Tín dụng chính sách xã hội: Để không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Hoạt động ngân hàng
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cùng với những nỗ lực của Chính phủ, vốn vay của NHCSXH đã mang lại nhiều tác động tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và khả năng tiếp cận tài chính của những người dân có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam.
aa

Năm 2024 là một năm đạt được nhiều kết quả quan trọng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), đặc biệt, những thành tựu đạt được sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40) là động lực để NHCSXH tiếp tục nỗ lực đưa nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội tới tận những bản làng xa xôi, hải đảo, vùng biên cương Tổ quốc để những người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và những đối tượng chính sách khác có điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh, vươn lên thoát nghèo, cuộc sống ấm no, tương lai tươi sáng hơn trong kỷ nguyên mới.

Hoạt động tín dụng chính sách xã hội đạt kết quả tích cực

Năm 2024, mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó đặc biệt là thiên tai, bão, lũ và biến đổi khí hậu phức tạp, nhiều địa phương và đồng bào các tỉnh, thành phố trong cả nước bị ảnh hưởng nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần, nhất là hộ nghèo và các đối tượng yếu thế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, sự hỗ trợ của các bộ, ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương, sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban điều hành và sự nỗ lực cố gắng của tập thể cán bộ, người lao động, NHCSXH đã tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả quan trọng trong thực thi tín dụng chính sách xã hội. NHCSXH đã huy động được nguồn vốn lớn, đa dạng, đáp ứng nhu cầu vay vốn của đông đảo người nghèo và các đối tượng chính sách khác ở 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước, trong đó, tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới... góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới.

Chất lượng tín dụng chính sách xã hội được nâng cao, tỉ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh được duy trì ở mức thấp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tăng cường công tác tuyên truyền, giám sát, phản biện xã hội trong thực hiện tín dụng chính sách xã hội; thực hiện tốt các hoạt động nhận ủy thác.

Tín dụng chính sách xã hội: Để không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước
Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã giúp nhiều người dân thoát nghèo, có cuộc sống ổn định

Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, phương thức cho vay đặc thù của NHCSXH đạt hiệu quả, phù hợp, phát huy được vai trò và sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, đã góp phần tạo được lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và hoạt động của NHCSXH; chính quyền cơ sở cũng có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với người dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn của người dân, góp phần củng cố hệ thống chính trị cơ sở, giữ vững ổn định an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện hỗ trợ NHCSXH về cơ sở vật chất, địa điểm, trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực hoạt động của NHCSXH; bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Đặc biệt, năm 2024, NHCSXH đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40, qua đó nêu bật những kết quả đạt được trong 10 năm, là minh chứng khẳng định Chỉ thị số 40 và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40 là giải pháp đúng đắn, phù hợp, thiết thực, mang tính đột phá trong chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Chỉ thị số 40 đã phát huy hiệu lực, hiệu quả và thực sự đi vào cuộc sống; làm thay đổi một cách toàn diện, sâu sắc nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về vai trò, vị trí của tín dụng chính sách xã hội.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cùng với những nỗ lực của Chính phủ, vốn vay của NHCSXH đã mang lại nhiều tác động tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và khả năng tiếp cận tài chính của những người dân có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới: “NHCSXH là đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính vi mô lớn nhất Việt Nam và là một trong những ngân hàng cung cấp tài chính vi mô lớn nhất châu Á, là một trong số ít các mô hình thành công và bền vững trên thế giới”.

Đáp ứng nhu cầu vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác

Với phương châm hoạt động “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ, nâng cao hiệu quả, phát triển bền vững”, NHCSXH đã xây dựng mạng lưới hoạt động rộng khắp toàn quốc, triển khai kịp thời, trên diện rộng chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ “nơi nào có người nghèo và đối tượng chính sách, nơi đó có NHCSXH”; luôn đồng hành để kịp thời hỗ trợ các đối tượng chính sách tiếp cận dễ dàng, thuận lợi nguồn vốn tín dụng chính sách. Bên cạnh đó, NHCSXH đã tích cực triển khai nhiều giải pháp có hiệu quả trong công tác tham mưu huy động nguồn lực để bảo đảm đủ nguồn vốn giải ngân kịp thời đến khách hàng vay vốn nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là khôi phục sản xuất và ổn định cuộc sống sau bão, lũ, nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách.

Tính đến ngày 31/12/2024, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách đạt 376.247 tỉ đồng, tăng 29.823 tỉ đồng so với năm 2023; trong đó, vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đạt 50.681 tỉ đồng, tăng 11.506 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 13,5%.

Tín dụng chính sách xã hội: Để không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước
Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội được công khai niêm yết tại các điểm giao dịch xã

Nguồn vốn nhận ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác bao gồm vốn ủy thác theo Nghị quyết số 111/2024/QH15 ngày 18/01/2024 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia đạt 2.141 tỉ đồng tại 20 chi nhánh NHCSXH tỉnh, thành phố. Điển hình, một số chi nhánh nhận nguồn vốn ủy thác từ địa phương lớn trên 1.000 tỉ đồng kể từ khi có Chỉ thị số 40 như Thành phố Hà Nội là 8.834 tỉ đồng, Thành phố Hồ Chí Minh là 7.351 tỉ đồng, Thành phố Đà Nẵng là 2.163 tỉ đồng, Bình Dương là 2.207 tỉ đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu là 1.620 tỉ đồng, Quảng Ninh là 1.502 tỉ đồng, Đồng Nai là 1.446 tỉ đồng, Vĩnh Phúc là 1.047 tỉ đồng…

Triển khai thực hiện Quyết định số 22/2023/QĐ-TTg ngày 17/8/2023 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù, đã có 60 chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh tham mưu triển khai cho vay bằng nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương với số tiền là 248,3 tỉ đồng. Trong đó, có 53 chi nhánh đã tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương chuyển riêng nguồn vốn để cho vay người chấp hành xong án phạt tù với số tiền là 205,3 tỉ đồng.

Tổng doanh số cho vay của NHCSXH tính đến ngày 31/12/2024, đạt 119.507 tỉ đồng, với 2.321 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn; tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 367.631 tỉ đồng, tăng 35.708 tỉ đồng, tương ứng tăng 10,8% so với năm 2023, với gần 6.890 nghìn khách hàng còn dư nợ. Trong đó, tín dụng phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tạo sinh kế và việc làm, bao gồm: Cho vay hộ nghèo, cho vay hộ cận nghèo, cho vay hộ mới thoát nghèo, cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn, cho vay giải quyết việc làm… dư nợ đạt 263.293 tỉ đồng, chiếm 71,6% tổng dư nợ. Tín dụng phục vụ đời sống, sinh hoạt bao gồm: Cho vay học sinh, sinh viên, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; cho vay nhà ở xã hội; cho vay hộ nghèo làm nhà ở phòng tránh bão, lụt khu vực miền Trung; cho vay mua nhà ở trả chậm vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, dư nợ đạt 104.387 tỉ đồng, chiếm 28,4% tổng dư nợ.

Bên cạnh đó, cho vay các chương trình tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia cũng đạt kết quả tích cực. Tính đến ngày 31/12/2024, dư nợ cho vay đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đạt khoảng 140.423 tỉ đồng, chiếm 38,2% tổng dư nợ, với hơn 2,8 triệu hộ đang còn dư nợ, trong đó, dư nợ cho vay tại các huyện nghèo đạt 35.289 tỉ đồng, chiếm 9,6% tổng dư nợ, với gần 650 nghìn hộ đang còn dư nợ.

Đối với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Dư nợ ở khu vực nông thôn đạt khoảng 324.958 tỉ đồng, chiếm 88,4% tổng dư nợ, tập trung vào một số lĩnh vực chính như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 210.248 tỉ đồng, chiếm 64,7% tổng dư nợ; cho vay tiêu dùng trên địa bàn nông thôn (xây nhà ở, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo dục và đào tạo...) là 84.489 tỉ đồng, chiếm 26% tổng dư nợ; ngành công nghiệp, thương mại và cung ứng dịch vụ phi nông nghiệp là 16.898 tỉ đồng, chiếm 5,2% tổng dư nợ.

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có dư nợ khoảng 130.130 tỉ đồng, chiếm 35,4% tổng dư nợ, với hơn 2,4 triệu khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ đối với đối tượng vay vốn là hộ dân tộc thiểu số đạt khoảng 89.455 tỉ đồng, với hơn 1,6 triệu hộ còn dư nợ, chiếm 24,3% tổng dư nợ; dư nợ bình quân một hộ dân tộc thiểu số đạt 56 triệu đồng (dư nợ bình quân chung toàn quốc là 53,4 triệu đồng/khách hàng).

Trong năm 2024, vốn tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho hơn 712 nghìn lao động, trong đó hơn 9,3 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và gần 7 nghìn lượt người chấp hành xong án phạt tù có việc làm; giúp hơn 88,5 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập; xây dựng gần 1.760 nghìn công trình nước sạch, công trình vệ sinh ở nông thôn; xây dựng 1.143 căn nhà ở cho hộ nghèo ổn định cuộc sống; hơn 6,2 nghìn căn nhà ở xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp… góp phần ổn định và phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đầu tư tín dụng ưu đãi các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, góp phần đưa đất nước chuyển mình sang kỷ nguyên mới

Những thành tựu đạt được của NHCSXH minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ của tập thể cán bộ, người lao động trong hệ thống NHCSXH, qua đó, góp phần củng cố niềm tin của người dân vào tín dụng chính sách xã hội.

Bước sang năm 2025, NHCSXH tiếp tục đặt trọng tâm vào nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro và đẩy mạnh chuyển đổi số, nhằm thúc đẩy các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới. Theo đó, để thực hiện tốt kế hoạch tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2025 nhằm đáp ứng nguồn vốn cho vay hộ nghèo, các đối tượng chính sách khác, thanh toán kịp thời các khoản nợ đến hạn và bảo đảm khả năng thanh toán toàn hệ thống, NHCSXH tiếp tục: (1) Tham mưu Chính phủ, các bộ, ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp tổ chức, triển khai thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành Trung ương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng dự thảo trình Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39/CT-TW; xây dựng dự thảo Kế hoạch triển khai của HĐQT NHCSXH và Chương trình hành động của NHCSXH để triển khai thực hiện Chỉ thị số 39/CT-TW và Kế hoạch thực hiện Chỉ thị của Chính phủ; (2) Phối hợp tham mưu công tác ủy thác nguồn vốn ngân sách địa phương theo Nghị quyết số 111/2024/QH15 ngày 18/01/2024 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; (3) Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành Trung ương, tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp tại Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 theo Quyết định số 05/QĐ-TTg ngày 04/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch triển khai thực hiện của HĐQT, Chương trình hành động của Tổng Giám đốc NHCSXH. Tổ chức sơ kết việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030. Chi nhánh NHCSXH các tỉnh, thành phố tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 theo Kế hoạch của địa phương nhằm đạt được các chỉ tiêu Chiến lược đã đề ra.

Bên cạnh đó, NHCSXH tiếp tục tập trung triển khai thực hiện kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2025 ngay khi được Thủ tướng Chính phủ giao, hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021 - 2025.

Cùng với đó, NHCSXH sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý, xử lý nợ rủi ro và kế hoạch, nhiệm vụ chuyển đổi số năm 2025; đồng thời, tập trung nguồn lực hoàn thành chuyển đổi hệ thống Intellect Core Banking lên phiên bản ngân hàng số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ trên ứng dụng Mobile Banking, từng bước mở rộng hệ sinh thái số của NHCSXH.

Phương Chi
NHNN

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô