Những vấn đề mới đặt ra trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Điểm mới trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập...
aa

Độc lập, tự chủ là giữ vững chủ quyền và năng lực tự quyết định mọi hoạt động của quốc gia - dân tộc về đối nội, đối ngoại, nhất là lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại theo lợi ích cao nhất của quốc gia và ý chí của người dân, không phụ thuộc vào bất cứ thế lực nào từ bên ngoài; trong đó, độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị và tăng cường độc lập, tự chủ của quốc gia; không thể có độc lập, tự chủ về chính trị trong khi lệ thuộc về kinh tế; độc lập và tự chủ đóng vai trò cốt lõi trong tư tưởng chính trị, nhà nước, pháp luật, kể cả quan hệ quốc tế…

1. Nhận diện nền kinh tế độc lập tự chủ theo tinh thần văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII

Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”, đồng thời nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng sức mạnh dân tộc; trong đó, nội lực là quyết định, tranh thủ yếu tố ngoại lực và thời đại có vai trò quan trọng.

Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế, chủ trương: Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, xác định: “…chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế,… kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chủ trương: Tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững…

Theo văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nền kinh tế độc lập tự chủ Việt Nam có những điểm nhấn đặc trưng của kinh tế thị trường mang tính thời đại: Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các chủ thể kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường; Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội;…

Lần đầu tiên Đảng nêu rõ yêu cầu: Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn bó mật thiết với giữ vững các cân đối lớn đi đôi với bảo đảm an ninh kinh tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia; tăng cường đào tạo cán bộ… có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế…; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Điểm mới trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị cả ở cấp quốc gia và doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.

Đặc biệt, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu “bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Điều đó là cần thiết, tạo sự linh hoạt và vận dụng hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới. Đây cũng là thông điệp khẳng định sự nhất quán trong nhận thức chính trị nói chung của Đảng ta về định hướng nội dung và mục tiêu con đường đổi mới, hội nhập của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, phù hợp với thực tiễn trong nước và xu hướng chung trên thế giới.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng phân định rõ hơn vai trò, nội dung, yêu cầu và các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước trong phát triển và củng cố các quan hệ gắn kết giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, theo đó:

Trong nền kinh tế độc lập tự chủ Việt Nam, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước… Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, với mục tiêu cao nhất là vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”…

Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường, áp dụng quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế, lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu chủ chủ yếu và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cần nhấn mạnh rằng, các nguyên tắc và kết quả triển khai chúng là cần thiết để Việt Nam được các thành viên WTO và các đối tác thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ các FTA thế hệ mới.

Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.

Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng làm sâu sắc hơn nhận thức về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước: Nhà nước có vai trò chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; tăng cường đào tạo cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; nâng cao năng lực dự báo và ngăn chặn, trung hòa các tác động mặt trái của kinh tế thị trường (như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh thiếu lành mạnh, phân hóa giàu nghèo và coi nhẹ các vấn đề y tế, môi trường, xã hội…); đồng thời, là nhạc trưởng giữ nhịp và đảm bảo ổn kinh tế vĩ mô, bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ các cam kết, quy luật và quy trình kinh tế trong hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia và tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước…

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng còn lần đầu tiên mở rộng, nhấn mạnh và làm rõ hơn mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, thay vì chỉ có quan hệ Nhà nước với thị trường trong văn kiện các kỳ Đại hội trước đây. Theo đó, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước; giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật…

Về tổng thể, có thể thấy, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là chủ trương lớn và nhất quán của Đảng, Nhà nước, là đòi hỏi khách quan, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, động lực cho đất nước ta vươn mình, ngày càng củng cố cơ đồ, tiềm lực kinh tế, sự độc lập, tự chủ của quốc gia, vị thế và uy tín quốc tế, hướng tới khát vọng hùng cường, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là nền kinh tế biệt lập, khép kín, tự cung, tự cấp, thiếu gắn kết với các nền kinh tế trên thế giới, mà là nền kinh tế có sự độc lập, tự chủ về đường lối phát triển phù hợp với xu hướng thế giới và thực tiễn lịch sử; có các nguồn nội lực hùng hậu, năng lực cạnh tranh cao, cơ cấu kinh tế hợp lý, thích ứng nhanh và hiệu quả với những biến động của tình hình quốc tế và hướng tới yêu cầu phát triển bền vững; trong bất cứ tình huống nào cũng bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng, tài chính - tiền tệ, môi trường quốc gia, kiểm soát được các rủi ro thị trường, giữ vững sự ổn định các cân đối vĩ mô và các hoạt động bình thường về kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng...

Đặc biệt, điều kiện, thước đo và động lực phát triển của nền kinh tế độc lập, tự chủ đó là sự đồng bộ và chất lượng cao về pháp luật kinh tế và hệ thống thị trường và cơ sở hạ tầng, về khoa học công nghệ, bộ máy lãnh đạo quản lý và nguồn nhân lực...

Để đạt được các mục tiêu này, nhiều điểm mới tích cực đáng ghi nhận trong nhận thức của Đảng, như: Nhấn mạnh cả hai yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng nêu rõ yêu cầu: Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước và cam kết quóc tế mà Việt Nam đã ký kết; tăng cường đào tạo cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế…

Những nhận thức mới trên đây phản ánh sự phát triển nội tại tư duy kinh tế của Đảng trong quá trình hội nhập quốc tế, vừa là những kết luận mới rút ra từ sự phân tích các xu hướng và bối cảnh bình thường mới trong phát triển kinh tế thế giới, theo đó, thế giới vừa duy trì sự tiếp tục các xu thế lớn về hòa bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đa cực, đa trung tâm…, vừa đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức mới cho mỗi quốc gia liên quan đến gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn và chủ nghĩa thực dụng; gia tăng xung đột cục bộ và các rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế; sự suy giảm vai trò luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu trong quan hệ quốc tế; những điều chỉnh chiến lược và cơ cấu lớn thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hậu Covid-19 cả về chiến lược phát triển, các chuỗi cung ứng, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài và tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo…

2. Bối cảnh thế giới mới và những vấn đề đặt ra trong xây dựng kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam

Thế giới đương đại đang chứng kiến những biến chuyển nhanh chóng, phức tạp và khó lường của tình hình địa chính trị, kinh tế và môi trường khu vực và toàn cầu, trước mắt và lâu dài đồng thời tác động lan tỏa mạnh mẽ đến tất cả các nước, dù thuộc chế độ chính trị xã hội nào và có trình độ phát triển cao hay thấp..., trong đó có Việt Nam, với một số động thái nổi bật sau:

Thứ nhất, các tiêu chí đo lường sức mạnh quốc gia ngày càng dựa trên cộng hưởng sức mạnh nội lực kinh tế, quốc phòng và khả năng phản ứng chính sách, phản ứng thị trường thông minh và hiệu quả.

Tổng thể sức mạnh quốc gia ngày càng dựa trên cộng hưởng sức mạnh nội lực kinh tế, quốc phòng và khả năng phản ứng chính sách, phản ứng thị trường thông minh và hiệu quả. Sức mạnh quốc gia còn được đánh giá theo nhiều tiêu chí khác tùy góc nhìn của các tổ chức quốc tế, song độc lập, tự chủ kinh tế luôn là tiêu chí trọng tâm hội tụ và đo lường sức mạnh kinh tế quốc gia cả hiện tại và tương lai.

Thứ hai, nhiều xu hướng lớn, mới tiếp tục định hình trật tự kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế mới theo hướng đa cực đa trung tâm. Nổi bật trong số đó là xu hướng gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước và nhóm nước Mỹ, EU - Nga - Trung Quốc, Ấn Độ cùng với giãn cách ngày càng lớn giữa quy mô kinh tế Mỹ, Trung Quốc với các nước còn lại; kéo theo sự gia tăng chi phí gắn với chạy đua quân sự và chạy đua công nghệ cao phục vụ chiến tranh tổng lực cả về quân sự, kinh tế, truyền thông, thông tin và tâm lý.

Hệ thống đa phương bị thách thức ngày càng lớn, nhưng vẫn được phần đông các nước trong cộng đồng quốc tế coi trọng. Mỹ vẫn có vai trò quan trọng trong hầu hết cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực; đồng thời ngày càng coi trọng chiến lược “sản xuất tại nước Mỹ” hay “đầu tư vào các nước bạn bè Mỹ”. Trung Quốc đang và sẽ nỗ lực vươn tầm quốc tế, nhưng ngày càng bị Mỹ o ép và khó có thể ngang tầm với Mỹ trong thời gian trung hạn.

Ngoài ra, biến động khí hậu cực đoan và yêu cầu về bảo vệ môi trường và sức khỏe người tiêu dùng cũng ngày càng cao, nghiêm ngặt và mở rộng hơn. Các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng gia tăng và đan xen, cộng hưởng gây hậu quả nặng nề hơn cho mỗi quốc gia và toàn thế giới, cả hiện tại và tương lai.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vẫn tiếp diễn, dù chậm lại; các hoạt động vận tải, di chuyển vật chất toàn cầu suy giảm, nhường chỗ cho những phương cách, lĩnh vực toàn cầu hóa phi vật chất. Thương mại toàn cầu tiếp tục tăng, còn đầu tư quốc tế có thể giảm so với trước và được cấu trúc lại theo hướng gia tăng tính bền vững của các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu và hướng vào các lĩnh vực xanh, lĩnh vực số; sự cân bằng ngày càng đậm nét hơn giữa tự do hóa, mở cửa với tự cường; giữa hội nhập sâu rộng, toàn diện với tự chủ chiến lược; giữa tham gia cuộc chơi chung với nâng cao khả năng chống chịu bên trong từng quốc gia, từng nền kinh tế. Tính bền vững, bao trùm được quan tâm hơn; chuyển đổi số và kinh tế số trở thành xu thế lớn; tiến trình khu vực hóa được đẩy nhanh hơn.

Đồng thời, sẽ tiếp tục gia tăng sự phân mảnh công nghệ và tái cơ cấu các chuỗi cung ứng kinh tế thế giới theo hướng chuyển dịch chuỗi sản xuất vào các thị trường quốc gia cùng phe nhóm và đồng minh, bạn bè hoặc trở lại trong nước. Tình trạng chạy đua, đối kháng về khoa học - công nghệ, đối kháng về kinh tế, cạnh tranh tài nguyên, cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao, chạy đua bảo vệ sở hữu trí tuệ... giữa các nước ngày càng gay gắt…

Về tổng thể, thế giới đang bước vào giai đoạn kinh tế tăng trưởng chậm lại và áp lực nợ công và rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế, lạm phát, bất bình đẳng trong xã hội gia tăng so với 3 thập kỷ trước, mặc dù khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là trung tâm tăng trưởng của thế giới. Theo một số dự báo, đến năm 2030, châu Á - Thái Bình Dương - nơi có ba nền kinh tế lớn trên thế giới, lớn thứ nhất (Trung Quốc), lớn thứ ba (Ấn Độ) và lớn thứ tư (Nhật Bản) - sẽ chiếm hơn 53% GDP toàn cầu. Đây cũng là khu vực diễn ra cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Nếu tình hình tiếp tục diễn ra như xu hướng hiện tại, các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương được cho là sẽ chịu sức ép ngày càng tăng từ cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc.

ASEAN tiếp tục được các thành viên đánh giá là phương tiện hiệu quả để ứng phó với cạnh tranh nước lớn. ASEAN sẽ đoàn kết trong những vấn đề chung liên quan đến cả Mỹ và Trung Quốc, song khó có lập trường chung trong những vấn đề liên quan đến một nước (Mỹ hoặc Trung Quốc). Đây là những thách thức nội bộ đối với ASEAN đến năm 2030. Tuy nhiên, về tổng thể, Đông Nam Á vẫn giữ được môi trường hòa bình, kinh tế tăng trưởng và gia tăng liên kết khu vực.

Việt Nam, với tiềm năng hiện thực hóa các lợi ích từ 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), vẫn thu được nhiều cơ hội từ toàn cầu hóa, tiếp tục thu hút FDI, công nghệ và gia tăng thương mại, nhất là với 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện đã thiết lập. Bên cạnh các cơ hội học hỏi, gia tăng các loại hình việc làm mới, thì Việt Nam cũng chịu sự gia tăng những thách thức về nâng cao năng lực tham gia chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, cơ hội thu hút FDI và đảm bảo an sinh xã hội cho lao động Việt Nam.

Để xây dựng thành công nền kinh tế tự chủ trong bối cảnh trên, đòi hỏi Việt Nam chú ý xử lý một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện nội dung yêu cầu mô hình kinh tế tự chủ, đi đôi với thay đổi nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, kinh tế nhà nước đã, đang và sẽ tiếp tục thực sự đóng vai trò chủ đạo trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội quốc gia, mà không có bất cứ khu vực kinh tế nào khác đủ lớn mạnh để có thể cạnh tranh và thay thế.

Khu vực doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước; góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực ngoài nhà nước phát triển. Tuy nhiên, thực tiễn đòi hỏi, cần có sự điều chỉnh linh hoạt vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, đầy đủ và nghiêm túc của Việt Nam.

Theo đó, khu vực kinh tế nhà nước và nhất là các doanh nghiệp nhà nước sẽ ngày càng giảm dần vai trò chủ đạo theo nghĩa truyền thống, từ độc quyền, thống trị tuyệt đối về lượng, lĩnh vực kinh doanh, sang chỉ chủ đạo trong lĩnh vực mà tư nhân không thể, không muốn đảm nhiệm và nhà nước cần độc quyền vì mục tiêu đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự xã hội thích đáng.

Đồng thời, phương thức chủ đạo cũng mềm và tỉ lệ cũng linh hoạt hơn, chủ yếu tham gia dưới hình thức cổ phần và giảm tối đa việc Nhà nước tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh tế thông qua các doanh nghiệp nhà nước, chuyển một số nhiệm vụ mà các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước không cần thiết phải thực hiện cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đảm nhận theo tinh thần Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp tục cải cách bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng thu hẹp sự chủ đạo từ phạm vi toàn bộ nền kinh tế, chỉ tập trung vào một số lĩnh vực, ngành kinh tế chủ chốt. Đồng thời, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong thời gian tới cũng cần được nhấn mạnh vào các nội dung và mục tiêu: Nắm giữ các tài sản, tổ chức các hoạt động độc quyền thuộc lĩnh vực đảm bao an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động giữ vững các cân đối cơ cấu lớn, liên ngành, cấp quốc gia và ở địa phương, địa bàn cần thiết; chủ động và trực tiếp đảm nhận đầu tư vào những dự án, địa bàn không hấp dẫn hoặc cần thiết để định hướng, mở rộng đầu tư phát triển từ các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.

Trên thực tế, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân sẽ ngày càng linh hoạt và dịch chuyển theo hướng thu hẹp dần cả về quy mô, tỉ trọng và phạm vi hoạt động; từ chiếm hầu như địa vị thống trị toàn bộ nền kinh tế trong nền kinh tế đơn thành phần, sang giảm dần tỉ trọng trong kinh tế đa thành phần; và từ có mặt ở tất cả các ngành, nghề, lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, sẽ ngày thu hẹp chủ đạo vào một số lĩnh vực, ngành kinh tế chủ chốt...

Hơn nữa, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong thời gian tới cần được nhấn mạnh vào các nội dung và mục tiêu vì lợi ích quốc gia, hỗ trợ tối đa kinh tế tư nhân phát triển; nắm giữ các tài sản, tổ chức các hoạt động độc quyền thuộc lĩnh vực đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động giữ vững các cân đối cơ cấu lớn, liên ngành, cấp quốc gia và ở địa phương, địa bàn cần thiết để định hướng, mở rộng đầu tư phát triển từ các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên cơ sở tách bạch nhiệm vụ công ích với nhiệm vụ kinh doanh theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

Dù có xu hướng ngày càng giảm thiểu, thu hẹp, song quá trình tái cơ cấu và đổi mới quản lý kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh mới không phải là làm suy yếu và dần xóa bỏ triệt để các doanh nghiệp và khu vực kinh tế này, mà là làm cho chúng ngày càng hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn và đóng góp nhiều hơn cho kinh tế quốc gia theo nguyên tắc quản lý kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Hai là, củng cố niềm tin chính trị, năng lực phản ứng chính sách và thị trường, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh huy động công nghệ từ bên ngoài, đi đôi với tăng cường năng lực đổi mới, sáng tạo và tự chủ công nghệ trong nước.

Việt Nam cần đồng bộ và đa dạng hóa nhiều giải pháp từ chính trị, đối ngoại đến các cơ chế, chính sách kinh tế - tài chính thích ứng bảo đảm lòng tin chiến lược từ đối tác, nhất là các “đối tác chiến lược toàn diện”, để nhận được nguồn vốn FDI vào các ngành công nghệ cao hoặc được mua công nghệ cao, cho phép Việt Nam tham gia các chuỗi cung ứng công nghệ cao “mang tính bạn bè” trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.

Trong bối cảnh mới, trước những thách thức mới rất gay gắt, trước những khó khăn, phức tạp mới của tình hình càng yêu cầu đội ngũ các cán bộ tham mưu, nhất là tham mưu chiến lược, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, bám sát thực tiễn, nhất là ở những điểm nóng, điểm nghẽn, điểm nút của sự nghiệp đổi mới toàn diện và đồng bộ, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, thực tiễn của sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật. Nhận thức đúng bản chất của các sự vật, hiện tượng là điều kiện tiên quyết để có tham mưu chiến lược đúng, trúng; đồng thời, đấu tranh khắc phục những biển hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và kiên quyết chống lợi ích nhóm trong công tác tham mưu.

Ba là, nỗ lực đột phá thể chế, tinh gọn và nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước và toàn hệ thống chính trị để tạo động lực mới huy động nội lực cho phát triển kinh tế đất nước theo hướng độc lập, tự chủ.

Tinh gọn, làm nhẹ gánh nặng cồng kềnh, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước và cả hệ thống chính trị (tinh gọn bộ máy) có mục tiêu cao nhất và bao trùm là tạo động lực mạnh mẽ hơn nữa cho phát triển đất nước và doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu tiên tiến về quản trị quốc gia, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển bền vững trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, sự bùng nổ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và các mô hình kinh tế mới, kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Động lực tổng hợp từ tinh gọn bộ máy được cộng hưởng từ nhiều nguồn gắn với kết quả trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và lâu dài của quá trình tinh gọn bộ máy: Từ việc tiết kiệm nguồn lực chi thường xuyên ngân sách nhà nước để nuôi bộ máy sang tăng chi cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội; từ các khoản tiết kiệm được các nguồn lực về thời gian, công sức và tài chính gắn với tuân thủ và tiếp cận chính sách cho người dân và doanh nghiệp, cũng như từ các khoản thu ngân sách nhà nước bổ sung nhờ tinh giản bộ máy và đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng, trách nhiệm cán bộ quản lý, tăng năng lực phản ứng chính sách và phản ứng thị trường gắn với bối cảnh mới.

Ngoài ra, động lực còn đến từ củng cố lòng tin, cải thiện vị thế và sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, khai thác hiệu quả cơ hội đầu tư do bộ máy tinh gọn mang lại, từ đó làm tăng kết quả mở rộng đầu tư của doanh nghiệp trong nước, thu hút FDI và các nguồn lực tiềm năng; đồng thời, từ việc mở rộng các nguồn thu mới và khai thác các nguồn lực khác cho phát triển cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài, trong nước và và ngoài nước

Đặc biệt, đổi mới về thể chế, tinh gọn toàn bộ hệ thống chính trị đã, đang và sẽ tiếp tục là một trong những yếu tố then chốt và cũng là động lực mạnh mẽ để Đảng ta thực hiện thành công sứ mệnh của mình, để mục tiêu và lợi ích của Đảng hài hòa và thống nhất với mục tiêu, lợi ích dân tộc, cũng như không ngừng nâng cao uy tín, năng lực, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng và hệ thống chính trị, giữ vững vai trò người dẫn dắt cách mạng Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phù hợp với bối cảnh mới.

Tinh gọn bộ máy sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển khi được triển khai khoa học và triệt để, với lộ trình, bước đi phù hợp, trên cơ sở bám sát Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nắm chắc thực tiễn, yêu cầu phát triển đất nước và chủ động tham chiếu, vận dụng kinh nghiệm quốc tế về khoa học tổ chức bộ máy nhà nước; hoàn thành sớm việc xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan phù hợp, hiệu quả, tinh gọn, sử dụng đội ngũ cán bộ tinh nhuệ hơn…

Động lực phát triển từ tinh gọn bộ máy sẽ lan tỏa và thấm sâu tới mọi đối tượng khi đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết; gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chuẩn hóa chức danh và xác định vị trí việc làm theo khung tiêu chuẩn, tiêu chí tiên tiến và cụ thể ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình; tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất…; coi trọng chất lượng tham mưu, đề xuất và năng lực điều phối, hướng dẫn, tổ chức thực hiện; thanh lọc kịp thời những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ; đồng thời, giải quyết thấu tình đạt lý với nhóm cán bộ, lao động dôi dư trong quá trình tinh gọn bộ máy…

Hơn nữa, thể chế, cơ chế, chính sách là động lực, nguồn lực cho sự phát triển, do đó, cần thay đổi tư duy làm luật và nâng cao chất lượng các văn bản luật. Các bộ, ngành và chính quyền địa phương cần quán triệt các yêu cầu đổi mới trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật; liên tục tổng kết thực tiễn để đánh giá chính sách, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống luật và các dự án luật; triển khai cụ thể hóa, thể chế hóa các đường lối của Đảng; phát hiện và tháo gỡ những điểm nghẽn, vướng mắc qua thực tiễn, không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp; tăng cường phân cấp, phân quyền, đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi, tăng hậu kiểm, giảm tiền kiểm… để góp phần khơi thông nguồn lực phát triển đất nước.

Ngọn cờ “Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc Việt Nam đã được Tổng Bí thư Tô Lâm phất cao, làm nức lòng và tạo làn sóng hứng khởi mới, khí thế mới, niềm tin và nhiều kỳ vọng mới trong toàn hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân.

Tinh gọn bộ máy do đó vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, vừa là giải pháp tạo động lực thể chế mới quan trọng, khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo hứng khởi và niềm tin cho doanh nghiệp và người dân cả nước triệu người như một, đồng thuận, đoàn kết và nỗ lực cống hiến, để Việt Nam thành công trong “Kỷ nguyên mươn mình”, với ưu tiên hàng đầu là đến năm 2030, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao…

Thực tế cho thấy, động lực và triển vọng thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục phụ thuộc vào những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu sắc hơn về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam; vào sự phối hợp hài hòa bàn tay Nhà nước và bàn tay thị truờng trong một mô hình Nhà nước kiểu mới; coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính hai mặt của các giải pháp chính sách đa dạng hóa và phối hợp các nguồn lực trong nước và quốc tế...

Quá trình Đảng ta không ngừng hoàn thiện, củng cố nhận thức toàn diện, đầy đủ, sâu sắc và tổ chức xây dựng hiệu quả mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta là biểu hiện và thước đo sự thành công bản lĩnh, trí tuệ về Đổi mới và Cách mạng của Đảng; đồng thời, đó cũng là quá trình tạo lập và hiện thực hóa các mục tiêu, động lực và cơ chế để gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và để người dân được hưởng thụ ngày càng nhiều hơn thành quả của công cuộc đổi mới; để giữ vững được ổn định chính trị và kinh tế, củng cố đồng thuận và đoàn kết xã hội, không ngừng cải thiện các quan hệ và vị thế quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam phát triển nhanh, bền vững hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện hơn…

Với tinh thần đó, trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ thời gian tới cần duy trì sự ổn định và phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường, hội nhập quốc tế; tiếp tục giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước; đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế, nhất là về hệ thống pháp luật phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; thúc đẩy sự chuyển biến mạnh mẽ hơn về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới động lực tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh chất lượng của nền kinh tế; tập trung tạo mọi điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, phát triển cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam gắn kết và lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác, nhất là khi thị trường hay đối tác đó có sự biến động; thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước từng giai đoạn; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tăng cường đổi mới sáng tạo, phát triển và từng bước làm chủ khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, góp phần tích cực xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ… trong xu hướng thế giới phát triển ngày càng “đa cực, đa trung tâm”.

Tài liệu tham khảo:

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr. 102.

2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2016, tr. 111.

3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

4. Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2021, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 21.

5. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/824082/quan-diem-moi-ve-xay-dung-nen-kinh-te-viet-nam-doc-lap%2C-tu-chu-trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx#

6. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.

7. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/827044/mot-so-van-de-noi-bat-cua-the-gioi-hien-nay.aspx

8. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/826966/mot-so-van-de-ve-xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap%2C-tu-chu-gan-voi-hoi-nhap-quoc-te-qua-nghien-cuu-tac-pham-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong.aspx#

9. https://tienphong.vn/tong-bi-thu-to-lam-thoi-diem-bat-dau-ky-nguyen-moi-la-dai-hoi-xiv-cua-dang-post1694775.tpo

TS. Nguyễn Minh Phong và ThS. Nguyễn Trần Minh Trí

Tin bài khác

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người

Trong giai đoạn hiện tại, không một quốc gia nào có thể bỏ qua vấn đề nhân quyền mà có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với nước khác và không gặp phải sự phản kháng của nhân dân.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

55 năm đã trôi qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị và tầm vóc thời đại. Di chúc của Người luôn là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần giúp toàn Đảng, toàn Dân vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, vững bước trên con đường phát triển.
“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

“Tư tưởng DÂN” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc...
Xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương trong sạch, vững mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương trong sạch, vững mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Trải qua 76 năm xây dựng và phát triển, theo yêu cầu của mỗi giai đoạn lịch sử, thời kỳ cách mạng khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương luôn đoàn kết, sáng tạo, phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Các quốc gia cần phải xem xét lại cách tiếp cận của mình đối với chính sách thuế để bảo đảm rằng sự phát triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho những tập đoàn lớn mà còn cho toàn xã hội. Một trong những giải pháp khả thi là áp dụng mức thuế tối thiểu toàn cầu nhằm hạn chế “cuộc đua xuống đáy” và tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng hơn.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài