Tín dụng chính sách “tô thắm” những hy vọng thoát nghèo

Hoạt động ngân hàng
Cuộc sống của nhiều người dân tại các miền quê trên cả nước đang từng ngày “thay da đổi thịt”. Đời sống của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác ngày càng ấm no, hạnh phúc.
aa

Cuộc sống của nhiều người dân tại các miền quê trên cả nước đang từng ngày “thay da đổi thịt”. Đời sống của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đó chính là thành quả kết tinh từ những chủ trương đúng, cách làm sáng tạo, hợp lòng dân được Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) vận dụng giúp bà con được vay vốn, chăm lo phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định cuộc sống.

Thụ hưởng “trái ngọt” từ chính sách

Đến thăm căn nhà giản dị của anh Bế Văn Lỵ tại thôn Hồng Phong, xã Phong Dụ, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh chúng tôi không khỏi bất ngờ. Vài năm trước, cuộc sống của gia đình anh còn nhiều khó khăn, vất vả. Ánh mắt anh Lỵ thoáng buồn khi nhớ lại những ngày tháng ấy, cái nghèo cứ đeo bám mãi, tương lai trắc trở như con đường đất đỏ sau những cơn mưa. Thế rồi, năm 2017, cánh cửa hy vọng mở ra khi anh Lỵ được NHCSXH huyện Tiên Yên duyệt vay 50 triệu đồng để phát triển kinh tế. Với số vốn quý giá, anh Lỵ quyết định đầu tư vào chăn nuôi 3.000 con gà giống. Công sức chăm sóc đàn gà cẩn thận của gia đình anh đã được đền đáp xứng đáng, đàn gà lớn nhanh, khỏe mạnh, cho thu nhập ổn định. Nhờ đó, năm 2018, gia đình anh đã thoát khỏi diện hộ nghèo. Đến nay, đàn gà của gia đình anh Lỵ đã tăng lên 8.000 con, mỗi năm thu về từ 200 đến 300 triệu đồng. Cuộc sống của gia đình anh giờ đây đã khấm khá hơn rất nhiều, anh Lỵ tâm sự với chúng tôi, ánh mắt của anh sáng lên niềm tin và hy vọng vào một tương lai tươi sáng ở phía trước.



Các cán bộ NHCSXH luôn đồng hành cùng người nghèo và đối tượng chính sách

trên chặng đường phát triển kinh tế

Hay tại Ninh Thuận - nơi được mệnh danh là “vùng trũng”, “rốn nghèo”, với tỉ lệ hộ nghèo lên tới 36% vào thời điểm 30 năm trước, đến nay đã có nhiều thay đổi rõ rệt. Là một trong 73.000 hộ vượt qua ngưỡng nghèo nhờ nguồn vốn vay từ NHCSXH tỉnh Ninh Thuận, gia đình ông Katơr Điêu, người dân tộc Raglay, thôn Bậc Rây 2, xã Phước Bình, huyện Bác Ái đã viết nên câu chuyện thoát nghèo của riêng mình. Hành trình bắt đầu từ 10 năm trước, khi ông Katơr Điêu được NHCSXH huyện Bác Ái tin tưởng trao cơ hội vay vốn lần đầu tiên. Với số tiền vay được, ông Katơr Điêu đầu tư nuôi bò sinh sản, từng bước gây dựng cơ nghiệp. Những chú bò khỏe mạnh mang lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình. Không dừng lại ở đó, với bản tính cần cù, chịu khó, ông Katơr Điêu tiếp tục vay vốn thêm hai lần nữa. Tổng số tiền được vay là 80 triệu đồng đã được ông tiếp tục “rót” vào công việc nuôi bò, đồng thời cải tạo đất đồi, trồng bưởi, sầu riêng. Hiện tại với đàn bò 10 con và 2 ha vườn cây ăn trái, mỗi năm mang lại thu nhập hơn 100 triệu đồng, giúp gia đình ông Katơr Điêu thoát khỏi cảnh nghèo khó, có cuộc sống no ấm.

Để có được kết quả tích cực giúp hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác sử dụng hiệu quả đồng vốn tín dụng chính sách, các địa phương đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn; đa dạng hóa sinh kế; xây dựng, phát triển các mô hình giảm nghèo hiệu quả; hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp thông qua chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản... giúp người nghèo, đối tượng yếu thế vươn lên thoát nghèo. Tại tỉnh Ninh Thuận, căn cứ tình hình ngân sách của địa phương hằng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài chính tham mưu, ưu tiên bổ sung nguồn vốn chuyển sang NHCSXH để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn, đồng thời tăng cường chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân tham gia gửi tiền tiết kiệm tại NHCSXH. Cũng từ đây, cuộc hành trình của tín dụng chính sách ở miền quê “nắng như phang”, “gió như rang” trở nên bền bỉ, hối hả hơn bao giờ hết nhờ vào hệ thống 271 hội đoàn thể các cấp tỉnh, huyện, xã và mạng lưới 1.638 tổ tiết kiệm và vay vốn tại các thôn, xóm trên toàn địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Còn tại tỉnh Quảng Ninh, Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 17/5/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh “Về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030” đã dành khoảng 2.600 tỉ đồng đầu tư cho người dân vùng khó khăn để phát triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo; dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi, khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; hỗ trợ tín dụng cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh; nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng. Giai đoạn 2021 - 2023, tỉnh Quảng Ninh đã ưu tiên dành 240 tỉ đồng ngân sách ủy thác qua NHCSXH tỉnh để cho người dân vay vốn phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập. Qua đó, tỉnh Quảng Ninh đã hoàn thành trước 3 năm Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 theo tiêu chí của Trung ương; đang triển khai áp dụng quy định chuẩn nghèo đa chiều trên địa bàn tỉnh cao hơn quy định của Trung ương. Hiệu quả từ những chính sách này, người dân là những người cảm nhận được rõ ràng và trân quý nhất.

Không chỉ hỗ trợ người nghèo và đối tượng chính sách vươn lên trong cuộc sống, NHCSXH còn mang hy vọng sưởi ấm họ trong những lúc khó khăn. Yên Bái là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc chịu thiệt hại nặng nề do hoàn lưu của cơn bão số 3 (bão Yagi) với những đợt mưa to, lũ lớn diễn ra vừa qua, nhiều hộ vay vốn tại NHCSXH càng trở nên khó khăn hơn khi chịu nhiều thiệt hại về người và tài sản. Để giải quyết khó khăn này, NHCSXH tỉnh Yên Bái phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức chính trị - xã hội rà soát các khách hàng đang vay vốn bị thiệt hại để áp dụng biện pháp xử lý rủi ro phù hợp, đúng quy định. Tại thời điểm này, mỗi hộ nghèo bị thiệt hại bởi bão, lũ tại địa phương đã được NHCSXH giải ngân từ 80 - 100 triệu đồng vốn ưu đãi để khôi phục, phát triển sản xuất, kinh doanh. Kết quả giải ngân sau bão, lũ đến cuối tháng 9/2024, đã có 87 hộ được vay, với tổng số tiền là 4,5 tỉ đồng.

Vững bước vì mục tiêu giảm nghèo bền vững

Từ những kết quả trên có thể thấy, những mục tiêu về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang dần hiện rõ. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định, chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng đất nước là phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, mọi người dân đều được thụ hưởng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; với tinh thần “tất cả cùng phát triển” và “không ai bị bỏ lại phía sau”. Việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, hạn chế phân hóa giàu nghèo, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước.

Với định hướng đó, cùng với các chính sách tổng thể thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách tín dụng ưu đãi dành cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác do NHCSXH thực hiện đã trở thành một cấu phần quan trọng trong hành trình “tô thắm” những cuộc đời gặp nhiều khó khăn. “Chính sách này đã tạo điều kiện cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước một cách thuận lợi, nhanh chóng để phát triển sản xuất, kinh doanh, cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống; góp phần ổn định và phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đầu tư tín dụng ưu đãi các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”, bà Lê Thị Đức Hạnh, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH khẳng định.

Mặc dù nguồn lực tín dụng chính sách đã góp phần hỗ trợ người nghèo, đối tượng chính sách vươn lên thoát nghèo, song vẫn còn một số hạn chế, khó khăn. Theo đánh giá của các chuyên gia, nguồn vốn ủy thác tại một số tỉnh còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều địa phương; chính sách tín dụng với mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững đã tạo điều kiện cho nhiều nhóm đối tượng được thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước nhưng chưa triệt để. Trong khi đó, địa bàn hoạt động của tín dụng chính sách trải dài trên cả nước, ở nhiều địa hình hiểm trở, nhận thức và trình độ của hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế...

Từ những khó khăn trên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách, các quy định liên quan tới tổ chức, hoạt động tín dụng chính sách xã hội của NHCSXH; nghiên cứu, bổ sung chính sách hỗ trợ tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với hộ có mức sống trung bình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Các địa phương cần tiếp tục quan tâm, cân đối, ưu tiên bố trí ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH, nhất là nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm, nguồn vốn cho vay nhà ở xã hội… Báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, cho phép tăng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; tạo điều kiện để NHCSXH được tiếp nhận nguồn vốn ODA và mở rộng các hình thức huy động vốn… nhằm tăng cường nguồn lực để thực hiện mục tiêu mở rộng đối tượng, nâng mức cho vay các chương trình tín dụng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn tới.

Về phía NHCSXH, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu NHCSXH tập trung ưu tiên nguồn vốn cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo. Đồng thời, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, nâng cao năng lực dự báo, phân tích; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, hiện đại hóa ngân hàng; nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp; xây dựng đội ngũ cán bộ có uy tín, phong cách làm việc tiên tiến, hiện đại, tận tâm, tận tụy phục vụ người dân.

Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, trong thời gian tới, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Thị Hồng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị NHCSXH yêu cầu toàn hệ thống tiếp tục tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW, Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, Quyết định số 1630/QĐ-TTg ngày 28/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW, Nghị quyết 111/2024/QH15 ngày 18/01/2024 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, tăng cường huy động các nguồn lực, nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương.

Tập trung tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2024, giải ngân kịp thời, đến đúng đối tượng thụ hưởng. Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành và cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách về huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính, về đối tượng, mức cho vay... để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Cùng với tăng trưởng tín dụng, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng yêu cầu toàn hệ thống tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, tăng cường công tác truyền thông về tín dụng chính sách xã hội và hoạt động của NHCSXH; tập trung thực hiện chuyển đổi số, triển khai các dự án trọng tâm nhằm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng toàn diện cho các đối tượng khách hàng của NHCSXH.


Giáng Tiên
NHNN

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Xem thêm
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô