Tín dụng chính sách xã hội: Để không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Hoạt động ngân hàng
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cùng với những nỗ lực của Chính phủ, vốn vay của NHCSXH đã mang lại nhiều tác động tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và khả năng tiếp cận tài chính của những người dân có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam.
aa

Năm 2024 là một năm đạt được nhiều kết quả quan trọng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), đặc biệt, những thành tựu đạt được sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40) là động lực để NHCSXH tiếp tục nỗ lực đưa nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội tới tận những bản làng xa xôi, hải đảo, vùng biên cương Tổ quốc để những người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và những đối tượng chính sách khác có điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh, vươn lên thoát nghèo, cuộc sống ấm no, tương lai tươi sáng hơn trong kỷ nguyên mới.

Hoạt động tín dụng chính sách xã hội đạt kết quả tích cực

Năm 2024, mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó đặc biệt là thiên tai, bão, lũ và biến đổi khí hậu phức tạp, nhiều địa phương và đồng bào các tỉnh, thành phố trong cả nước bị ảnh hưởng nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần, nhất là hộ nghèo và các đối tượng yếu thế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, sự hỗ trợ của các bộ, ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương, sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban điều hành và sự nỗ lực cố gắng của tập thể cán bộ, người lao động, NHCSXH đã tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả quan trọng trong thực thi tín dụng chính sách xã hội. NHCSXH đã huy động được nguồn vốn lớn, đa dạng, đáp ứng nhu cầu vay vốn của đông đảo người nghèo và các đối tượng chính sách khác ở 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước, trong đó, tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới... góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới.

Chất lượng tín dụng chính sách xã hội được nâng cao, tỉ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh được duy trì ở mức thấp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tăng cường công tác tuyên truyền, giám sát, phản biện xã hội trong thực hiện tín dụng chính sách xã hội; thực hiện tốt các hoạt động nhận ủy thác.

Tín dụng chính sách xã hội: Để không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước
Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã giúp nhiều người dân thoát nghèo, có cuộc sống ổn định

Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, phương thức cho vay đặc thù của NHCSXH đạt hiệu quả, phù hợp, phát huy được vai trò và sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, đã góp phần tạo được lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và hoạt động của NHCSXH; chính quyền cơ sở cũng có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với người dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn của người dân, góp phần củng cố hệ thống chính trị cơ sở, giữ vững ổn định an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện hỗ trợ NHCSXH về cơ sở vật chất, địa điểm, trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực hoạt động của NHCSXH; bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Đặc biệt, năm 2024, NHCSXH đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40, qua đó nêu bật những kết quả đạt được trong 10 năm, là minh chứng khẳng định Chỉ thị số 40 và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40 là giải pháp đúng đắn, phù hợp, thiết thực, mang tính đột phá trong chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Chỉ thị số 40 đã phát huy hiệu lực, hiệu quả và thực sự đi vào cuộc sống; làm thay đổi một cách toàn diện, sâu sắc nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về vai trò, vị trí của tín dụng chính sách xã hội.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cùng với những nỗ lực của Chính phủ, vốn vay của NHCSXH đã mang lại nhiều tác động tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và khả năng tiếp cận tài chính của những người dân có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới: “NHCSXH là đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính vi mô lớn nhất Việt Nam và là một trong những ngân hàng cung cấp tài chính vi mô lớn nhất châu Á, là một trong số ít các mô hình thành công và bền vững trên thế giới”.

Đáp ứng nhu cầu vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác

Với phương châm hoạt động “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ, nâng cao hiệu quả, phát triển bền vững”, NHCSXH đã xây dựng mạng lưới hoạt động rộng khắp toàn quốc, triển khai kịp thời, trên diện rộng chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ “nơi nào có người nghèo và đối tượng chính sách, nơi đó có NHCSXH”; luôn đồng hành để kịp thời hỗ trợ các đối tượng chính sách tiếp cận dễ dàng, thuận lợi nguồn vốn tín dụng chính sách. Bên cạnh đó, NHCSXH đã tích cực triển khai nhiều giải pháp có hiệu quả trong công tác tham mưu huy động nguồn lực để bảo đảm đủ nguồn vốn giải ngân kịp thời đến khách hàng vay vốn nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là khôi phục sản xuất và ổn định cuộc sống sau bão, lũ, nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách.

Tính đến ngày 31/12/2024, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách đạt 376.247 tỉ đồng, tăng 29.823 tỉ đồng so với năm 2023; trong đó, vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đạt 50.681 tỉ đồng, tăng 11.506 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 13,5%.

Tín dụng chính sách xã hội: Để không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước
Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội được công khai niêm yết tại các điểm giao dịch xã

Nguồn vốn nhận ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác bao gồm vốn ủy thác theo Nghị quyết số 111/2024/QH15 ngày 18/01/2024 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia đạt 2.141 tỉ đồng tại 20 chi nhánh NHCSXH tỉnh, thành phố. Điển hình, một số chi nhánh nhận nguồn vốn ủy thác từ địa phương lớn trên 1.000 tỉ đồng kể từ khi có Chỉ thị số 40 như Thành phố Hà Nội là 8.834 tỉ đồng, Thành phố Hồ Chí Minh là 7.351 tỉ đồng, Thành phố Đà Nẵng là 2.163 tỉ đồng, Bình Dương là 2.207 tỉ đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu là 1.620 tỉ đồng, Quảng Ninh là 1.502 tỉ đồng, Đồng Nai là 1.446 tỉ đồng, Vĩnh Phúc là 1.047 tỉ đồng…

Triển khai thực hiện Quyết định số 22/2023/QĐ-TTg ngày 17/8/2023 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù, đã có 60 chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh tham mưu triển khai cho vay bằng nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương với số tiền là 248,3 tỉ đồng. Trong đó, có 53 chi nhánh đã tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương chuyển riêng nguồn vốn để cho vay người chấp hành xong án phạt tù với số tiền là 205,3 tỉ đồng.

Tổng doanh số cho vay của NHCSXH tính đến ngày 31/12/2024, đạt 119.507 tỉ đồng, với 2.321 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn; tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 367.631 tỉ đồng, tăng 35.708 tỉ đồng, tương ứng tăng 10,8% so với năm 2023, với gần 6.890 nghìn khách hàng còn dư nợ. Trong đó, tín dụng phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tạo sinh kế và việc làm, bao gồm: Cho vay hộ nghèo, cho vay hộ cận nghèo, cho vay hộ mới thoát nghèo, cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn, cho vay giải quyết việc làm… dư nợ đạt 263.293 tỉ đồng, chiếm 71,6% tổng dư nợ. Tín dụng phục vụ đời sống, sinh hoạt bao gồm: Cho vay học sinh, sinh viên, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; cho vay nhà ở xã hội; cho vay hộ nghèo làm nhà ở phòng tránh bão, lụt khu vực miền Trung; cho vay mua nhà ở trả chậm vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, dư nợ đạt 104.387 tỉ đồng, chiếm 28,4% tổng dư nợ.

Bên cạnh đó, cho vay các chương trình tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia cũng đạt kết quả tích cực. Tính đến ngày 31/12/2024, dư nợ cho vay đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đạt khoảng 140.423 tỉ đồng, chiếm 38,2% tổng dư nợ, với hơn 2,8 triệu hộ đang còn dư nợ, trong đó, dư nợ cho vay tại các huyện nghèo đạt 35.289 tỉ đồng, chiếm 9,6% tổng dư nợ, với gần 650 nghìn hộ đang còn dư nợ.

Đối với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Dư nợ ở khu vực nông thôn đạt khoảng 324.958 tỉ đồng, chiếm 88,4% tổng dư nợ, tập trung vào một số lĩnh vực chính như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 210.248 tỉ đồng, chiếm 64,7% tổng dư nợ; cho vay tiêu dùng trên địa bàn nông thôn (xây nhà ở, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo dục và đào tạo...) là 84.489 tỉ đồng, chiếm 26% tổng dư nợ; ngành công nghiệp, thương mại và cung ứng dịch vụ phi nông nghiệp là 16.898 tỉ đồng, chiếm 5,2% tổng dư nợ.

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có dư nợ khoảng 130.130 tỉ đồng, chiếm 35,4% tổng dư nợ, với hơn 2,4 triệu khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ đối với đối tượng vay vốn là hộ dân tộc thiểu số đạt khoảng 89.455 tỉ đồng, với hơn 1,6 triệu hộ còn dư nợ, chiếm 24,3% tổng dư nợ; dư nợ bình quân một hộ dân tộc thiểu số đạt 56 triệu đồng (dư nợ bình quân chung toàn quốc là 53,4 triệu đồng/khách hàng).

Trong năm 2024, vốn tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho hơn 712 nghìn lao động, trong đó hơn 9,3 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và gần 7 nghìn lượt người chấp hành xong án phạt tù có việc làm; giúp hơn 88,5 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập; xây dựng gần 1.760 nghìn công trình nước sạch, công trình vệ sinh ở nông thôn; xây dựng 1.143 căn nhà ở cho hộ nghèo ổn định cuộc sống; hơn 6,2 nghìn căn nhà ở xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp… góp phần ổn định và phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đầu tư tín dụng ưu đãi các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, góp phần đưa đất nước chuyển mình sang kỷ nguyên mới

Những thành tựu đạt được của NHCSXH minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ của tập thể cán bộ, người lao động trong hệ thống NHCSXH, qua đó, góp phần củng cố niềm tin của người dân vào tín dụng chính sách xã hội.

Bước sang năm 2025, NHCSXH tiếp tục đặt trọng tâm vào nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro và đẩy mạnh chuyển đổi số, nhằm thúc đẩy các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới. Theo đó, để thực hiện tốt kế hoạch tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2025 nhằm đáp ứng nguồn vốn cho vay hộ nghèo, các đối tượng chính sách khác, thanh toán kịp thời các khoản nợ đến hạn và bảo đảm khả năng thanh toán toàn hệ thống, NHCSXH tiếp tục: (1) Tham mưu Chính phủ, các bộ, ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp tổ chức, triển khai thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành Trung ương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng dự thảo trình Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39/CT-TW; xây dựng dự thảo Kế hoạch triển khai của HĐQT NHCSXH và Chương trình hành động của NHCSXH để triển khai thực hiện Chỉ thị số 39/CT-TW và Kế hoạch thực hiện Chỉ thị của Chính phủ; (2) Phối hợp tham mưu công tác ủy thác nguồn vốn ngân sách địa phương theo Nghị quyết số 111/2024/QH15 ngày 18/01/2024 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; (3) Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành Trung ương, tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp tại Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 theo Quyết định số 05/QĐ-TTg ngày 04/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch triển khai thực hiện của HĐQT, Chương trình hành động của Tổng Giám đốc NHCSXH. Tổ chức sơ kết việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030. Chi nhánh NHCSXH các tỉnh, thành phố tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 theo Kế hoạch của địa phương nhằm đạt được các chỉ tiêu Chiến lược đã đề ra.

Bên cạnh đó, NHCSXH tiếp tục tập trung triển khai thực hiện kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2025 ngay khi được Thủ tướng Chính phủ giao, hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021 - 2025.

Cùng với đó, NHCSXH sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý, xử lý nợ rủi ro và kế hoạch, nhiệm vụ chuyển đổi số năm 2025; đồng thời, tập trung nguồn lực hoàn thành chuyển đổi hệ thống Intellect Core Banking lên phiên bản ngân hàng số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ trên ứng dụng Mobile Banking, từng bước mở rộng hệ sinh thái số của NHCSXH.

Phương Chi
NHNN

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng