Kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025)

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Thi đua yêu nước ngành Ngân hàng
Trải qua chặng đường 80 năm gian nan nhưng cũng đầy rực rỡ, nền kinh tế Việt Nam đã chứng minh bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên không ngừng của dân tộc. Từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu, chịu nhiều tàn phá của chiến tranh, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động hàng đầu khu vực và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục phát huy truyền thống kiên cường, đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng đáng với kỳ vọng và niềm tin của các thế hệ cha anh.
aa

Cách đây tròn 80 năm, vào mùa Thu năm 1945, dân tộc Việt Nam đã ghi dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc giữ vững nền độc lập, nhiệm vụ phát triển một nền kinh tế tự chủ, vững mạnh đã trở thành yêu cầu sống còn đối với đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam đã vượt qua muôn vàn gian khó, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kiệt quệ sau chiến tranh để vươn lên trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025) là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng nhìn lại chặng đường xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; khẳng định bản lĩnh, sức mạnh của kinh tế Việt Nam trước những biến động địa chính trị, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Trưởng thành từ khói lửa chiến tranh, Việt Nam mạnh mẽ vươn mình thành nền kinh tế độc lập, tự chủ

Năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đứng trước tam tầng khó khăn - giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong đó, nạn giặc đói năm Ất Dậu đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào, giặc dốt khiến trên 90% dân số nước ta mù chữ. Cùng với đó, giặc Pháp cũng lăm le xâm lược nước ta một lần nữa. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ lâm thời đã phát động phong trào “Nhường cơm sẻ áo”, “tấc đất, tấc vàng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khẩu hiệu: “Tăng gia sản xuất/Tăng gia sản xuất ngay/Tăng gia sản xuất nữa” để khuyến khích toàn dân lao động sản xuất, đẩy lùi nạn đói. Nhờ tất cả những cố gắng đó, đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi, sản lượng lương thực đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 19451.

Về tình hình tài chính - tiền tệ, ngân sách quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, trong đó quá nửa là tiền rách, các nguồn thu quá ít ỏi, không thể đáp ứng được nhu cầu chi lớn, trong khi Nhà nước non trẻ lại chưa kiểm soát được Ngân hàng Đông Dương. Vì vậy, ngày 31/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 18B/SL cho phép phát hành “Đồng bạc Giấy Việt Nam”. Việc phát hành này được thực hiện từ ngày 03/02/1946, ban đầu ở các tỉnh Nam Trung bộ và nhận được sự ủng hộ của người dân. Sau đó, ngày 23/11/1946, Quốc hội khóa I đã chính thức cho phép phát hành giấy bạc Việt Nam trên toàn quốc. Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn mang tính chính trị, khẳng định chủ quyền và sự độc lập của chính quyền cách mạng. Việc phát hành tiền Việt Nam cũng góp phần quan trọng vào ổn định nền tài chính, phục vụ nhu cầu chi tiêu của chính quyền và xây dựng nền tài chính quốc gia.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) bùng nổ, đất nước bước vào thời kỳ “kháng chiến, kiến quốc” với hai nhiệm vụ song song: Vừa chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, vừa xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa. Nền kinh tế lúc này vận hành trong điều kiện đặc biệt của thời chiến, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, tự cung, tự cấp và các ngành thủ công nghiệp nhỏ, lẻ. Chính phủ và Nhân dân cả nước thực hiện đẩy mạnh tăng gia sản xuất để tự đảm bảo lương thực, thực phẩm, đồng thời khôi phục các cơ sở sản xuất vũ khí, quân trang, hàng thiết yếu phục vụ chiến đấu với phương châm:

“Ruộng rẫy là chiến trường

Cuốc cày là vũ khí

Nhà nông là chiến sĩ

Hậu phương thi đua với tiền phương”.

Nhờ những nỗ lực, đoàn kết không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, kinh tế nước ta tuy khó khăn nhưng đã có sự cải thiện rõ rệt. Từ năm 1945 - 1954, nông dân miền Bắc đã được chia 475.900 ha ruộng đất, nông dân miền Nam được chia 410.000 ha. Năm 1954, sản lượng lương thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, trong đó riêng thóc đạt 2,3 triệu tấn, tăng 15,9%. Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Ngoài số lượng lớn về vũ khí, đạn dược, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu được sản xuất ngày càng nhiều: 20.000 tấn than cốc, 800 kg ăngtimoan (giai đoạn 1946 - 1950); 29,5 tấn thiếc, 43,0 tấn chì (giai đoạn 1950 - 1952); 169,3 triệu mét vải, 31.700 tấn giấy (giai đoạn 1950 - 1954)2.

Sau chiến thắng thực dân Pháp năm 1954, miền Nam tiếp tục nhiệm vụ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trong khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Kết thúc năm 1975, sản lượng lương thực quy thóc đạt 5,49 triệu tấn, tăng đáng kể so với mức 3,76 triệu tấn năm 1955. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1975 tăng gấp 16,6 lần năm 1955, bình quân tăng mỗi năm là 14,7%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 so với năm 1955 tăng gấp 7,8 lần; kim ngạch xuất khẩu tăng 21,3 lần; kim ngạch nhập khẩu tăng 11,8 lần. Tỉ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu tăng từ 9,1% năm 1945 lên 17,0% năm 1955; riêng thời kỳ 1958 - 1964 đạt tỉ lệ 63,7%3.

Hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn 1975 - 1985, mặc dù đứng trước thử thách khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, song nền kinh tế cũng ghi nhận một số thành tựu nhất định. Tính chung từ năm 1976 - 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hằng năm tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8%, bình quân hằng năm tăng 3,7%; sản lượng lương thực bình quân mỗi năm giai đoạn 1981 - 1985 đạt 17 triệu tấn, sản lượng công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm. Tuy nhiên, nước ta lại đứng trước tình trạng siêu lạm phát khi chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và dao động ở mức 19 - 92% trong suốt giai đoạn 1975 - 19854. Kim ngạch xuất khẩu, mặc dù tăng nhanh hơn kim ngạch nhập khẩu, nhưng chỉ bù đắp được khoảng một phần ba giá trị nhập khẩu, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu vẫn ở mức rất thấp (Bảng 1).

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

2. Đổi mới toàn diện - nền tảng vững chắc đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, kinh tế Việt Nam chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế. Những cải cách quan trọng bao gồm: Xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện khoán trong nông nghiệp (khoán 10), khuyến khích kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa kinh tế đối ngoại. Nhờ đó, từ tình trạng lạm phát hơn 700% năm 1986, kinh tế đã từng bước ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP tăng 4,4%/năm (giai đoạn 1986 - 1990), 7,31%/năm (giai đoạn 1991 - 2011) và đạt 7,52% (tháng 6/2025). GDP 6 tháng qua các năm theo giá so sánh năm 2010 được mô tả trong Hình 1.

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Đối với ngành nông nghiệp, từ thập niên 1990 đến đầu những năm 2000, nông nghiệp tiếp tục mở rộng quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các ngành hàng chủ lực như lúa gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, thủy sản. Giai đoạn 2010 - 2020, chính sách “tam nông” được Đảng và Nhà nước nhấn mạnh trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. “Tam nông” cũng được xác định là nền tảng quan trọng để bảo đảm an ninh lương thực, phát triển kinh tế bền vững và ổn định xã hội. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp tiếp tục hướng tới mục tiêu phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, ứng phó biến đổi khí hậu và hội nhập sâu rộng. Việc chuyển đổi số trong nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế (VietGAP, GlobalGAP) và xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản được xem là trụ cột để duy trì vị thế và giá trị xuất khẩu cao. Theo đó, ngành nông nghiệp được tái cơ cấu theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng, áp dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, đồng thời, chú trọng đào tạo nghề, nâng cao trình độ, tạo điều kiện để nông dân tham gia thị trường và hội nhập quốc tế. Quy mô và sản lượng một số sản phẩm nông, lâm, thủy sản của Việt Nam vì thế tiếp tục gia tăng, trong đó, nhiều mặt hàng đã trở thành nhân tố chủ lực trong kim ngạch xuất khẩu của cả nước (Hình 2).

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Đối với ngành công nghiệp và dịch vụ, sau công cuộc Đổi mới năm 1986, ngành công nghiệp và dịch vụ của Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, trở thành động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế. Công nghiệp nhanh chóng thoát khỏi tình trạng sản xuất trì trệ, lạc hậu, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và công nghệ tiên tiến. Nhiều ngành công nghiệp chủ lực hình thành và phát triển như dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, điện tử, lắp ráp ô tô, sản xuất thép… Đặc biệt, từ những năm 2000, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, đóng góp chủ yếu vào kim ngạch xuất khẩu, với các sản phẩm như điện thoại, máy tính, linh kiện điện tử nằm trong nhóm xuất khẩu hàng đầu thế giới. Theo Cục Thống kê, tính chung 7 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,5%). Đặc biệt, cả nước có 174,0 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 24,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tập trung vào một số lĩnh vực chính như trong Hình 3.

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Khu vực dịch vụ cũng bùng nổ mạnh mẽ nhờ hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường, phát triển thương mại, logistics, du lịch và công nghệ thông tin. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều tập đoàn bán lẻ, hãng hàng không và chuỗi khách sạn quốc tế. Hệ thống hạ tầng thương mại - dịch vụ được mở rộng nhanh chóng, từ các trung tâm thương mại hiện đại ở các đô thị lớn đến mạng lưới siêu thị, cửa hàng tiện lợi phủ khắp các tỉnh, thành phố. Các ngành du lịch, đặc biệt là du lịch biển và du lịch văn hóa, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, với nhiều điểm đến của Việt Nam liên tục được vinh danh trên bản đồ du lịch thế giới, qua đó thu hút một lượng lớn khách quốc tế đến Việt Nam (Hình 4). Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực dịch vụ không chỉ đóng góp lớn vào GDP, tạo hàng triệu việc làm mới, mà còn nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Đối với ngành tài chính - ngân hàng, tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã công bố Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, theo đó, ngành Ngân hàng Việt Nam chính thức hoạt động theo mô hình ngân hàng hai cấp: NHNN thực hiện chức năng quản lý, điều hành chính sách tiền tệ; các tổ chức tín dụng thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ liên quan. Từ đầu những năm 1990, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ra đời, góp phần mở rộng mạng lưới và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ.

Bước sang thế kỷ XXI, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Ngân hàng đã áp dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại, phát triển ngân hàng số, thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ tài chính trực tuyến. Công tác quản trị rủi ro, an toàn hệ thống được nâng cao, đáp ứng chuẩn mực quốc tế như Basel II, Basel III. Tín dụng và vốn huy động tăng trưởng ổn định, đóng vai trò huyết mạch cho nền kinh tế. Tính đến ngày 30/6/2025, dư nợ toàn hệ thống đạt trên 17,2 triệu tỉ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024, tăng 19,32% so với cùng kỳ năm 2024 (NHNN, 2025). Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn như khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 hay đại dịch Covid-19, ngành Ngân hàng vẫn giữ vững ổn định hệ thống, đồng thời triển khai nhiều gói hỗ trợ tín dụng và chính sách tiền tệ linh hoạt để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Qua đó, ngành Ngân hàng không chỉ góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đối với doanh nghiệp và người dân, mà còn duy trì niềm tin của thị trường, bảo đảm dòng vốn lưu thông liên tục, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Hình 5 mô tả mối tương quan tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm trong giai đoạn 2018 - 2025.

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Đối với lĩnh vực ngoại thương và hợp tác quốc tế, Việt Nam đã có bước chuyển mạnh mẽ từ cơ chế độc quyền Nhà nước sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước cũng từng bước hội nhập sâu vào kinh tế thế giới thông qua việc gia nhập nhiều tổ chức quốc tế như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, đồng thời, ký kết và thực thi hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Tính đến tháng 7/2025, Việt Nam đã triển khai hiệu quả 17 FTA (Bảng 2), bao phủ 65 nền kinh tế lớn, với mục tiêu phát triển thị trường và hội nhập sâu rộng toàn cầu (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Công thương tại Đại hội Đảng bộ Bộ Công thương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030). Việc tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại quốc tế không chỉ mang lại ưu đãi thuế quan cho Việt Nam mà còn thúc đẩy cải cách thể chế, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, tăng sức cạnh tranh và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

3. Kinh tế Việt Nam tiếp tục vững bước trên hành trình hội nhập và phát triển

Những kết quả quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện đã tạo ra nền tảng vững chắc, đưa nền kinh tế Việt Nam tiến bước trên hành trình hội nhập và phát triển, đồng thời nâng cao sức chống chịu trước những biến động địa chính trị. Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng năng động hàng đầu khu vực, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, an sinh xã hội được bảo đảm. Vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được khẳng định, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định các mục tiêu cụ thể: Đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Ngày 05/8/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 226/NQ-CP về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực, địa phương và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để bảo đảm tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8,3 - 8,5%. Trong đó, "Bộ tứ trụ cột" - bao gồm: Thể chế pháp lý, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế khu vực tư nhân. Đây chính là khung lý luận và hành động cho mô hình phát triển tích hợp của Việt Nam hiện đại. Nhằm đạt được những mục tiêu trên, Việt Nam cần thực hiện một cách nhất quán và hiệu quả nhóm giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và thông thoáng; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới.

Thứ hai, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số toàn diện trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế; hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ; tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, kinh doanh và quản lý; phát triển hạ tầng số hiện đại, bảo đảm an toàn, an ninh mạng.

Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ các nguồn lực, kinh nghiệm, tri thức tiên tiến từ các tổ chức, định chế tài chính đa phương và quốc gia đối tác. Đồng thời, tích cực đàm phán các hiệp định thương mại song phương và đa phương cũng như tham gia vào các mô hình, khuôn khổ hợp tác và liên kết mới về kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại phù hợp với điều kiện của đất nước và hội nhập quốc tế.

Thứ tư, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Theo đó, cần ưu tiên xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, cần hỗ trợ các thành phần kinh tế hộ, kinh tế hợp tác; khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các lĩnh vực chiến lược của đất nước. Bên cạnh đó, cần có các chính sách riêng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới, hiệu quả.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng cách đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế; chú trọng đào tạo kỹ năng nghề, kỹ năng số và ngoại ngữ; xây dựng chính sách thu hút, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài, đồng thời khuyến khích học tập suốt đời để nâng cao năng lực cạnh tranh của lực lượng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trải qua chặng đường 80 năm gian nan nhưng cũng đầy rực rỡ, nền kinh tế Việt Nam đã chứng minh bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên không ngừng của dân tộc. Từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu, chịu nhiều tàn phá của chiến tranh, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động hàng đầu khu vực và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục phát huy truyền thống kiên cường, đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng đáng với kỳ vọng và niềm tin của các thế hệ cha anh.

1 Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, t.1, trang 136.

2 Báo Chính phủ, Một vài nét về kinh tế - xã hội Việt Nam, https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390

3 https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390

4 https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390

Tài liệu tham khảo:

1. Báo Chính phủ, Một vài nét về kinh tế - xã hội Việt Nam. https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390

2. Báo Công Thương (2015), Các FTA mới - “Chìa khóa” khai phá các thị trường xuất khẩu tiềm năng cho hàng hóa Việt Nam. https://tapchicongthuong.vn/cac-fta-moi--chia-khoa--khai-pha-cac-thi-truong-xuat-khau-tiem-nang-cho-hang-hoa-viet-nam-176576.htm

3. Đặng Phong (2013), Kinh tế Việt Nam 1945 - 1954: Chủ trương và thành tựu. https://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/461-KINH-TE-VIET-NAM-1945-1954-CHU-TRUONG-VA-THANH-TUU

4. https://vietnam.gov.vn/economy-68968

5. Kinh tế Việt Nam trong 45 năm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990.

6. Thủ tướng Phạm Minh Chính (2025), Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc. https://baochinhphu.vn/doi-moi-sang-tao-tang-toc-but-pha-dua-dat-nuoc-vung-buoc-tien-vao-ky-nguyen-vuon-minh-phat-trien-giau-manh-van-minh-thinh-vuong-cua-dan-toc-102250101011544952.htm

Phạm Trang
NHNN

Tin bài khác

Khơi dậy khát vọng cống hiến, đưa đất nước vươn mình thịnh vượng

Khơi dậy khát vọng cống hiến, đưa đất nước vươn mình thịnh vượng

Trong không khí cả nước thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ 11, chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, ngày 24/11/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức trọng thể Đại hội Thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ IX và Hội nghị tổng kết 5 năm triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ và Phong trào “Giỏi việc ngân hàng, đảm việc nhà” giai đoạn 2021 - 2025.
“Giỏi việc ngân hàng, đảm việc nhà”: Hội tụ bản lĩnh, trí tuệ của nữ cán bộ ngành Ngân hàng để phát triển đất nước

“Giỏi việc ngân hàng, đảm việc nhà”: Hội tụ bản lĩnh, trí tuệ của nữ cán bộ ngành Ngân hàng để phát triển đất nước

Trong 5 năm qua, với việc khai lồng ghép, kết hợp phong trào thi đua “Giỏi việc ngân hàng, đảm việc nhà” cùng các phong trào thi đua yêu nước do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam (CĐNHVN) và các cấp công đoàn trong hệ thống đã dẫn dắt nữ cán bộ công chức, tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế của nữ cán bộ, đoàn viên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành Ngân hàng.
Cùng viết tiếp những trang sử vàng vì hạnh phúc Nhân dân

Cùng viết tiếp những trang sử vàng vì hạnh phúc Nhân dân

Tại Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH), khi trả lời làm thế nào để giữa bề công việc của một người đứng đầu một cơ quan vẫn có thể vừa làm tốt trọng trách, vừa làm thơ, sáng tác nhạc, Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng chia sẻ, đó chính là tinh thần “thi đua là vượt lên chính mình”.
Agribank thúc đẩy hoạt động khoa học và sáng kiến trong bối cảnh chuyển đổi số

Agribank thúc đẩy hoạt động khoa học và sáng kiến trong bối cảnh chuyển đổi số

Thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị và Chính phủ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã chủ động triển khai nhiều chiến lược phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bài viết phân tích vai trò then chốt của hoạt động khoa học và sáng kiến trong giai đoạn 2021 - 2025, qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế, số hóa quản lý, nâng cao năng lực nhân sự và xây dựng văn hóa đổi mới tại Agribank.
Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước đoàn kết, bứt phá, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới của đất nước

Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước đoàn kết, bứt phá, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới của đất nước

Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh toàn diện, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, giàu mạnh, phồn vinh và thịnh vượng...
NHNN Chi nhánh Khu vực 10: Đẩy mạnh phong trào thi đua khen thưởng

NHNN Chi nhánh Khu vực 10: Đẩy mạnh phong trào thi đua khen thưởng

Sáng 30/5/2025, tại Thành phố Nha Trang (Khánh Hòa), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Chi nhánh Khu vực 10 đã tổ chức Hội nghị tuyên dương điển hình tiên tiến giai đoạn 2020 - 2025. Đây là dịp để đơn vị tổng kết, đánh giá, đúc kết bài học kinh nghiệm trong các phong trào thi đua, biểu dương và tôn vinh các tập thể, cá nhân là điển hình tiên tiến có nhiều thành tích xuất sắc tiêu biểu trên các mặt công tác trong giai đoạn 2020 - 2025...
Thúc đẩy sức mạnh nội sinh từ phong trào thi đua

Thúc đẩy sức mạnh nội sinh từ phong trào thi đua

Với quyết tâm chính trị cao cùng sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thi đua là yêu nước, càng khó khăn thì càng phải thi đua, toàn hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội đoàn kết, linh hoạt, sáng tạo, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao.
Xem thêm
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô