mềm quản lý cũng như chi phí đào tạo, tư vấn kỹ thuật.

Ba là, tăng cường vai trò của các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã bằng cách bổ sung ngân sách, mở rộng phạm vi bảo lãnh tín dụng, kết nối với các tổ chức tài chính vi mô và tổ chức quốc tế. Đây sẽ là "đòn bẩy" tài chính quan trọng để hợp tác xã có thể vượt qua rào cản về vốn ban đầu trong giai đoạn đổi mới.

Bốn là, cần tạo điều kiện thuận lợi hơn về tiếp cận đất đai, cơ sở hạ tầng sản xuất và quyền sở hữu tài sản như nhà kính, nhà lưới, hệ thống tưới tiêu thông minh… Việc sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất sẽ giúp hợp tác xã dễ dàng hơn trong việc thế chấp vay vốn và mở rộng đầu tư.

3.3. Đối với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Là tổ chức đại diện và đồng hành cùng hợp tác xã, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cần tiếp tục khẳng định vai trò là cầu nối hiệu quả giữa hợp tác xã và các nguồn lực bên ngoài, thông qua các giải pháp:

Thứ nhất, hướng dẫn và tư vấn cho hợp tác xã xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh theo định hướng xanh và số hóa, từ việc lập kế hoạch sản xuất - tài chính đến xây dựng chiến lược tiếp cận thị trường, quản trị rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư.

Thứ hai, tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về quản lý, điều hành hợp tác xã theo mô hình mới, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa giá trị tập thể và khả năng cạnh tranh thị trường. Đây là nền tảng để ban quản trị hợp tác xã thay đổi tư duy, tiếp cận công nghệ và cải tiến quy trình quản trị.

Thứ ba, kết nối và huy động các dự án hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, viện nghiên cứu, doanh nghiệp lớn để đưa các sáng kiến công nghệ, mô hình thử nghiệm và chương trình tài chính vi mô đến gần hơn với hợp tác xã. Đồng thời tổ chức các diễn đàn giao lưu, hội chợ công nghệ và xúc tiến thương mại để hợp tác xã học hỏi và mở rộng hợp tác.

3.4. Đối với các hợp tác xã

Một là, nâng cao năng lực quản trị nội tại, cải tiến cơ chế minh bạch tài chính, bảo đảm uy tín và sự tin cậy đối với các TCTD, đối tác và thành viên. Việc quản lý tốt dòng tiền, thực hiện đầy đủ báo cáo tài chính, và bảo đảm tính pháp lý trong hoạt động là tiền đề để tiếp cận nguồn lực bên ngoài.

Hai là, hợp tác xã cần chủ động tiếp cận, học hỏi và ứng dụng các công nghệ mới phù hợp với quy mô và đặc thù hoạt động của mình. Đồng thời mở rộng liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp và các tổ chức trung gian để tạo thế đứng vững chắc trên thị trường.

Ba là, quan trọng nhất là xây dựng mô hình sản xuất theo hướng xanh, tuần hoàn và số hóa, nghĩa là chú trọng đến hiệu quả sinh thái - kinh tế - xã hội trong từng bước sản xuất, từ đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm. Việc chuyển đổi này không chỉ giúp hợp tác xã tăng sức cạnh tranh, mà còn góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia trong dài hạn.

Chuyển đổi xanh và bền vững là xu hướng không thể đảo ngược trong phát triển hợp tác xã hiện nay. Chính sách tiền tệ, tín dụng và ứng dụng khoa học công nghệ chính là hai động lực then chốt để hợp tác xã thực hiện hành trình này. Do vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, các bộ, ngành, địa phương và chính bản thân hợp tác xã sẽ là nền tảng các hợp tác xã thực sự “chuyển mình”, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước trong kỷ nguyên mới.

1 NHNN (2025). Báo cáo kết quả hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp cuối năm 2025.

Tài liệu tham khảo:

1. NHNN (2025). Báo cáo kết quả hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp cuối năm 2025.

2. Nghị định số 156/2025/NĐ-CP ngày 16/6/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn

3. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn

4. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

5. Quyết định số 1658/QĐ-TTG ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050

6. Quyết định số 882/QĐ-TTG ngày 22/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh 2021 - 2030.

7. Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam - Tham luận của NHNN tại Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2025: “Chuyển đổi xanh cho phát triển bền vững” ngày 11/4/2025 tại Hà Nội.

8. Tham luận của Bộ Tài chính tại Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2025: “Chuyển đổi xanh cho phát triển bền vững” ngày 11/4/2025 tại Hà Nội.

Hải Thanh

Tin bài khác

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Nghiên cứu này đã phân tích mối quan hệ giữa áp dụng ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2017 - 2024. Kết quả cho thấy hiệu quả ESG tổng thể có mối liên hệ tích cực mạnh mẽ và ngày càng tăng cường với hiệu quả tài chính. Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa ESG và hiệu quả tài chính gia tăng đáng kể theo thời gian, với bước ngoặt rõ rệt trong giai đoạn 2022 - 2024. Những phát hiện này đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu về ngân hàng bền vững tại các thị trường mới nổi Đông Nam Á và đưa ra những hàm ý thực tiễn có giá trị cho các bên liên quan trong ngành Ngân hàng Việt Nam. Khi Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu và cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, tầm quan trọng của các thực hành tài chính bền vững dự kiến sẽ ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Chuyển đổi số và thực hành ESG: “Tấm hộ chiếu” giúp doanh nghiệp và ngân hàng phát triển bền vững trên thị trường quốc tế

Chuyển đổi số và thực hành ESG: “Tấm hộ chiếu” giúp doanh nghiệp và ngân hàng phát triển bền vững trên thị trường quốc tế

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, với sự bùng nổ mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp cũng đang chuyển mình mạnh mẽ dựa trên nhiều giải pháp số và thực hành ESG (môi trường, xã hội, quản trị) để đáp ứng biến động không ngừng của xã hội. Đây cũng là nội dung trao đổi xuyên suốt tại Hội thảo “Giải pháp chuyển đổi số và thực hành ESG - Chìa khóa hướng tới hội nhập kinh tế toàn cầu” do Báo Dân trí tổ chức sáng 24/6/2025.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Báo chí với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Báo chí với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Chất lượng thông tin kinh tế trên báo chí không chỉ phản ánh chính sách và thực tiễn kinh tế mà còn thể hiện vai trò, hiệu quả của báo chí và môi trường đầu tư. Cùng với đó, hợp tác chặt chẽ với báo chí giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời đại công nghệ số.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng