Xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững: Từ nhận thức đến hành động, từ dữ liệu đến AI

Hoạt động ngân hàng
Ngày 21/5/2025, tại Trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) số 504 Xã Đàn, Hà Nội, Thời báo Ngân hàng phối hợp với Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh quốc (ACCA) tổ chức Tọa đàm “Thực hành Báo cáo Phát triển bền vững trong lĩnh vực ngân hàng với giải pháp AI”. Sự kiện quy tụ hơn 300 lãnh đạo đại diện các cơ quan Chính phủ, ngân hàng, doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính - công nghệ tài chính (Fintech) và các tổ chức quốc tế.
aa

Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà: Ứng dụng AI là lời giải tiềm năng cho Báo cáo Phát triển bền vững ngành Ngân hàng

Xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững: Từ nhận thức đến hành động, từ dữ liệu đến AI
Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà phát biểu khai mạc Tọa đàm

Tham dự và phát biểu khai mạc Tọa đàm, Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà nhấn mạnh tầm quan trọng của thực hành phát triển bền vững và vai trò của trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc nâng cao hiệu quả báo cáo, quản trị và thực hành ESG của hệ thống ngân hàng.

Theo Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà, phát triển bền vững đã vượt ra khỏi phạm vi một xu hướng, trở thành một phần cốt lõi trong chiến lược phát triển của ngành tài chính - ngân hàng. Trong đó, việc xây dựng và công bố Báo cáo Phát triển bền vững là công cụ quan trọng để các tổ chức tài chính thể hiện cam kết, minh bạch hóa hoạt động, đồng thời khẳng định vai trò tiên phong trong quá trình hướng tới một nền kinh tế xanh và toàn diện.

Thực hiện định hướng của Chính phủ tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, tầm nhìn 2030, NHNN đã chủ động triển khai nhiều chính sách và kế hoạch hành động để thúc đẩy phát triển bền vững. Phó Thống đốc cho biết, Thống đốc NHNN đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững tại Quyết định số 1731/QĐ-NHNN ngày 31/8/2018, cũng như Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Đề án triển khai kết quả Hội nghị COP26 tại Quyết định số 1408/QĐ-NHNN ngày 26/7/2023 về việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu.

Theo đó, Thống đốc NHNN giao nhiệm vụ cho các ngân hàng thương mại lồng ghép, đưa các nhiệm vụ, giải pháp, chỉ tiêu phát triển bền vững vào chiến lược, chương trình, kế hoạch kinh doanh, quy trình nghiệp vụ; đồng thời khuyến khích các tổ chức tín dụng xây dựng và công bố Báo cáo Phát triển bền vững, công bố các cam kết “xanh” của tổ chức mình.

Ngoài ra, thông qua Đề án phát triển ngân hàng xanh, NHNN đẩy mạnh đào tạo, nâng cao nhận thức về tín dụng xanh và định kỳ tổ chức hội thảo, tọa đàm để phổ biến kinh nghiệm, tiêu chuẩn ESG. Các hoạt động như hợp tác với ACCA, Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ)... tổ chức tọa đàm và đào tạo chuyên sâu cho thấy cam kết rõ ràng của NHNN trong việc hướng dẫn và hỗ trợ các tổ chức tín dụng thực hành Báo cáo Phát triển bền vững theo chuẩn mực quốc tế.

Những bước đi như trên đang tạo ra chuyển biến đáng kể. Năm 2024 ghi nhận số lượng tổ chức lập Báo cáo Phát triển bền vững riêng biệt đạt kỷ lục với 33 đơn vị. Gần như toàn bộ các tổ chức tín dụng đã tích hợp nội dung phát triển bền vững vào Báo cáo thường niên. Đáng chú ý, đã có khoảng 13 - 15 ngân hàng thương mại công bố Báo cáo Phát triển bền vững độc lập và xu hướng này tiếp tục tăng mạnh trong năm 2024 và những tháng đầu năm 2025, với thêm 6 ngân hàng thương mại công bố báo cáo.

Cùng với đó, hoạt động tín dụng xanh cũng đạt kết quả tích cực. Đến cuối quý I/2025, đã có 58 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh với tổng giá trị trên 704.244 tỉ đồng, tăng 3,57% so với cuối năm 2024, chiếm 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Dư nợ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm hơn 37%) và nông nghiệp xanh (trên 29%). Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh trong giai đoạn 2017 - 2024 đạt bình quân 21,2%/năm, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng tín dụng chung.

Tuy nhiên, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cũng thẳng thắn chỉ ra, việc thực hành và công bố Báo cáo Phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng hiện vẫn ở giai đoạn khởi đầu. Những thách thức về khung pháp lý, nguồn lực, năng lực phân tích dữ liệu và đặc biệt là cách thức thu thập, xử lý thông tin một cách hiệu quả và minh bạch vẫn là những rào cản đáng kể.

“Chính vì vậy, việc ứng dụng AI và công nghệ số chính là lời giải tiềm năng cho những bài toán trên. AI không chỉ giúp tự động hóa việc thu thập và tổng hợp dữ liệu, mà còn hỗ trợ phân tích chuyên sâu, phát hiện xu hướng, đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng báo cáo và hiệu quả quản trị bền vững”, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà tin tưởng.

Tại Tọa đàm, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà định hướng ba nhóm trọng tâm chính tập trung thảo luận bao gồm:

Thứ nhất, chia sẻ thực tiễn kinh nghiệm trong nước và quốc tế về xây dựng, công bố Báo cáo Phát triển bền vững trong lĩnh vực ngân hàng, bao gồm các chuẩn mực quốc tế và kết nối với yêu cầu của các nhà đầu tư, đối tác quốc tế.

Thứ hai, thảo luận những khó khăn, thách thức và nhu cầu cụ thể của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam trong quá trình xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến hệ thống dữ liệu, năng lực phân tích, khung pháp lý hướng dẫn.

Thứ ba, cùng nhau đề xuất các giải pháp ứng dụng công nghệ AI và dữ liệu lớn (Big Data) trong việc hỗ trợ Báo cáo Phát triển bền vững. Cụ thể như: Tự động hóa thu thập dữ liệu ESG; chuẩn hóa và đồng bộ dữ liệu từ nhiều nguồn; phân tích rủi ro và hiệu quả môi trường - xã hội; tạo mô hình báo cáo thông minh phục vụ các nhà quản lý và công chúng; công tác quản lý giám sát và đánh giá báo cáo, từ đó nâng cao khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế trong thực hành Báo cáo Phát triển bền vững…

Khẳng định cam kết của cơ quan quản lý, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết, NHNN luôn coi trọng vai trò định hướng và hỗ trợ hệ thống ngân hàng trong nâng cao trách nhiệm xã hội và ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động quản trị và báo cáo. Những gợi ý tại Tọa đàm sẽ là dữ liệu quý để tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, thúc đẩy hơn nữa ứng dụng AI trong thực hành Báo cáo Phát triển bền vững.

“Cũng thông qua Tọa đàm hôm nay, tôi hy vọng, chúng ta sẽ cùng nhau làm rõ các bước đi cụ thể để chuyển đổi từ nhận thức sang hành động, từ quy định sang thực tiễn, nhằm thúc đẩy ngành Ngân hàng phát triển một cách bền vững, có trách nhiệm và hiện đại hơn”, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà nhấn mạnh trong phát biểu khai mạc Tọa đàm.

Ông Tô Quốc Hưng - Giám đốc Quốc gia ACCA Việt Nam: Báo cáo Phát triển bền vững không còn chỉ là tài liệu minh bạch hóa thông tin, mà đã trở thành một tiêu chuẩn đầu tư chung

Xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững: Từ nhận thức đến hành động, từ dữ liệu đến AI
Ông Tô Quốc Hưng - Giám đốc Quốc gia ACCA Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm

Phát biểu tại Tọa đàm, ông Tô Quốc Hưng, Giám đốc Quốc gia ACCA Việt Nam cho biết, trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính - đầu tư trên thế giới, Báo cáo Phát triển bền vững không còn chỉ là một tài liệu minh bạch hóa thông tin. Đó còn là tiêu chuẩn đầu tư chung, giúp đem tới thông tin đa chiều hơn, nhìn xa hơn về các rủi ro và cơ hội của các doanh nghiệp giúp cho việc đầu tư tài chính được hoàn thiện hơn.

Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay cũng đang tồn tại hơn 600 tiêu chuẩn phát triển bền vững. Thực tiễn triển khai cho thấy một số ngân hàng xây dựng báo cáo căn cứ vào bộ chuẩn mực nhất định nhưng lại không được công nhận ở khu vực. Điều này đưa ra một nhu cầu để các tổ chức tại Việt Nam triển khai đồng bộ với các tiêu chuẩn toàn cầu và được công nhận rộng rãi. Tương tự như vậy, công nghệ, phương thức triển khai làm thay đổi bản chất của Báo cáo Phát triển bền vững, và việc này cũng quan trọng không kém việc chọn đúng khung báo cáo quốc tế đang được sử dụng rộng rãi. Các công nghệ triển khai cũng nên được áp dụng với các quốc gia, cụ thể là ứng dụng AI vào trong chuyển đổi xanh và triển khai Báo cáo Phát triển bền vững.

Ông Mike Suffield - Giám đốc Chính sách và Nghiên cứu chuyên sâu, ACCA toàn cầu: AI không thể là “liều thuốc vạn năng” cho mọi vấn đề dữ liệu. Chỉ khi được triển khai trên nền tảng đạo đức, dữ liệu chất lượng và chiến lược bền vững tổng thể thì AI mới thực sự đóng góp tích cực

Ông Mike Suffield - Giám đốc Chính sách và Nghiên cứu chuyên sâu, ACCA toàn cầu phát biểu tại Tọa đàm
Ông Mike Suffield - Giám đốc Chính sách và Nghiên cứu chuyên sâu, ACCA toàn cầu phát biểu tại Tọa đàm

Với kinh nghiệm điều hành nhóm chuyên gia nghiên cứu toàn cầu tại ACCA, ông Mike Suffield - Giám đốc Chính sách và Nghiên cứu chuyên sâu, ACCA toàn cầu khẳng định, AI và phát triển bền vững không còn là hai chủ đề tách rời, mà đang dần hợp nhất thành trục chiến lược mới cho ngành kế toán, tài chính.

Các thế hệ AI mới như AI tạo sinh (Generative AI) và AI tác vụ (Agentic AI) mở ra tiềm năng trong lập báo cáo, điều phối quy trình, và tự động hóa hoạt động kế toán. Tuy nhiên, ông lưu ý rằng, những công nghệ này vẫn đang trong giai đoạn phát triển và chưa thể thay thế hoàn toàn các ứng dụng truyền thống.

Để hướng dẫn thực hành cụ thể, ACCA đã xây dựng mô hình tám giai đoạn cho chu trình sản xuất thông tin Báo cáo Phát triển bền vững. Theo đó từ khâu phân công trách nhiệm, thiết lập bối cảnh, xác định thông tin trọng yếu, cho đến xác minh và cải tiến liên tục - mỗi giai đoạn đều có thể tận dụng sức mạnh của AI.

Tuy nhiên, chuyên gia này cũng cảnh báo, có nhiều tổ chức chưa có sẵn luồng dữ liệu hoặc hạ tầng phù hợp để khai thác tối đa công nghệ này. Những thách thức như dữ liệu rời rạc, thiếu tiêu chuẩn hoặc không có sự phối hợp nội bộ sẽ làm giảm đáng kể hiệu quả triển khai AI. Do đó, ông kêu gọi các tổ chức tiếp cận từng bước, từ cải thiện quản trị nội bộ đến xây dựng kết nối xuyên suốt giữa các bộ phận tài chính, dữ liệu và công nghệ.

Một điểm nhấn quan trọng trong tham luận của ông Mike Suffield là lời kêu gọi sử dụng AI một cách có đạo đức, nhằm củng cố niềm tin vào chất lượng và độ tin cậy của thông tin được tạo ra. ACCA xác lập năm nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cho kế toán viên (tính chính trực, tính khách quan, năng lực và sự thận trọng chuyên môn, bảo mật và ứng xử chuyên nghiệp) như một khung định hướng cơ bản để đánh giá và ứng dụng AI một cách an toàn, minh bạch và hiệu quả.

Theo ông Mike Suffield, các mối đe dọa về mặt đạo đức có thể xuất hiện ở “mọi điểm chạm” giữa công nghệ và dữ liệu. Chẳng hạn, nếu tổ chức sử dụng AI để xác định khung báo cáo hoặc tư vấn yêu cầu công bố thông tin phát triển bền vững, nhưng lại dựa trên dữ liệu huấn luyện không phù hợp, không cập nhật hoặc có thiên lệch theo vùng địa lý, thì rủi ro sai lệch về kết quả sẽ rất cao. Khi đó, sự chính trực sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Việc bỏ qua bước đánh giá tính phù hợp của dữ liệu cũng có thể khiến các khuyến nghị từ AI không phản ánh đúng rủi ro hoặc cơ hội trọng yếu của tổ chức.

Cũng theo ông Mike Suffield, một trong những rủi ro phổ biến hiện nay là sự phụ thuộc không kiểm chứng vào công cụ AI. Điều này xảy ra khi tổ chức không thực hiện quy trình bảo đảm, không đánh giá xem hệ thống AI đang làm gì, do ai kiểm soát và hoạt động dựa trên cơ chế nào. Hậu quả là đầu ra của AI có thể được sử dụng cho các mục đích sai lệch hoặc thiếu kiểm soát, gây tổn hại cho cả chất lượng thông tin lẫn danh tiếng tổ chức. Trong bối cảnh đó, kỹ năng nghề nghiệp truyền thống như kiểm toán nội bộ, phân tích dữ liệu và kiểm chứng nguồn thông tin trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết.

Bên cạnh các rủi ro đạo đức, bài trình bày của ông Mike Suffield còn làm nổi bật một vấn đề mới nhưng ngày càng cấp thiết: “dấu chân” môi trường của các hệ thống AI hiện đại. Khi AI được kỳ vọng trở thành công cụ hỗ trợ Báo cáo Phát triển bền vững, bản thân nó lại gây ra những tác động môi trường không nhỏ - một nghịch lý đầy thách thức.

Theo ước tính của Viện Nghiên cứu Điện lực Hoa Kỳ (EPRI), mỗi truy vấn gửi đến mô hình như ChatGPT tiêu tốn lượng điện gấp 10 lần một truy vấn thông thường trên Google. Với khoảng 200 triệu người dùng hằng tuần chỉ riêng với ChatGPT, hay sự phát triển đồng loạt của các nền tảng AI như Claude, Gemini, LlaMA… làm nhu cầu về tính toán và lưu trữ dữ liệu đang tăng mạnh, kéo theo tiêu thụ năng lượng khổng lồ.

Tác động môi trường không chỉ dừng lại ở điện năng. Các trung tâm dữ liệu hiện đại đòi hỏi hệ thống làm mát công suất lớn, đặc biệt khi chip xử lý ngày càng mạnh. Riêng năm 2022, hai tập đoàn công nghệ lớn là Google và Microsoft đã sử dụng lượng nước làm mát tương đương với nhu cầu sinh hoạt của 700.000 công dân Hoa Kỳ. Nếu xu hướng này tiếp tục, nhu cầu về nước ngọt - vốn đã là tài nguyên dần khan hiếm - sẽ càng bị đẩy đến giới hạn.

Do đó, ông Mike kêu gọi các giám đốc tài chính (CFO) cần mở rộng phạm vi đánh giá khi đầu tư vào AI, không chỉ dừng lại ở chi phí đầu tư ban đầu hay tỉ suất sinh lời, mà cần tính đến chi phí môi trường và nhu cầu đầu tư bổ sung vào các giải pháp bền vững hơn. Các mô hình AI hiệu quả hơn, tiết kiệm năng lượng hơn cần được ưu tiên phát triển, lựa chọn nền tảng cũng nên gắn liền với chiến lược quản trị phát thải của tổ chức.

Trên tất cả, thông điệp được ông Mike Suffield nhấn mạnh là: AI không thể là “liều thuốc vạn năng” cho mọi vấn đề dữ liệu. Bản thân AI cũng là một thực thể công nghệ mang rủi ro, chỉ khi được triển khai trên nền tảng đạo đức, dữ liệu chất lượng và chiến lược bền vững tổng thể thì mới thực sự đóng góp tích cực vào hành trình phát triển dài hạn của ngành tài chính - ngân hàng.

Ông Trần Anh Quý - Trưởng phòng Tín dụng chính sách, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN: Cần sớm ban hành Danh mục phân loại xanh quốc gia

Ông Trần Anh Quý - Trưởng phòng Tín dụng chính sách, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN
Ông Trần Anh Quý - Trưởng phòng Tín dụng chính sách, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN phát biểu tại Tọa đàm

Dù đã có những bước tiến đáng kể, thực tế cho thấy việc xây dựng và công bố Báo cáo Phát triển bền vững vẫn còn khoảng cách đáng kể giữa nhóm ngân hàng tiên phong và phần còn lại. Theo ông Trần Anh Quý - Trưởng phòng Tín dụng chính sách, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN, để tiến trình này thực sự lan tỏa và trở thành một tiêu chuẩn ngành, cần một hệ sinh thái đồng bộ về pháp lý, nguồn lực, năng lực tổ chức và hạ tầng thông tin.

Giải pháp đầu tiên chính là sớm ban hành Danh mục phân loại xanh quốc gia - một bộ tiêu chí chính thức để xác định dự án xanh, làm cơ sở cho việc xây dựng danh mục tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh và lập Báo cáo Phát triển bền vững.

Song song đó, NHNN tiếp tục phối hợp, kết nối với các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế để khảo sát, đánh giá thông lệ quốc tế tốt nhất; hỗ trợ các tổ chức tín dụng tiếp cận, tiếp nhận các hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ nguồn vốn phù hợp.

Giải pháp tiếp theo là tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, đào tạo lực lượng cán bộ ngân hàng có năng lực, kinh nghiệm, đặc biệt là đội ngũ cán bộ là lãnh đạo chủ chốt tại các đơn vị NHNN, lãnh đạo quản lý tại tổ chức tín dụng về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh.

Cùng với đó, các Bộ, ngành, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán, tư vấn tài chính cần phối hợp chặt chẽ, tăng cường hoạt động quản lý, nâng cao chất lượng tư vấn, xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững cho doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.

Ngoài ra, ông Trần Anh Quý cũng đề xuất tăng cường vai trò kiểm soát và hỗ trợ kỹ thuật từ các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là các cơ quan kiểm toán, kế toán và chứng khoán. Các tổ chức này cần phối hợp để thống nhất chuẩn mực đánh giá, tránh tình trạng báo cáo hình thức, thiếu độ tin cậy và không được thị trường quốc tế công nhận. Đồng thời, thị trường tư vấn trong nước cũng cần được chuyên nghiệp hóa, bảo đảm cung cấp dịch vụ phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của các tổ chức tín dụng.

Về phía các tổ chức tín dụng, cần chủ động nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm và tìm kiếm tư vấn phù hợp để đánh giá, xây dựng khuôn khổ quản trị hướng tới phát triển bền vững; bố trí nguồn lực để đầu tư cho thực hành ESG, công bố Báo cáo Phát triển bền vững.

TS. Lê Hùng Cường - Phó Tổng Giám đốc FPT Digital: AI là chìa khóa giúp doanh nghiệp tháo gỡ thách thức dữ liệu ESG

TS. Lê Hùng Cường - Phó Tổng Giám đốc FPT Digital phát biểu tại Tọa đàm
TS. Lê Hùng Cường - Phó Tổng Giám đốc FPT Digital phát biểu tại Tọa đàm

Theo TS. Lê Hùng Cường, xu hướng thế giới chuyển từ “tự nguyện” sang “phải có” đối với hoạt động công bố Báo cáo Phát triển bền vững, tuy nhiên các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập và phân tích dữ liệu. Kết quả khảo sát hơn 200 doanh nghiệp tại Việt Nam cho biết, 67% doanh nghiệp chưa hoặc mới xác định một số chỉ tiêu liên quan đến ESG; 47% doanh nghiệp chưa nắm rõ cách thức thu thập và xử lý dữ liệu ESG; 71% doanh nghiệp chưa trang bị đủ kiến thức về dữ liệu cần thiết để báo cáo; 70% doanh nghiệp không có hoặc ít khi công bố báo cáo ESG ra bên ngoài.

Trong bối cảnh đó, FPT ứng dụng công nghệ số và AI trong hoạt động thu thập, theo dõi và giám sát các chỉ số ESG. TS. Lê Hùng Cường cho biết, thực tế, các dữ liệu ESG nằm rải rác ở các lĩnh vực trọng yếu khác nhau trong điều hành và quản trị của doanh nghiệp, do vậy cần được xác định và phân tách chính xác. Để làm được điều đó, AI là chìa khóa giúp doanh nghiệp tháo gỡ thách thức dữ liệu ESG, đơn giản hóa hoạt động lập báo cáo, từ đó khai thông nguồn vốn xanh từ các tổ chức tài chính, ngân hàng.

Đối với báo cáo ESG truyền thống tại các doanh nghiệp còn gặp nhiều bất cập do phân tán, tốn thời gian và thiếu phân tích theo thời gian thực. Dữ liệu ESG phân tán đến từ nhiều phòng ban và hệ thống khác nhau; thiếu chuẩn hóa theo khung quốc tế (Tiêu chuẩn GRI về Báo cáo phát triển bền vững, tiêu chuẩn ISSB của Hội đồng Tiêu chuẩn Bền vững Quốc tế). Quá trình lập báo cáo thủ công, mất thời gian và dễ sai sót.

Trong khi đó, hệ thống báo cáo và công bố thông tin ứng dụng AI giúp tự động thu thập và chuẩn hóa dữ liệu ESG từ nhiều nguồn AI tích hợp dữ liệu từ hệ thống Internet vạn vật hay các báo cáo... Đối chiếu dữ liệu thực tế với tiêu chí GRI, ISSB để chuẩn hóa, đồng thời, tự động lập báo cáo và kiểm toán dữ liệu ESG nhằm kiểm tra tính đầy đủ, chính xác và minh bạch trước khi công bố.

Đại diện FPT cũng đưa ra kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng AI khơi thông vốn xanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) thông qua tự động hóa, đánh giá báo cáo ESG. Một ví dụ điển hình đó là cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) sử dụng AI để chấm điểm báo cáo ESG của các SME. Theo đó, MAS đã phát triển nền tảng kỹ thuật số Gprnt để đơn giản hóa việc thu thập và báo cáo dữ liệu ESG cho các doanh nghiệp, đặc biệt là SME nhằm tăng cường khả năng tiếp cận vốn xanh.

Giải pháp được đưa ra là sử dụng AI và các công cụ kỹ thuật số để giúp doanh nghiệp đo lường, báo cáo và hành động dựa trên dữ liệu bền vững của họ. Tích hợp dữ liệu từ các nguồn như hóa đơn, tiêu thụ năng lượng và chuỗi cung ứng để tự động phân loại và chấm điểm ESG cho các SME.

Nhờ đó, thời gian xét duyệt khoản vay giảm đáng kể, tăng khả năng tiếp cận vốn xanh cho các SME, giúp ngân hàng tuân thủ các yêu cầu về báo cáo ESG một cách hiệu quả hơn. Một ví dụ khác đó là, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Ngân hàng Trung ương Tây Ban Nha và Ngân hàng Trung ương Đức đã hợp tác trong khuôn khổ dự án Gaia để phát triển công cụ đánh giá KPI ESG các tổ chức tài chính. Thông qua việc sử dụng AI để phân tích các báo cáo tài chính và ESG của 187 tổ chức tài chính nhằm theo dõi 20 chỉ số KPI liên quan đến rủi ro khí hậu, phát thải carbon, phát hành trái phiếu xanh và cam kết Net Zero.

Kết quả, xử lý hơn 2.300 tài liệu bao gồm báo cáo tài chính, báo cáo ESG và các tài liệu công khai khác. Độ chính xác đạt 98% trong việc xác định các tài liệu không chứa thông tin rủi ro khí hậu và 80% trong việc phân loại rủi ro khí hậu từ các tài liệu có liên quan. Hệ thống cho phép bổ sung nhanh chóng các KPI mới hoặc tổ chức mới, giúp mở rộng quy mô phân tích rủi ro khí hậu một cách hiệu quả. Nhờ đó, Gaia giúp các ngân hàng trung ương và tổ chức tài chính đánh giá rủi ro khí hậu một cách nhanh chóng, chính xác, từ đó hỗ trợ hoạch định chính sách, kiểm soát rủi ro môi trường cho các tổ chức tài chính dựa trên dữ liệu thực tế.

Tại Việt Nam, FPT cũng đã triển khai thành công giải pháp VertZero tại nhiều doanh nghiệp, mang lại giá trị thực tiễn cho cả khối ngân hàng và các doanh nghiệp sản xuất trong hành trình quản lý và báo cáo phát thải hiệu quả. Đơn cử như triển khai phần mềm VertZero để kiểm kê khí nhà kính phạm vi 1 và 2 cho ngân hàng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, FPT cũng xây dựng hệ sinh thái công nghệ ESG - AI “Make in Vietnam”, với các sản phẩm chủ lực như FPT AI Read và akaBot. Hai công cụ này giúp tự động trích xuất dữ liệu ESG từ hàng chục định dạng tài liệu; giảm đến 70% khối lượng xử lý thủ công, tăng độ chính xác lên 98%; hỗ trợ ngân hàng gợi ý KPI phù hợp cho các khoản vay xanh như SLB/SLL…

Ông Nguyễn Quang Thuân - Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings: Nên xem xét có một hệ thống tập trung về thông tin và dữ liệu quản trị thông tin môi trường và xã hội

Báo cáo Phát triển bền vững chỉ là kết quả cuối cùng, quá trình để làm nên báo cáo này thì phải hoàn thiện rất nhiều giai đoạn: Thu thập, xử lý, soạn lập báo cáo, đánh giá tác động. Ông Nguyễn Quang Thuân - Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings khẳng định, báo cáo được làm thủ công sẽ không hiệu quả. Đứng ở góc độ ngân hàng, với hàng trăm, hàng chục nghìn khách hàng - đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu không áp dụng AI thì không thể tiến hành được.

Dưới góc nhìn của ông Nguyễn Quang Thuân, thách thức với các ngân hàng là chữ E (Environmental) và S (Social) trong tiêu chuẩn được sử dụng để đo lường mức độ phát triển bền vững ESG. Bởi doanh nghiệp thường có thói quen “xấu che, tốt khoe” về các vấn đề liên quan đến các yếu tố E và S trên. Vì vậy, cần phải có hệ thống công nghệ cao như AI để hỗ trợ việc xác định đo lường, đánh giá thì sẽ hỗ trợ cho việc triển khai công tác này trên phạm vi rộng hơn.

Về hệ thống tiêu chí phân loại xanh của Việt Nam, hiện vẫn chưa ban hành chính thức hệ thống này. Riêng với tín dụng ngân hàng, ông Nguyễn Quang Thuân nhận thấy quan trọng nhất chính là hệ thống về quản trị thông tin môi trường và xã hội (ESMS). Hiện nay, NHNN đã có quy định và hướng dẫn cho hoạt động này, tuy nhiên, vẫn cẫn thiết phải có một hệ thống tập trung về thông tin và dữ liệu để phục vụ cho các công tác quản lý nhà nước và các bên liên quan.

Việc có một hệ thống thông tin ESMS sẽ giúp ích rất nhiều cho toàn ngành Ngân hàng và cho cả thị trường vốn. Bởi hiện nay các thông tin số liệu báo cáo về tín dụng xanh đã có, tuy nhiên những thông tin này đáp ứng cụ thể tiêu chí phân loại nào, “xanh” hay “nâu”; chuyển đổi hay liên kết bền vững... thì Việt Nam chưa có, ngoại trừ một số giao dịch cụ thể về trái phiếu xanh theo chuẩn quốc tế của Hiệp hội thị trường vốn quốc tế. Bên cạnh đó, các thông tin số liệu báo cáo về tín dụng xanh còn hỗ trợ các ngân hàng thực hiện công tác tổng kết, thống kê để theo dõi tiến trình và các cam kết quốc tế, đồng thời, giúp minh bạch thông tin và quản lý rủi ro về “greenwashing” (hành vi tẩy xanh - làm giả quảng cáo xanh để đạt được lợi thế cạnh tranh không công bằng), ảnh hưởng đến tính bền vững thị trường và tránh hệ lụy có thể có trong tương lai.

Dựa trên nghiên cứu một số nước, ông Nguyễn Quang Thuân cho rằng, nên xem xét việc áp dụng các chính sách khuyến khích tín dụng xanh thông qua việc “nới lỏng” các chỉ tiêu giám sát rủi ro hiện nay, ví dụ tín dụng đáp ứng tiêu chí xanh và có đánh giá độc lập có thể được tính toán áp dụng hệ số an toàn linh hoạt hơn như tỉ lệ giữa tổng dư nợ cho vay và tổng tiền gửi (LDR) hoặc chỉ tiêu, sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn... bởi các dự án xanh hầu hết cần nguồn vốn dài hạn. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm tại Trung Quốc, theo đó trái phiếu bình thường thì phải xếp hạng mức AAA (cao nhất) thì mới được phép repo (cầm cố và có quyền mua lại) còn với trái phiếu xanh thì AA có thể được phép tham gia giao dịch repo. Những chính sách hỗ trợ gián tiếp như vậy sẽ tạo sức hấp dẫn cho các sản phẩm tín dụng xanh hay trái phiếu xanh thay vì sử dụng công cụ “giảm lãi suất tín dụng cho vay”. Việc dùng nhiều phương án hỗ trợ mang tính thị trường thay vì yêu cầu các ngân hàng đồng loạt giảm lãi suất đối với tín dụng xanh sẽ hiệu quả hơn và trung hòa được bài toán lợi ích giữa các bên - ông Nguyễn Quang Thuân khẳng định.

Các diễn giả trao đổi trong phiên thảo luận
Các diễn giả trao đổi trong phiên thảo luận tại Tọa đàm

Bà Ngô Thúy Phượng, Phó Trưởng ban Chiến lược, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank): Báo cáo Phát triển bền vững là tiêu chí quan trọng trong quá trình thẩm định tín dụng

Theo Bà Ngô Thúy Phượng, số lượng Báo cáo Phát triển bền vững của các doanh nghiệp công bố đến nay vẫn còn hạn chế. Tuy nhiên nguồn thông tin Báo cáo Phát triển bền vững hết sức toàn diện, cung cấp thông tin về các yếu tố ESG, yếu tố phi tài chính giúp ngân hàng có thể đánh giá và nhận định được những rủi ro về mặt pháp lý, danh tiếng, vận hành… là những thông tin mà báo cáo tài chính truyền thống có thể bỏ sót. Chính vì vậy, Bà Ngô Thúy Phượng đánh giá rằng, Báo cáo Phát triển bền vững là tiêu chí quan trọng trong quá trình thẩm định tín dụng, giúp ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro về danh mục tín dụng, giảm tỉ lệ nợ xấu và có thể xây dựng được danh mục tín dụng và các lĩnh vực phát triển bền vững.

Đối với ngành Ngân hàng, việc triển khai đẩy mạnh và khuyến khích sử dụng công bố Báo cáo Phát triển bền vững cũng là định hướng góp phần gia tăng nguồn vốn tín dụng xanh, thúc đẩy thực hiện thành công chiến lược phát triển tài chính bền vững quốc gia. Như vậy, việc sử dụng Báo cáo Phát triển bền vững vừa là một tiêu chí trong tiêu chuẩn thẩm định tín dụng, vừa là yếu tố hỗ trợ hoạt động ngân hàng an toàn bảo đảm chất lượng tín dụng cũng như công cụ hữu hiệu có thể định hướng doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững trong dài hạn.

Để triển khai hiệu quả được định hướng trong thời gian tới, bà Ngô Thúy Phượng đưa ra một số giải pháp như sau: (i) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về danh mục phân loại xanh quốc gia, ban hành bộ tiêu chuẩn thống nhất về ESG, ban hành quy định tiêu chuẩn về Báo cáo Phát triển bền vững tại Việt Nam có tính minh bạch, có thể so sánh, tiếp cận, tiệm cận với các tiêu chuẩn trên thế giới. (ii) Nâng cao việc đào tạo về kiến thức, kỹ năng của các ngân hàng trong việc thẩm định các yếu tố phi tài chính, Báo cáo Phát triển bền vững. (iii) Xây dựng các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp thực hành phát triển bền vững và công bố Báo cáo Phát triển bền vững có sự chuyển giao kiến thức, đặc biệt tạo cho doanh nghiệp xây dựng và lập Báo cáo Phát triển bền vững tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu ESG quốc gia. Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích các tổ chức tín dụng trong việc đẩy mạnh nguồn tín dụng xanh.

Bà Ngô Thúy Phượng khẳng định, là ngân hàng hàng đầu Việt Nam, vấn đề chính sách của Vietcombank cũng luôn được thực thi hàng đầu. Theo đó, Vietcombank đã thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các chuẩn mực, thực hành Báo cáo Phát triển bền vững để tiếp cận nguồn vốn tốt hơn. Ngoài ra, Vietcombank có định hướng ứng dụng AI trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp để giảm bớt gánh nặng về việc đáp ứng các chuẩn mực. Xác định phát triển bền vững là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình hoạt động, Vietcombank đã có rất nhiều giải pháp đổi mới, cải tiến về các yếu tố quản trị rủi ro môi trường, xã hội và phát triển bền vững. Đặc biệt, Vietcombank thuộc Top 20 doanh nghiệp có chỉ số phát triển bền vững tốt nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Quá trình chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ gắn liền việc tích hợp các yếu tố quản trị rủi ro, môi trường và xã hội vào tất cả mọi mặt của ngân hàng.

Năm nay cũng là năm đầu tiên Vietcombank công bố Báo cáo Phát triển bền vững riêng, điều này cũng phù hợp với xu thế quốc tế. Báo cáo Phát triển bền vững là tiêu chí quan trọng đánh giá tính minh bạch của một tổ chức thực hiện cải thiện các yếu tố phát triển bền vững.

Bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng: Các nội dung tại Tọa đàm cho thấy rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững

Xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững: Từ nhận thức đến hành động, từ dữ liệu đến AI
Bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng phát biểu kết luận Tọa đàm

Phát biểu kết luận Tọa đàm, bà Nguyễn Thị Thanh Bình cho biết, những nội dung được trình bày và thảo luận tại Tọa đàm đã cho thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững trong lĩnh vực ngân hàng. Đây không chỉ là một yêu cầu tuân thủ mà còn là một chiến lược giúp nâng cao tính minh bạch, gia tăng niềm tin của nhà đầu tư, khách hàng và toàn xã hội. Đồng thời, Tọa đàm cũng đưa ra những góc nhìn mới mẻ, cụ thể và thực tiễn về khả năng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quy trình xây dựng và công bố Báo cáo Phát triển bền vững, từ khâu thu thập, xử lý đến phân tích và đề xuất kiến nghị. “Đây sẽ là những nền tảng vững chắc để ngành Ngân hàng Việt Nam hội nhập sâu hơn vào tiến trình phát triển bền vững toàn cầu”, Phó Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng Nguyễn Thị Thanh Bình nhấn mạnh.

Toàn cảnh Tọa đàm
Toàn cảnh Tọa đàm

Đỗ Lê

Tin bài khác

Nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam

Thời gian qua, chính sách tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có nhiều cải thiện, tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Bài viết phân tích những hạn chế còn tồn tại và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng cho nhóm doanh nghiệp này.
Vai trò của Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam trong hỗ trợ tăng tính liên kết hệ thống

Vai trò của Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam trong hỗ trợ tăng tính liên kết hệ thống

Bài viết phân tích vai trò và hoạt động của Hiệp hội QTDND trong tăng cường liên kết hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, chỉ ra các hạn chế hiện tại và đề xuất giải pháp khắc phục.
Thích ứng với rủi ro khí hậu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thích ứng với rủi ro khí hậu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Rủi ro khí hậu đang là thách thức lớn đối với hệ thống tài chính toàn cầu, đặc biệt tại Việt Nam, nơi dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Bài viết phân tích tác động của rủi ro khí hậu đến ngân hàng thương mại, bao gồm cả rủi ro vật lý và rủi ro chuyển đổi, đồng thời chỉ ra hạn chế trong việc tích hợp yếu tố này vào quản trị và chiến lược kinh doanh. Tác giả đề xuất các giải pháp như xây dựng khung đánh giá rủi ro khí hậu, phát triển tài chính xanh và tăng cường minh bạch thông tin. Ngoài ra, bài viết khuyến nghị NHNN hoàn thiện khung pháp lý và thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia để hỗ trợ các ngân hàng thích ứng.
Định hướng tái cấu trúc hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh mới

Định hướng tái cấu trúc hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh mới

Quỹ tín dụng nhân dân là mô hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Bài viết phân tích bối cảnh ảnh hưởng và nêu bật yêu cầu cấp thiết tái cơ cấu hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân. Trên cơ sở đánh giá những bất cập hiện nay, bài viết đề xuất thu hẹp số lượng quỹ, tăng quy mô hoạt động và xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2045.
Tín dụng cá nhân, hộ gia đình  khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Trong bối cảnh sản xuất lương thực toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức khi thời tiết cực đoan làm sụt giảm sản lượng nông sản, các cuộc xung đột cả về quân sự và thương mại ngày càng leo thang… đe dọa đến an ninh lương thực toàn cầu, thì việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank

Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội tiếp tục có nhiều biến động, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tiếp tục nâng cao năng lực quản trị rủi ro, tái cấu trúc danh mục tín dụng, đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng cường hợp tác đa ngành, qua đó, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài, đồng thời, mở ra cơ hội nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác và hướng tới phát triển bền vững trong dài hạn.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng mong muốn nhiều hơn sự cách tân, đổi mới đến từ các ngân hàng. Do đó, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố cần thiết để các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, mà còn là chìa khóa để duy trì năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế số.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Xem thêm
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc