Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Chính sách
Tài chính xanh chỉ có thể phát huy hiệu quả khi dòng vốn được phân bổ đúng địa chỉ, đúng nhu cầu và thực chất, nhằm bảo đảm tín dụng xanh không chỉ là trách nhiệm với cộng đồng mà còn trở thành cơ hội chiến lược để các ngân hàng định vị hướng phát triển bền vững của mình.
aa

Tóm tắt: Kinh tế xanh không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là định hướng chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững trong bối cảnh thế giới đối mặt ngày càng nghiêm trọng với biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Tại Việt Nam hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng diễn biến phức tạp, khí thải tại các khu công nghiệp gia tăng, đa dạng sinh học bị suy thoái và chất lượng rừng giảm sút đáng lo ngại. Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 20501. Trên cơ sở đó, bài viết tập trung phân tích vai trò của tín dụng xanh đối với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; đánh giá thực trạng triển khai tại các ngân hàng thương mại; nhận diện những khó khăn trong thực thi chính sách tín dụng ưu đãi cho dự án đầu tư xanh, làm rõ nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam.

Từ khóa: Tín dụng xanh, giải pháp thực thi.

IMPLEMENTATION OF PREFERENTIAL CREDIT POLICIES
FOR GREEN INVESTMENT PROJECTS - CHALLENGES AND SOLUTIONS

Abstract: Green economic development is not only an inevitable trend but also a strategic orientation aimed at promoting sustainable growth in a context where the world is increasingly facing climate change, resource depletion, and environmental pollution. In Vietnam, environmental pollution remains complex, with serious degradation in environmental quality, rising emissions in industrial areas, and alarming declines in biodiversity and forest quality. At COP26, Vietnam made a strong commitment to achieve net-zero emissions by 20501. On that basis, the article focuses on analyzing the role of green credit in green growth and sustainable development; assessing the current state of implementation at commercial banks; identifying difficulties in the execution of preferential credit policies for green investment projects, clarifying their underlying causes, and proposing solutions to enhance implementation effectiveness, thereby contributing to the promotion of green economic development in Viet Nam.

Keywords: Green credit, implementation solutions.

1. Tín dụng xanh và chính sách tín dụng xanh của các NHTM hiện nay

Tín dụng xanh là hình thức cấp vốn của các tổ chức tài chính nhằm thúc đẩy các dự án, hoạt động thân thiện với môi trường và giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Theo đó, các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính cung cấp các khoản vay hướng đến việc tài trợ cho các dự án năng lượng sạch, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Dòng vốn tín dụng xanh không cấp vốn cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, hướng đến mục tiêu tạo sự cân bằng của điều kiện tự nhiên, định hướng cuộc sống con người trở nên hòa hợp với thiên nhiên và môi trường2.

Tín dụng xanh là các khoản vay, do đó tổ chức vay phải hoàn trả cả gốc và lãi trong thời hạn nhất định theo điều khoản hợp đồng. Các sản phẩm tín dụng xanh hiện nay khá đa dạng, bao gồm:

- Khoản vay xanh (Green loan): Là khoản vay được cấp với mục đích tài trợ cho các dự án có tác động tích cực đến môi trường. Điều kiện để nhận khoản vay này là dự án phải tuân thủ các tiêu chuẩn về bền vững môi trường, chẳng hạn như giảm phát thải khí nhà kính, năng lượng tái tạo, quản lý nước và rác thải, đầu tư vào công nghệ sạch, giảm phát thải CO2, cải thiện hiệu quả năng lượng...

- Trái phiếu xanh (Green bond): Đây là một loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho các dự án xanh. Sản phẩm này có thể huy động vốn từ các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Trái phiếu xanh thường có các điều kiện ưu đãi và thu hút được sự quan tâm từ các quỹ đầu tư phát triển bền vững.

- Tín dụng ưu đãi môi trường (Environmental preferential credit): Các tổ chức tài chính cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, hoặc giảm thiểu ô nhiễm.

- Chương trình cho vay tái chế (Recycling loan program): Các tổ chức tài chính có thể cung cấp các chương trình cho vay để hỗ trợ các hoạt động tái chế và quản lý chất thải. Những khoản vay này được sử dụng cho việc đầu tư vào công nghệ tái chế và nâng cấp cơ sở hạ tầng quản lý chất thải.

- Quỹ đầu tư xanh (Green investment fund): Tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp hoặc dự án có mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Nhà đầu tư có thể mua cổ phần trong quỹ này, đồng thời đóng góp vào các sáng kiến xanh.

Thị trường tín dụng xanh đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, trở thành công cụ tài chính quan trọng để thúc đẩy các dự án bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Theo Báo cáo Climate Bonds Initiative (2023), quy mô thị trường tín dụng xanh, bao gồm trái phiếu xanh và khoản vay xanh, đã vượt 1.500 tỉ USD vào cuối năm 2022.

Tại châu Âu - khu vực dẫn đầu thế giới về tín dụng xanh, lượng trái phiếu xanh chiếm gần 50% tổng giá trị phát hành toàn cầu. Năm 2022, nhiều nước trong Liên minh châu Âu (EU) đã phát hành khoảng 400 tỉ USD trái phiếu xanh để hỗ trợ cho các dự án năng lượng tái tạo và hạ tầng bền vững.

Tại Mỹ, thị trường tín dụng xanh phát triển nhanh chóng với sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp và quỹ đầu tư. Các khoản vay xanh và trái phiếu xanh đã đạt khoảng 270 tỉ USD, trong đó, lĩnh vực xây dựng công trình xanh và năng lượng tái tạo được hưởng lợi nhiều nhất.

Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia có sự tăng trưởng đáng kể trong việc phát hành tín dụng xanh, đạt gần 100 tỉ USD vào năm 2022, chủ yếu tập trung vào các dự án năng lượng sạch và giảm phát thải.

Theo số liệu của NHNN, đến ngày 30/11/2025, dư nợ tín dụng xanh ước đạt khoảng 750 nghìn tỉ đồng, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân giai đoạn 2017 - 2025 đạt hơn 21%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại là nguồn cung vốn lớn nhất, chiếm khoảng 88% tổng dư nợ tín dụng xanh3.

Hành lang pháp lý cho tín dụng xanh tại Việt Nam

Khung pháp lý cho tín dụng xanh đang dần được hoàn thiện nhằm hỗ trợ các dự án và hoạt động bền vững. Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 của Chính phủ quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp được coi là khung pháp lý đầu tiên cho trái phiếu xanh tại Việt Nam. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 nhấn mạnh vai trò của việc phát triển bền vững và yêu cầu các dự án phải có Báo cáo đánh giá tác động môi trường, là cơ sở để ngân hàng xem xét, cấp tín dụng cho các dự án xanh. Theo khoản 1 Điều 149 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, các trường hợp được cấp tín dụng xanh bao gồm: “a) Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; b) Ứng phó với biến đổi khí hậu; c) Quản lý chất thải; d) Xử lý ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường; đ) Phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; e) Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; g) Tạo ra lợi ích khác về môi trường”. Đồng thời, phải đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật, chứng minh được dự án đáp ứng tiêu chí về môi trường.

Tiếp theo đó, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, trong đó nổi bật là Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Chiến lược nhấn mạnh yêu cầu: “Xanh hóa các ngành kinh tế. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường”.

2. Thực tiễn triển khai tín dụng xanh tại các NHTM

Phần lớn các NHTM hiện nay tự xây dựng tiêu chí thẩm định tín dụng xanh dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế, điển hình như Khung Xanh (Green Framework) hoặc chứng nhận quốc tế LEED - hệ thống chứng nhận công trình xanh do Hội đồng Công trình Xanh Hoa Kỳ (USGBC) phát triển. Tuy nhiên, việc mỗi ngân hàng áp dụng một bộ tiêu chí riêng có thể dẫn đến thiếu tính thống nhất và minh bạch trong đánh giá dự án. Đây có thể là kẽ hở tiềm ẩn, tạo điều kiện để một số doanh nghiệp lợi dụng, lựa chọn ngân hàng có tiêu chí thẩm định chưa thật chặt chẽ để dễ dàng được phê duyệt khoản vay, ngay cả khi dự án chưa thực sự đáp ứng tiêu chuẩn “xanh”. Một số doanh nghiệp còn cung cấp tài liệu giả mạo hoặc phóng đại tính "xanh" của dự án đáp ứng yêu cầu của ngân hàng. Ngoài ra, không ít trường hợp doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết về đầu tư công nghệ sạch hoặc bảo vệ môi trường sau khi đã nhận vốn vay ưu đãi.

Mặc dù vậy, việc doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng xanh từ các NHTM và tham gia các dự án xanh đã giúp họ mở rộng sản xuất, đồng thời mang lại nhiều lợi ích thiết thực cả về tài chính, môi trường và thương hiệu. Đặc biệt, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo (như điện mặt trời, điện gió) hoặc nông nghiệp hữu cơ có điều kiện cải thiện chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu quốc tế, đồng thời nâng cao uy tín thương hiệu và mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu nhờ đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững. Theo đó, một số ngân hàng lớn như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã triển khai chương trình ưu đãi lãi suất cho vay sản xuất sạch, nông nghiệp hữu cơ hoặc mô hình tiết kiệm tài nguyên. Cụ thể: Agribank, với mạng lưới rộng khắp khu vực nông thôn, đang thực hiện các gói tín dụng xanh có lãi suất từ 4,5 - 6%/năm, ưu tiên hỗ trợ mô hình chăn nuôi tuần hoàn, xử lý phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất phân hữu cơ hoặc điện sinh khối. Tính đến cuối năm 2024, Agribank đã giải ngân khoảng 28.000 tỉ đồng cho các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ xanh.

BIDV đã xây dựng danh mục dự án “xanh hóa” trong nông nghiệp, với các tiêu chí rõ ràng như: Tiết kiệm nước, không phát thải trực tiếp ra môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo hoặc tái chế phụ phẩm. Đồng thời, BIDV phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) triển khai Chương trình Phát triển nông nghiệp bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long (SACRI), dự kiến cung cấp cấp hơn 500 triệu USD vốn vay trong giai đoạn 2024 - 20304. Bên cạnh đó, VietinBank và Vietcombank cũng đang mở rộng các chương trình tín dụng xanh nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đầu tư sản xuất sạch và hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn.

Như vậy, tín dụng xanh không chỉ là công cụ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh của nền kinh tế Việt Nam, phù hợp với Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc triển khai tín dụng xanh vẫn gặp nhiều khó khăn, có ít cơ sở để các NHTM xây dựng kế hoạch cụ thể; hầu hết các quy định mới dừng lại ở phạm vi tổng quát. Điều này làm cho các ngân hàng gặp nhiều khó khăn khi cấp vốn cho dự án xanh. (Bảng 1 và 2)

Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục
Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo của các ngân hàng năm 2023, 2024
Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Xét về hình thức, tín dụng xanh hiện nay đã trở nên phổ biến trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Trong đó, nổi bật nhất là khoản vay xanh, bên cạnh một số hình thức khác như trái phiếu xanh, tín dụng ưu đãi môi trường, quỹ đầu tư xanh và chương trình cho vay tái chế.

Khoản vay xanh là hình thức phổ biến và được các NHTM sử dụng rộng rãi nhất để cấp vốn cho các dự án bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Một số đặc điểm nổi bật của khoản vay xanh:

(i) Là khoản vay trực tiếp từ ngân hàng dành cho doanh nghiệp thực hiện dự án xanh như năng lượng tái tạo, nông nghiệp xanh, quản lý tài nguyên nước, xử lý rác thải...;

(ii) Chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ của các sản phẩm tín dụng xanh;

(iii) Được hầu hết các NHTM lớn tại Việt Nam ưu tiên phát triển, với quy trình xét duyệt, giám sát chặt chẽ, sản phẩm đa dạng và nhiều chính sách ưu đãi lãi suất; (iv) Tốc độ tăng trưởng cao và mở rộng quy mô, danh mục sản phẩm tại các ngân hàng như BIDV, Vietcombank, VietinBank, Agribank, NHTM cổ phần Tiên Phong (TPBank)…

Sở dĩ khoản vay xanh chiếm ưu thế là do hình thức này đáp ứng trực tiếp nhu cầu tài chính của các dự án xanh, có điều kiện vay linh hoạt, phù hợp thực tiễn doanh nghiệp, thủ tục tiếp cận đơn giản hơn so với các hình thức khác. Hơn nữa, quy mô giải ngân lớn, khả năng kết nối trực tiếp với các ngành kinh tế chủ lực trong quá trình chuyển đổi xanh, cùng với việc các ngân hàng chủ động triển khai theo nhu cầu và chính sách nội bộ.

Ngoài ra, còn có các hình thức tín dụng xanh khác hiện ít được sử dụng hoặc mới ở giai đoạn phát triển ban đầu như:

- Trái phiếu xanh: Chủ yếu được phát hành bởi các NHTM lớn, song quy mô còn khiêm tốn do quy trình phát hành phức tạp, yêu cầu tuân thủ chuẩn mực quốc tế (như ICMA, Moody’s…). Do đó, hình thức này chỉ phù hợp với các ngân hàng có quy mô lớn hay dự án có tác động môi trường đáng kể.

- Tín dụng ưu đãi môi trường: Dù có phạm vi áp dụng rộng, song mức độ ưu đãi và cách thức triển khai chưa đồng bộ giữa các ngân hàng. Tiêu chí ưu đãi chưa được xác định rõ ràng nên thường chỉ đóng vai trò sản phẩm phụ trợ cho khoản vay xanh.

- Quỹ đầu tư xanh: Hiện chưa có quỹ đầu tư xanh thuần túy do chính các NHTM vận hành. Các quỹ này mới ở giai đoạn sơ khai vì thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh và tiêu chuẩn đồng bộ.

- Chương trình cho vay tái chế: Quy mô nhỏ, thủ tục xét duyệt phức tạp, yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn môi trường cao. Đồng thời, thiếu tiêu chí định lượng cụ thể và chưa có hệ thống số liệu độc lập, khiến hình thức này chưa trở thành sản phẩm phổ biến trong hệ thống ngân hàng.

Do vậy, khoản vay xanh hiện đang là trụ cột chính của tín dụng xanh tại Việt Nam nhờ tính linh hoạt, khả năng triển khai cao, phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và được nhiều NHTM ưu tiên phát triển. Các hình thức khác tuy có vai trò bổ sung và góp phần đa dạng hóa công cụ tài chính xanh, nhưng vẫn còn hạn chế về quy mô, tính khả thi và khung pháp lý, khiến mức độ ứng dụng trong thực tế còn hạn chế.

3. Khó khăn trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp phát triển kinh tế xanh tại các NHTM Việt Nam

Hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước khởi động tích cực, nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ, các tổ chức quốc tế và nỗ lực triển khai từ các NHTM. Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực mới, hoạt động tín dụng xanh vẫn còn một số hạn chế, khó khăn đặc thù, thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, trước đây, các quy định về ngành, lĩnh vực xanh còn dàn trải, thiếu cụ thể, dẫn đến thiếu hụt quy trình nội bộ và chuyên môn để đánh giá các dự án. Văn bản hướng dẫn cấp tín dụng cụ thể đối với 12 ngành, lĩnh vực xanh do NHNN ban hành năm 2017 mới chỉ mang tính định hướng, chưa phải là danh mục phân loại xanh quốc gia và cũng chưa có sự thống nhất giữa các bộ, ngành trong việc phân loại lĩnh vực xanh. Điều này khiến các cơ quan chức năng gặp khó khăn trong việc xác định, thống kê và quản lý nguồn lực tín dụng xanh của ngành Ngân hàng đối với nền kinh tế. Do đó, nhiều NHTM phải tự tìm hiểu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế dẫn đến tốn kém thời gian và nguồn lực. Tuy nhiên, ngày 04/7/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/8/2025 quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh. Quyết định này kỳ vọng sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn trong quá trình cấp tín dụng và giải ngân cho các dự án xanh.

Thứ hai, hiện nay, công tác giám sát và quản lý rủi ro trong quá trình cấp tín dụng xanh vẫn chưa được quy định rõ ràng. Trên thực tế, nhiều dự án được phê duyệt hồ sơ tác động môi trường đạt chuẩn ở giai đoạn xin vay, nhưng trong quá trình vận hành lại không duy trì đúng cam kết. Trong khi đó, cán bộ tín dụng, do thiếu chuyên môn sâu về môi trường, gặp khó khăn trong việc kiểm tra, đánh giá mức độ tuân thủ và hiệu quả thực hiện dự án. Bên cạnh đó, thiếu cơ sở pháp lý, bộ tiêu chí và công cụ đo lường tác động môi trường cụ thể cũng gây trở ngại lớn cho việc xây dựng chính sách tín dụng xanh và đánh giá rủi ro một cách chính xác.

Thứ ba, một khó khăn khác là vấn đề về nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện tín dụng xanh. Các dự án xanh, nhất là trong lĩnh vực năng lượng tái tạo hoặc sử dụng tài nguyên hiệu quả, thường yêu cầu vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, trong khi nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn và theo chi phí thương mại. Điều này làm tăng rủi ro thanh khoản và giảm khả năng tài trợ của NHTM cho các dự án xanh. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với tín dụng xanh chưa đủ mạnh, trong khi các hình thức huy động vốn xanh như phát hành trái phiếu xanh hay thu hút tiền gửi xanh từ khách hàng vẫn còn hạn chế. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng xanh bền vững, các ngân hàng cần đa dạng hóa nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn ổn định, thông qua các quỹ hỗ trợ hoặc chương trình hợp tác quốc tế.

Thứ tư, định hướng của Chính phủ và NHNN là phát triển ngân hàng xanh, tín dụng xanh với chính sách ưu đãi lãi suất cho vay, song trên thực tế, mức chênh lệch lãi suất giữa tín dụng xanh và tín dụng thông thường không lớn. Điều này khiến doanh nghiệp chưa thực sự được khuyến khích mạnh mẽ, trong khi các NHTM cũng chịu áp lực lợi nhuận do phải cân đối giữa hiệu quả kinh doanh và mục tiêu hỗ trợ phát triển xanh.

Thứ năm, về hoạt động đánh giá rủi ro môi trường - xã hội: Theo Quyết định số 1604/QĐ-NHNN, các NHTM được yêu cầu “xây dựng và thiết lập hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội một cách toàn diện” trong giai đoạn 2018 - 2020, tuy nhiên, đến nay, phần lớn ngân hàng vẫn chưa hoàn thiện, dẫn đến khó khăn cho việc thẩm định và đánh giá hiệu quả dự án, cũng như năng lực trả nợ của khách hàng trong lĩnh vực tín dụng xanh (đặc biệt là với các dự án năng lượng tái tạo có lịch sử hoạt động chưa dài và hiệu quả phụ thuộc nhiều vào các điều khoản hợp đồng). Bên cạnh đó, hạn chế kiến thức kỹ thuật chuyên sâu về môi trường của cán bộ tín dụng cũng khiến việc thẩm định rủi ro trở nên phức tạp và khó khăn hơn.

4. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp phát triển kinh tế xanh

Tín dụng xanh là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển tài chính bền vững toàn cầu, hướng dòng vốn vào các hoạt động kinh tế thân thiện với môi trường và giảm thiểu phát thải. Xu hướng này đòi hỏi sự thay đổi trong cách thức hoạt động của hệ thống tài chính. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khung pháp lý điều chỉnh lĩnh vực tài chính bền vững vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Các quy định và hướng dẫn cụ thể về tiêu chí xanh, phân loại dự án xanh, cơ chế khuyến khích và chế tài còn thiếu đồng bộ và chưa đầy đủ, gây ra những rào cản cho cả ngân hàng và doanh nghiệp trong quá trình triển khai tín dụng xanh.

Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế chính sách về tín dụng xanh hiện nay vẫn còn chậm so với tiến độ, gây thiếu hụt khung pháp lý dẫn đến việc các NHTM gặp khó khăn trong quá trình thẩm định và kiểm soát tín dụng xanh, trong khi doanh nghiệp cũng khó tiếp cận nguồn vốn vay do thiếu hướng dẫn cụ thể về tiêu chí và quy trình đánh giá dự án xanh.

Thứ hai, còn thiếu cơ chế thúc đẩy động lực cho các ngân hàng phát triển tín dụng xanh. Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển tín dụng xanh, tuy nhiên, các cơ chế này chưa thực sự tạo động lực đủ mạnh để các NHTM chủ động và mạnh mẽ hơn trong việc mở rộng hoạt động này. Một nguyên nhân trọng yếu là thiếu các nguồn vốn hỗ trợ dành riêng cho tín dụng xanh, khiến các ngân hàng chưa đủ năng lực tài chính để cấp tín dụng quy mô lớn với lãi suất ưu đãi.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng còn chưa thực sự chặt chẽ và thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai chính sách phát triển ngân hàng xanh và tín dụng xanh. Bộ Tài chính giữ vai trò quan trọng trong việc thu hút và điều phối nguồn vốn xanh từ các tổ chức trong nước và quốc tế. Do đó, việc đa dạng hóa nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn ưu đãi dài hạn với chi phí hợp lý, là yếu tố then chốt để hỗ trợ các dự án kinh tế xanh có thời gian hoàn vốn dài và chi phí đầu tư ban đầu lớn.

Thứ tư, do chưa có quy định cụ thể về các ưu đãi tín dụng xanh, phần lớn các ngân hàng phải tự chủ động tìm kiếm nguồn vốn, vì vậy, một số ngân hàng chưa có quy định cụ thể về mức ưu đãi lãi suất, tiêu chí xét duyệt hoặc hồ sơ vay vốn cho các dự án bảo vệ môi trường. Đồng thời, chưa có cơ chế loại trừ hoặc từ chối cấp tín dụng đối với những doanh nghiệp gây tác động tiêu cực đến môi trường. Mặt khác, tín dụng xanh là một lĩnh vực mới, đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về tài chính bền vững, quản lý rủi ro môi trường và đánh giá tác động của các dự án xanh. Tuy nhiên, nhiều cán bộ tín dụng chưa được đào tạo bài bản về tài chính bền vững, đánh giá rủi ro môi trường - xã hội và thẩm định dự án xanh, do đó còn thiếu kỹ năng đánh giá rủi ro môi trường trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn; trong khi đó, một số ngân hàng chưa thành lập bộ phận chuyên trách về tín dụng xanh. Ngoài ra, các dự án xanh thường có đặc điểm rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn và thời gian thu hồi dài, trong khi tài sản bảo đảm của doanh nghiệp lại hạn chế. Điều này không chỉ làm giảm khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp mà còn khiến các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cấp vốn, dẫn đến tốc độ mở rộng tín dụng xanh còn chậm.

Thứ năm, khả năng tiếp cận thông tin của doanh nghiệp liên quan đến các chương trình tín dụng xanh của NHTM còn hạn chế, dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp chưa biết đến cơ hội tiếp cận nguồn vốn này. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể không nắm bắt được thông tin hoặc chưa hiểu rõ các gói tín dụng ưu đãi dành cho các dự án xanh, cũng như chưa nắm được tiêu chí và điều kiện xét duyệt. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có quy mô nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, thiếu tài sản bảo đảm và chưa có kinh nghiệm trong việc triển khai các dự án đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường khiến họ khó tiếp cận vốn vay xanh. Do đó, dù có nhu cầu chuyển đổi sang mô hình kinh doanh xanh, các doanh nghiệp này vẫn vướng phải rào cản về thông tin, năng lực và thủ tục tín dụng, dẫn đến chưa thể tận dụng hiệu quả các chính sách ưu đãi hiện hành.

4. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp phát triển kinh tế xanh

Để thúc đẩy hoạt động tín dụng xanh và nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp phát triển kinh tế xanh, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, Chính phủ cần có những chính sách tổng thể hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, cụ thể: Xây dựng khung pháp lý chặt chẽ, quy định về trách nhiệm môi trường và xã hội của ngân hàng trong việc cấp tín dụng xanh. Đồng thời, kiến nghị Quốc hội xem xét bổ sung quy định về trách nhiệm của ngân hàng trong lĩnh vực môi trường vào Luật Bảo vệ môi trường và Bộ luật Hình sự, nhằm tạo cơ sở pháp lý ràng buộc và giúp các ngân hàng nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với phát triển bền vững.

Thứ hai, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành hướng dẫn chi tiết việc áp dụng Danh mục phân loại xanh quốc gia, được phân loại theo hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, gắn với lợi ích môi trường cụ thể. Đây sẽ là căn cứ giúp các tổ chức tài chính, nhà đầu tư và NHTM xây dựng danh mục dự án xanh nội bộ của mình. Ngày 04/7/2025, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh, có hiệu lực từ ngày 22/8/2025. Trên cơ sở đó, các ngân hàng xây dựng quy định nội bộ phù hợp tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tìm hiểu, tiếp cận và sử dụng nguồn vốn xanh.

Thứ ba, cần phối hợp với các bộ, ngành phổ biến Bộ chỉ tiêu đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đối với các ngành kinh tế có nguy cơ rủi ro cao. Cùng với đó, các NHTM cần đào tạo chuyên sâu về đánh giá rủi ro môi trường và quản lý Môi trường - Xã hội - Quản trị (ESG) cho đội ngũ cán bộ tín dụng, giúp họ nâng cao năng lực thẩm định. Các ngân hàng cũng cần xây dựng bộ tiêu chí ESG nội bộ phù hợp với đặc thù khách hàng và lĩnh vực kinh doanh; đồng thời, tổ chức các chương trình đào tạo, hỗ trợ khách hàng hiểu rõ và đáp ứng các tiêu chí ESG một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các NHTM cần chủ động tiếp cận nguồn vốn xanh quốc tế thông qua các bộ, ban, ngành liên quan hoặc trực tiếp làm việc với các định chế tài chính, tổ chức phi chính phủ, Quỹ tín dụng xanh (GCTF) do SECO thành lập tại Việt Nam. Việc tăng cường hợp tác quốc tế không chỉ giúp đa dạng hóa nguồn vốn, mà còn hỗ trợ ngân hàng tiếp cận tiêu chuẩn đánh giá xanh hiện đại, tránh tình trạng doanh nghiệp chỉ đạt tiêu chí xanh ở giai đoạn xét duyệt, nhưng mất chuẩn trong quá trình vận hành do thiếu giám sát chuyên môn.

Thứ tư, về vấn đề lãi suất, để có thể cung cấp các khoản tín dụng xanh với thời hạn dài và lãi suất ưu đãi cho các dự án thuộc lĩnh vực xanh, các NHTM cần được hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, chi phí thấp, và có cơ chế chia sẻ lãi suất cho vay giữa các NHTM. Song song đó, các ngân hàng cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông và tiếp thị cho sản phẩm tín dụng xanh, bởi đây là loại hình sản phẩm còn mới mẻ trên thị trường.

Thứ năm, đối với biện pháp bảo đảm tiền vay, cần xem xét ban hành quy định về danh mục các dự án xanh bắt buộc phải có tài sản bảo đảm, đặc biệt là đối với những dự án có mức độ rủi ro cao hoặc giá trị khoản vay lớn. Đồng thời, cần quy định cụ thể yêu cầu đối với tài sản bảo đảm của các dự án này. Việc này là cần thiết bởi các dự án có tính rủi ro cao, nếu xảy ra sai sót sẽ không chỉ ảnh hưởng đến bản thân doanh nghiệp mà còn tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, và xa hơn nữa có thể gây ra hệ lụy nghiêm trọng đối với môi trường.

Có thể đa dạng hóa tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng xanh, chẳng hạn như: Nhà máy điện mặt trời, hệ thống năng lượng tái tạo, công nghệ tiết kiệm năng lượng; chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính (carbon credits) hoặc các tài sản tài chính liên quan đến bảo vệ môi trường; dòng tiền từ dự án xanh, nếu có hợp đồng mua bán điện dài hạn hoặc sự bảo trợ từ chính phủ. Nếu tài sản bảo đảm là một phần của dự án xanh, ngân hàng có thể đánh giá tính bền vững của dự án thông qua tài sản đó, từ đó điều chỉnh mức lãi suất hoặc điều kiện tín dụng phù hợp.

5. Kết luận

Tài chính xanh chỉ có thể phát huy hiệu quả khi dòng vốn được phân bổ đúng địa chỉ, đúng nhu cầu và thực chất, nhằm bảo đảm tín dụng xanh không chỉ là trách nhiệm với cộng đồng mà còn trở thành cơ hội chiến lược để các ngân hàng định vị hướng phát triển bền vững của mình.

Việc thúc đẩy dòng vốn xanh đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ từ chính sách; đặc biệt, cần có cơ chế lãi suất ưu đãi và chính sách bảo lãnh rủi ro cho các dự án đầu tư xanh nhằm tạo động lực thu hút khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào tiến trình phát triển kinh tế xanh. Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh hóa, việc thiết kế các giải pháp tài chính đặc thù cho từng ngành, từng lĩnh vực là yêu cầu cấp thiết, giúp phát huy hiệu quả vai trò “đòn bẩy” của tín dụng xanh trong hiện thực hóa cam kết quốc gia về phát triển bền vững. Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, mà còn là bước đi chiến lược nhằm hiện thực hóa cam kết của Chính phủ Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, phù hợp với xu thế tài chính bền vững toàn cầu.

1 Hà My (2024), Ngành Ngân hàng luôn tiên phong, đi đầu trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG. Cổng thông tin điện tử NHNN, truy cập ngày 29/7/2025 tại https://sbv.gov.vn/vi/w/sbv618813

2 Fausto Cavalli và cộng sự, 2023.

3 Dư nợ tín dụng xanh khoảng 750.000 tỉ đồng; dự kiến hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho dự án xanh, truy cập ngày 19/12/2025 tại https://baochinhphu.vn/du-no-tin-dung-xanh-khoang-750000-ti-dong-du-kien-ho-tro-lai-suat-2-nam-cho-du-an-xanh-102251215163424259.htm

4 Hải Bình (2025), Tín dụng xanh - Bài 4: Vốn xanh, bệ đỡ cho nông nghiệp tuần hoàn, Báo Lâm Đồng, truy cập ngày 02/7/2025 tại https://baolamdong.vn/tin-dung-xanh-bai-4-von-xanh-be-do-cho-nong-nghiep-tuan-hoan-254457.html

Tài liệu tham khảo:

1. Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của Thống đốc NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng.

2. Chính phủ (2025), Dư nợ tín dụng xanh khoảng 750.000 tỉ đồng; dự kiến hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho dự án xanh. https://baochinhphu.vn/du-no-tin-dung-xanh-khoang-750000-ti-dong-du-kien-ho-tro-lai-suat-2-nam-cho-du-an-xanh-102251215163424259.htm

3. Fausto Cavalli và cộng sự (2023), Tài liệu nghiên cứu quốc tế về tài chính xanh.

4. Hà My (2024), Ngành Ngân hàng luôn tiên phong, đi đầu trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG. https://sbv.gov.vn/vi/w/sbv618813

5. Hải Bình (2025), Tín dụng xanh - Bài 4: Vốn xanh, bệ đỡ cho nông nghiệp tuần hoàn. Báo Lâm Đồng. https://baolamdong.vn/tin-dung-xanh-bai-4-von-xanh-be-do-cho-nong-nghiep-tuan-hoan-254457.html

6. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

7. Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.

8. Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.

9. Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg ngày 04/7/2025 của Thủ tướng Chính phủ, có hiệu lực từ ngày 22/8/2025 quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh.

10. VnExpress (2025). Tín dụng xanh là gì. Báo điện tử VnExpress. https://vnexpress.net/tin-dung-xanh-la-gi-4800316.html

11. Thị trường Tài chính tiền tệ (2025), Ngành Ngân hàng Việt Nam tiên phong thúc đẩy tín dụng xanh và phát triển bền vững. https://thitruongtaichinhtiente.vn/nganh-ngan-hang-viet-nam-tien-phong-thuc-day-tin-dung-xanh-va-phat-trien-ben-vung-69021.html

TS. Đỗ Thị Minh Phượng
Khoa Luật - Học viện Ngân hàng

Tin bài khác

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2025, có hiệu lực từ ngày 01/5/2026, đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng trong khuôn khổ pháp lý bảo vệ người gửi tiền tại Việt Nam. Trong bối cảnh hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển theo chiều sâu và rủi ro lan truyền gia tăng, bảo hiểm tiền gửi đang được tái định vị như một công cụ chính sách chủ động nhằm quản trị rủi ro hệ thống và củng cố niềm tin thị trường.
Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp và phân tích hệ thống quy định của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, kết hợp với kinh nghiệm triển khai khuôn khổ pháp lý để áp dụng xếp hạng nội bộ từ Liên minh châu Âu và các quốc gia châu Á điển hình (Singapore, Thái Lan, Malaysia...). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng cụ thể nhằm giúp Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong nước, tiến tới áp dụng thành công xếp hạng nội bộ theo thông lệ quốc tế.
Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Luật Thuế Thu nhập cá nhân năm 2025 cho thấy cách tiếp cận mới trong xây dựng chính sách thuế, khi không chỉ tập trung mở rộng diện thu và tăng cường quản lý thu nhập mà còn chủ động sử dụng thuế như một công cụ định hướng phát triển kinh tế bền vững.
Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: Doanh nghiệp cần chủ động, minh bạch thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy, mặc dù nhiều công ty niêm yết đáp ứng đúng quy định về số lượng và tiêu chuẩn của thành viên độc lập, nhưng vẫn tồn tại tình trạng bổ nhiệm hình thức, chưa phát huy hiệu quả giám sát thực chất. Do đó, việc hoàn thiện tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị là cần thiết để nâng cao chất lượng giám sát, đảm bảo tính minh bạch trong quản trị và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của các công ty niêm yết theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Thủ tướng: Tạo đột phá để Việt Nam bắt kịp, tiến cùng và vươn lên, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới

Thủ tướng: Tạo đột phá để Việt Nam bắt kịp, tiến cùng và vươn lên, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới

Phát biểu kết luận Hội nghị "3 trong 1" chiều 18/12/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, muốn đất nước bắt kịp, tiến cùng và vượt lên, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao thì không có con đường nào khác là đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Chính phủ cam kết sẽ luôn kiến tạo, đồng hành, dỡ bỏ mọi điểm nghẽn về thể chế, hạ tầng, nhân lực để khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và cải cách hành chính thực sự trở thành động lực, nguồn lực mới, cổ vũ cả dân tộc vững bước tiến lên trong kỷ nguyên mới.
Sàn giao dịch vàng quốc gia: Lựa chọn chuẩn vàng và ý nghĩa đối với ổn định kinh tế vĩ mô

Sàn giao dịch vàng quốc gia: Lựa chọn chuẩn vàng và ý nghĩa đối với ổn định kinh tế vĩ mô

Trong hơn một thập kỷ qua, thị trường vàng Việt Nam luôn được xem là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với công tác điều hành kinh tế vĩ mô. Biến động giá mạnh, tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế, cơ cấu giao dịch phân tán, cùng với sự thiếu thống nhất về tiêu chuẩn vàng đã khiến thị trường vàng không chỉ chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh tài sản an toàn, mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và nghiên cứu xây dựng Sàn giao dịch vàng quốc gia là bước đi chiến lược nhằm chuẩn hóa thị trường, giảm thiểu rủi ro, đồng thời tạo động lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.
Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, vừa là cơ quan quản lý vừa là động lực thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia mà còn nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Xem thêm
Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Tài chính xanh chỉ có thể phát huy hiệu quả khi dòng vốn được phân bổ đúng địa chỉ, đúng nhu cầu và thực chất, nhằm bảo đảm tín dụng xanh không chỉ là trách nhiệm với cộng đồng mà còn trở thành cơ hội chiến lược để các ngân hàng định vị hướng phát triển bền vững của mình.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2025, có hiệu lực từ ngày 01/5/2026, đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng trong khuôn khổ pháp lý bảo vệ người gửi tiền tại Việt Nam. Trong bối cảnh hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển theo chiều sâu và rủi ro lan truyền gia tăng, bảo hiểm tiền gửi đang được tái định vị như một công cụ chính sách chủ động nhằm quản trị rủi ro hệ thống và củng cố niềm tin thị trường.
Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp và phân tích hệ thống quy định của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, kết hợp với kinh nghiệm triển khai khuôn khổ pháp lý để áp dụng xếp hạng nội bộ từ Liên minh châu Âu và các quốc gia châu Á điển hình (Singapore, Thái Lan, Malaysia...). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng cụ thể nhằm giúp Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong nước, tiến tới áp dụng thành công xếp hạng nội bộ theo thông lệ quốc tế.
Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Luật Thuế Thu nhập cá nhân năm 2025 cho thấy cách tiếp cận mới trong xây dựng chính sách thuế, khi không chỉ tập trung mở rộng diện thu và tăng cường quản lý thu nhập mà còn chủ động sử dụng thuế như một công cụ định hướng phát triển kinh tế bền vững.
Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: Doanh nghiệp cần chủ động, minh bạch thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy, mặc dù nhiều công ty niêm yết đáp ứng đúng quy định về số lượng và tiêu chuẩn của thành viên độc lập, nhưng vẫn tồn tại tình trạng bổ nhiệm hình thức, chưa phát huy hiệu quả giám sát thực chất. Do đó, việc hoàn thiện tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị là cần thiết để nâng cao chất lượng giám sát, đảm bảo tính minh bạch trong quản trị và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của các công ty niêm yết theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp và phân tích hệ thống quy định của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, kết hợp với kinh nghiệm triển khai khuôn khổ pháp lý để áp dụng xếp hạng nội bộ từ Liên minh châu Âu và các quốc gia châu Á điển hình (Singapore, Thái Lan, Malaysia...). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng cụ thể nhằm giúp Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong nước, tiến tới áp dụng thành công xếp hạng nội bộ theo thông lệ quốc tế.
Ảnh hưởng của minh bạch thông tin đến mức độ chủ động vay vốn của doanh nghiệp

Ảnh hưởng của minh bạch thông tin đến mức độ chủ động vay vốn của doanh nghiệp

Quyết định vay vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố ngoài thị trường tài chính thuần túy, trong đó môi trường thông tin và thể chế ngày càng nổi lên như những biến số quan trọng. Trên cơ sở phân tích định lượng, bài viết đánh giá vai trò của tự do ngôn luận trong mối quan hệ giữa tham nhũng và sự nản lòng vay vốn ngân hàng.
Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường tài sản mã hóa ở Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh xét theo cả quy mô giao dịch và mức độ phổ cập trong đời sống tài chính, yêu cầu hoàn thiện khung phòng, chống rửa tiền trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, bởi các chỉ dấu khách quan cho thấy Việt Nam vừa nằm trong nhóm quốc gia có giá trị giao dịch trên chuỗi rất lớn.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.

Thông tư số 43/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2022/TT-NHNN quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng

Thông tư số 42/2025/TT-NHNN quy định về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng là hợp tác xã

Thông tư số 41/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2024/TT-NHNN quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam