Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2025)

Kinh tế Việt Nam vươn mình mạnh mẽ dưới ngọn cờ của Đảng

Sự kiện
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, kinh tế Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
aa

Từ ngày 03/02/1930 - 07/02/1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam (gồm Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục tiêu lãnh đạo phong trào cách mạng và tiến hành giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. 95 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, từ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đến công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc càng trở lên quan trọng, là động lực lớn đưa con thuyền kinh tế đất nước đạp gió, rẽ sóng, vượt trùng dương, thể hiện sức mạnh kiên cường, bản lĩnh vững vàng của dân tộc Việt Nam trên đấu trường quốc tế.

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Kinh tế Việt Nam những năm đầu thành lập Đảng (1930 - 1945)

Những thập niên đầu thế kỷ 20, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp. Khi ấy kinh tế đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu; thực dân Pháp khai thác, vơ vét tài nguyên một cách triệt để, phục vụ lợi ích của chính quốc. Bởi vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm của Cách mạng Việt Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân. Mặc dù chưa có nhiều điều kiện, nguồn lực để phát triển kinh tế, nhưng Đảng đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Theo đó, những tư tưởng về nền kinh tế độc lập, tự chủ đã được đặt ra, tạo nền tảng cho nhiều chính sách phát triển đất nước sau này. Đảng khẳng định rõ, để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước tiên phải đánh bại ách thống trị của thực dân Pháp, giải phóng đất nước khỏi áp bức, bóc lột. Qua 15 năm kháng chiến trường kỳ, Đảng đã lãnh đạo các phong trào cách mạng, đấu tranh đòi quyền lợi cho Nhân dân lao động, chống lại chính sách sưu cao, thuế nặng của thực dân và thúc đẩy đoàn kết dân tộc, cùng Nhân dân làm nên thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 lịch sử và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là minh chứng hùng hồn cho sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước bối cảnh nền kinh tế đất nước phải đối diện với tam tầng khó khăn: “Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, Đảng đã chú trọng đến phục hồi, phát triển kinh tế để củng cố nền độc lập còn non trẻ. Đảng đề ra chiến lược phát triển nền kinh tế tự chủ, không phụ thuộc vào các thế lực bên ngoài, tận dụng sức mạnh nội tại của đất nước nhằm từng bước vượt qua thách thức, khó khăn. Theo đó, Đảng chú trọng vào việc phát triển một nền kinh tế công - nông vững mạnh, tạo ra một hệ thống sản xuất nông nghiệp tiến bộ, đồng thời, tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển các ngành công nghiệp thiết yếu để phục vụ cho nhu cầu của Nhân dân trong cả nước. Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào, chiến sĩ cả nước đã tập trung xây dựng nhiều cơ sở kinh tế tự lực trong các căn cứ cách mạng, góp phần duy trì phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giữ vững thành quả cách mạng.

Kinh tế Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ “kháng chiến, kiến quốc” (1945 - 1975)

Trong 30 năm kháng chiến trường kỳ chống Pháp và Mỹ (1945 - 1975), Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đóng vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn chủ trương duy trì, phát triển kinh tế hiệu quả để phục vụ cho tiền tuyến.

Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “kháng chiến và kiến quốc” xác định hai nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam là: Quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và ra sức xây dựng chế độ mới. Theo đó, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế, tìm tòi, tháo gỡ khó khăn, khắc phục trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội; vừa tiến hành hai cuộc chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đảng ta đã phát động nhiều phong trào sản xuất, huy động Nhân dân tham gia vào công cuộc kiến thiết nền kinh tế, bao gồm các hoạt động khôi phục nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng… Nhiều cuộc vận động huy động tài chính từ các tầng lớp Nhân dân được triển khai, giúp củng cố nền tảng tài chính nhằm phục vụ tốt cho hai cuộc kháng chiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng chỉ đạo “kháng chiến, kiến quốc” tại Văn phòng Chính phủ. (Ảnh: Tư liệu/Báo Quân đội Nhân dân)
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng chỉ đạo “kháng chiến, kiến quốc” tại Văn phòng Chính phủ (Ảnh: Tư liệu/Báo Quân đội nhân dân)

Đối với ngành nông nghiệp, Đảng và Chính phủ đã kêu gọi Nhân dân tăng cường sản xuất nông sản, tập trung chủ yếu vào lương thực, thực phẩm phục vụ cho cuộc chiến. Nhiều chính quyền địa phương đã áp dụng những biện pháp động viên Nhân dân sản xuất gạo và phân phối lương thực hợp lý để đảm bảo cung cấp cho quân đội và dân cư. Ngoài ra, chính sách cải cách, chia lại ruộng đất cho nông dân cũng được thực hiện, giúp gia tăng sản lượng lúa gạo trong toàn quốc.

Đối với ngành công nghiệp, để duy trì cuộc kháng chiến, Đảng chỉ đạo tập trung xây dựng các cơ sở sản xuất vũ khí, đạn dược, cũng như nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và Nhân dân. Các xưởng sản xuất vũ khí nhỏ đã được thành lập ở những vùng căn cứ địa trên toàn quốc, sản phẩm chủ yếu bao gồm quân trang, vũ khí, thuốc nổ và nhu yếu phẩm phục vụ quân đội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc Việt Nam đã duy trì được sản xuất nhiên liệu và các vật liệu xây dựng cơ bản để phục vụ cho chiến tranh. Việc xây dựng các tuyến giao thông vận tải, đặc biệt là đường mòn Hồ Chí Minh, đường Hồ Chí Minh trên biển… đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cung cấp vật tư cho chiến trường miền Nam.

Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam cũng nhận được sự viện trợ lớn từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần làm giảm bớt khó khăn về vật tư, đạn dược trong suốt hai cuộc kháng chiến. Tháng 01/1950, Trung Quốc và Liên Xô lần lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, cuộc chiến đấu của Nhân dân Việt Nam được tiếp thêm sức mạnh, động lực trong công cuộc phát triển kinh tế thời kỳ “kháng chiến, kiến quốc”.

Kinh tế Việt Nam mạnh mẽ vươn mình dưới ngọn cờ của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước (từ năm 1975 đến nay)

Sau năm 1975, đất nước bước vào giai đoạn thống nhất và bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới toàn diện. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn gặp nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh kéo dài và những hạn chế trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp. Dấu ấn lịch sử sâu đậm và quan trọng nhất trong sự lãnh đạo kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn này là khởi xướng, sáng tạo và lãnh đạo công cuộc đổi mới, mà trước hết là “đổi mới về tư duy kinh tế”, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và hội nhập quốc tế. Đảng xác định, phát triển kinh tế bền vững, bao trùm và hội nhập; gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.

Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế (Nguồn: Internet)
Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế (Nguồn ảnh: Internet)

Văn kiện Đại hội XII là kết tinh sự phát triển lý luận của của Đảng, trong đó nhấn mạnh: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Dưới ngọn cờ của Đảng, từ năm 1986, những cải cách kinh tế kết hợp với xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển vượt bậc. Từ một trong những nước nghèo trên thế giới, Việt Nam đã vươn mình trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp. GDP bình quân đầu người tăng gần 8 lần trong vòng chưa đầy 40 năm, từ dưới 600 USD/người năm 1986 lên gần 4.700 USD/người năm 2024. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2024 đạt 11.511,9 nghìn tỉ đồng, tương đương 476,3 tỉ USD. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động, tăng 726 USD so với năm 2023). Theo giá so sánh, năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 tăng 5,88% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 đạt 28,3%, cao hơn 1,1 điểm phần trăm so với năm 2023) (Tổng cục Thống kê, 2025).

Cùng với quá trình hội nhập toàn cầu, kinh tế Việt Nam đang ghi nhận những bước đột phá tích cực khi chuyển dần sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2010, tỉ trọng lĩnh vực nông, lâm, thủy sản trong GDP là 18,9%, đến năm 2024 đã giảm xuống còn 11,86%. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cũng tăng trưởng đáng kể, chiếm tỉ lệ lần lượt là 37,64%; 42,36% GDP năm 2024 (Tổng cục Thống kê, 2025). Đối với hoạt động xúc tiến thương mại, Việt Nam tập trung đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu đối với các thị trường trọng điểm, đặc biệt, tận dụng tối đa ưu đãi do các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)… Việc tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giải quyết lao động, tạo việc làm...

Nhìn lại chặng đường đổi mới đất nước với biết bao khó khăn, thăng trầm, song, nền kinh tế Việt Nam vẫn luôn mạnh mẽ vươn mình dưới ngọn cờ của Đảng để khẳng định sức mạnh, vị thế trên trường quốc tế. Những quyết sách sáng suốt của Đảng đã tạo ra nền tảng vững chắc phát triển kinh tế bền vững, đặc biệt là từ thời kỳ kiến thiết, đổi mới đất nước sau chiến tranh. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với những thách thức và cơ hội mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo, đưa kinh tế đất nước phát triển vững bền, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Tài liệu tham khảo:

1. https://tapchinganhang.gov.vn/dau-an-ve-su-lanh-dao-cua-dang-trong-phat-trien-kinh-te-11259.html

2. Phạm Việt Dũng (2024): Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới.

3. Tổng cục Thống kê (2025), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024.

4. Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: Tổng quan về Việt Nam.

Ngọc Linh (NHNN)

Tin bài khác

Điểm nhấn kinh tế Việt Nam 10 tháng năm 2025

Điểm nhấn kinh tế Việt Nam 10 tháng năm 2025

Về tổng thể, trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam đã nỗ lực vượt bậc, đạt kết quả toàn diện, ấn tượng trên hầu hết các lĩnh vực, khẳng định sức chống chịu, khả năng thích ứng linh hoạt và hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô. Việt Nam đang đi đúng hướng với lạm phát được kiểm soát chặt chẽ; đầu tư công và xuất khẩu là hai động lực tăng trưởng then chốt...
Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tạp chí điện tử Ngân hàng xin trân trọng giới thiệu dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng để lấy ý kiến đóng góp của toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên AI: Con người vẫn là trung tâm của chuyển đổi số

Phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên AI: Con người vẫn là trung tâm của chuyển đổi số

Trong hai ngày 7 - 8/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng phối hợp với Học viện Ngân hàng tổ chức chuỗi Chương trình Chào tân sinh viên K28 với chủ đề “Phát triển nguồn nhân lực trong thời đại AI”. Chương trình hướng tới lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, thích ứng công nghệ và nâng cao nhận thức về vai trò của con người trong kỷ nguyên số khi công nghệ đang định hình lại mọi hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 13 Khóa XIII

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 13 Khóa XIII

Sáng nay, 8/10/2025, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bế mạc, hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề ra. Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu quan trọng tại phiên bế mạc Hội nghị. Trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 13 khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 13 khóa XIII

Sáng 6/10/2025, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm.
TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025).
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã dự và đọc Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025). Trân trọng giới thiệu Diễn văn của Tổng Bí thư.
80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), sáng 1/9, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xem thêm
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô