
Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển
Cách đây tròn 80 năm, vào mùa Thu năm 1945, dân tộc Việt Nam đã ghi dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc giữ vững nền độc lập, nhiệm vụ phát triển một nền kinh tế tự chủ, vững mạnh đã trở thành yêu cầu sống còn đối với đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam đã vượt qua muôn vàn gian khó, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kiệt quệ sau chiến tranh để vươn lên trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025) là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng nhìn lại chặng đường xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; khẳng định bản lĩnh, sức mạnh của kinh tế Việt Nam trước những biến động địa chính trị, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng.
![]() |
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet) |
1. Trưởng thành từ khói lửa chiến tranh, Việt Nam mạnh mẽ vươn mình thành nền kinh tế độc lập, tự chủ
Năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đứng trước tam tầng khó khăn - giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong đó, nạn giặc đói năm Ất Dậu đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào, giặc dốt khiến trên 90% dân số nước ta mù chữ. Cùng với đó, giặc Pháp cũng lăm le xâm lược nước ta một lần nữa. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ lâm thời đã phát động phong trào “Nhường cơm sẻ áo”, “tấc đất, tấc vàng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khẩu hiệu: “Tăng gia sản xuất/Tăng gia sản xuất ngay/Tăng gia sản xuất nữa” để khuyến khích toàn dân lao động sản xuất, đẩy lùi nạn đói. Nhờ tất cả những cố gắng đó, đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi, sản lượng lương thực đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 19451.
Về tình hình tài chính - tiền tệ, ngân sách quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, trong đó quá nửa là tiền rách, các nguồn thu quá ít ỏi, không thể đáp ứng được nhu cầu chi lớn, trong khi Nhà nước non trẻ lại chưa kiểm soát được Ngân hàng Đông Dương. Vì vậy, ngày 31/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 18B/SL cho phép phát hành “Đồng bạc Giấy Việt Nam”. Việc phát hành này được thực hiện từ ngày 03/02/1946, ban đầu ở các tỉnh Nam Trung bộ và nhận được sự ủng hộ của người dân. Sau đó, ngày 23/11/1946, Quốc hội khóa I đã chính thức cho phép phát hành giấy bạc Việt Nam trên toàn quốc. Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn mang tính chính trị, khẳng định chủ quyền và sự độc lập của chính quyền cách mạng. Việc phát hành tiền Việt Nam cũng góp phần quan trọng vào ổn định nền tài chính, phục vụ nhu cầu chi tiêu của chính quyền và xây dựng nền tài chính quốc gia.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) bùng nổ, đất nước bước vào thời kỳ “kháng chiến, kiến quốc” với hai nhiệm vụ song song: Vừa chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, vừa xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa. Nền kinh tế lúc này vận hành trong điều kiện đặc biệt của thời chiến, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, tự cung, tự cấp và các ngành thủ công nghiệp nhỏ, lẻ. Chính phủ và Nhân dân cả nước thực hiện đẩy mạnh tăng gia sản xuất để tự đảm bảo lương thực, thực phẩm, đồng thời khôi phục các cơ sở sản xuất vũ khí, quân trang, hàng thiết yếu phục vụ chiến đấu với phương châm:
“Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí
Nhà nông là chiến sĩ
Hậu phương thi đua với tiền phương”.
Nhờ những nỗ lực, đoàn kết không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, kinh tế nước ta tuy khó khăn nhưng đã có sự cải thiện rõ rệt. Từ năm 1945 - 1954, nông dân miền Bắc đã được chia 475.900 ha ruộng đất, nông dân miền Nam được chia 410.000 ha. Năm 1954, sản lượng lương thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, trong đó riêng thóc đạt 2,3 triệu tấn, tăng 15,9%. Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Ngoài số lượng lớn về vũ khí, đạn dược, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu được sản xuất ngày càng nhiều: 20.000 tấn than cốc, 800 kg ăngtimoan (giai đoạn 1946 - 1950); 29,5 tấn thiếc, 43,0 tấn chì (giai đoạn 1950 - 1952); 169,3 triệu mét vải, 31.700 tấn giấy (giai đoạn 1950 - 1954)2.
Sau chiến thắng thực dân Pháp năm 1954, miền Nam tiếp tục nhiệm vụ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trong khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Kết thúc năm 1975, sản lượng lương thực quy thóc đạt 5,49 triệu tấn, tăng đáng kể so với mức 3,76 triệu tấn năm 1955. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1975 tăng gấp 16,6 lần năm 1955, bình quân tăng mỗi năm là 14,7%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 so với năm 1955 tăng gấp 7,8 lần; kim ngạch xuất khẩu tăng 21,3 lần; kim ngạch nhập khẩu tăng 11,8 lần. Tỉ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu tăng từ 9,1% năm 1945 lên 17,0% năm 1955; riêng thời kỳ 1958 - 1964 đạt tỉ lệ 63,7%3.
Hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn 1975 - 1985, mặc dù đứng trước thử thách khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, song nền kinh tế cũng ghi nhận một số thành tựu nhất định. Tính chung từ năm 1976 - 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hằng năm tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8%, bình quân hằng năm tăng 3,7%; sản lượng lương thực bình quân mỗi năm giai đoạn 1981 - 1985 đạt 17 triệu tấn, sản lượng công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm. Tuy nhiên, nước ta lại đứng trước tình trạng siêu lạm phát khi chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và dao động ở mức 19 - 92% trong suốt giai đoạn 1975 - 19854. Kim ngạch xuất khẩu, mặc dù tăng nhanh hơn kim ngạch nhập khẩu, nhưng chỉ bù đắp được khoảng một phần ba giá trị nhập khẩu, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu vẫn ở mức rất thấp (Bảng 1).
![]() |
2. Đổi mới toàn diện - nền tảng vững chắc đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu
Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, kinh tế Việt Nam chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế. Những cải cách quan trọng bao gồm: Xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện khoán trong nông nghiệp (khoán 10), khuyến khích kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa kinh tế đối ngoại. Nhờ đó, từ tình trạng lạm phát hơn 700% năm 1986, kinh tế đã từng bước ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP tăng 4,4%/năm (giai đoạn 1986 - 1990), 7,31%/năm (giai đoạn 1991 - 2011) và đạt 7,52% (tháng 6/2025). GDP 6 tháng qua các năm theo giá so sánh năm 2010 được mô tả trong Hình 1.
![]() |
Đối với ngành nông nghiệp, từ thập niên 1990 đến đầu những năm 2000, nông nghiệp tiếp tục mở rộng quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các ngành hàng chủ lực như lúa gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, thủy sản. Giai đoạn 2010 - 2020, chính sách “tam nông” được Đảng và Nhà nước nhấn mạnh trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. “Tam nông” cũng được xác định là nền tảng quan trọng để bảo đảm an ninh lương thực, phát triển kinh tế bền vững và ổn định xã hội. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp tiếp tục hướng tới mục tiêu phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, ứng phó biến đổi khí hậu và hội nhập sâu rộng. Việc chuyển đổi số trong nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế (VietGAP, GlobalGAP) và xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản được xem là trụ cột để duy trì vị thế và giá trị xuất khẩu cao. Theo đó, ngành nông nghiệp được tái cơ cấu theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng, áp dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, đồng thời, chú trọng đào tạo nghề, nâng cao trình độ, tạo điều kiện để nông dân tham gia thị trường và hội nhập quốc tế. Quy mô và sản lượng một số sản phẩm nông, lâm, thủy sản của Việt Nam vì thế tiếp tục gia tăng, trong đó, nhiều mặt hàng đã trở thành nhân tố chủ lực trong kim ngạch xuất khẩu của cả nước (Hình 2).
![]() |
Đối với ngành công nghiệp và dịch vụ, sau công cuộc Đổi mới năm 1986, ngành công nghiệp và dịch vụ của Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, trở thành động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế. Công nghiệp nhanh chóng thoát khỏi tình trạng sản xuất trì trệ, lạc hậu, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và công nghệ tiên tiến. Nhiều ngành công nghiệp chủ lực hình thành và phát triển như dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, điện tử, lắp ráp ô tô, sản xuất thép… Đặc biệt, từ những năm 2000, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, đóng góp chủ yếu vào kim ngạch xuất khẩu, với các sản phẩm như điện thoại, máy tính, linh kiện điện tử nằm trong nhóm xuất khẩu hàng đầu thế giới. Theo Cục Thống kê, tính chung 7 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,5%). Đặc biệt, cả nước có 174,0 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 24,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tập trung vào một số lĩnh vực chính như trong Hình 3.
![]() |
Khu vực dịch vụ cũng bùng nổ mạnh mẽ nhờ hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường, phát triển thương mại, logistics, du lịch và công nghệ thông tin. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều tập đoàn bán lẻ, hãng hàng không và chuỗi khách sạn quốc tế. Hệ thống hạ tầng thương mại - dịch vụ được mở rộng nhanh chóng, từ các trung tâm thương mại hiện đại ở các đô thị lớn đến mạng lưới siêu thị, cửa hàng tiện lợi phủ khắp các tỉnh, thành phố. Các ngành du lịch, đặc biệt là du lịch biển và du lịch văn hóa, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, với nhiều điểm đến của Việt Nam liên tục được vinh danh trên bản đồ du lịch thế giới, qua đó thu hút một lượng lớn khách quốc tế đến Việt Nam (Hình 4). Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực dịch vụ không chỉ đóng góp lớn vào GDP, tạo hàng triệu việc làm mới, mà còn nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.
![]() |
Đối với ngành tài chính - ngân hàng, tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã công bố Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, theo đó, ngành Ngân hàng Việt Nam chính thức hoạt động theo mô hình ngân hàng hai cấp: NHNN thực hiện chức năng quản lý, điều hành chính sách tiền tệ; các tổ chức tín dụng thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ liên quan. Từ đầu những năm 1990, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ra đời, góp phần mở rộng mạng lưới và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ.
Bước sang thế kỷ XXI, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Ngân hàng đã áp dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại, phát triển ngân hàng số, thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ tài chính trực tuyến. Công tác quản trị rủi ro, an toàn hệ thống được nâng cao, đáp ứng chuẩn mực quốc tế như Basel II, Basel III. Tín dụng và vốn huy động tăng trưởng ổn định, đóng vai trò huyết mạch cho nền kinh tế. Tính đến ngày 30/6/2025, dư nợ toàn hệ thống đạt trên 17,2 triệu tỉ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024, tăng 19,32% so với cùng kỳ năm 2024 (NHNN, 2025). Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn như khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 hay đại dịch Covid-19, ngành Ngân hàng vẫn giữ vững ổn định hệ thống, đồng thời triển khai nhiều gói hỗ trợ tín dụng và chính sách tiền tệ linh hoạt để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Qua đó, ngành Ngân hàng không chỉ góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đối với doanh nghiệp và người dân, mà còn duy trì niềm tin của thị trường, bảo đảm dòng vốn lưu thông liên tục, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Hình 5 mô tả mối tương quan tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm trong giai đoạn 2018 - 2025.
![]() |
Đối với lĩnh vực ngoại thương và hợp tác quốc tế, Việt Nam đã có bước chuyển mạnh mẽ từ cơ chế độc quyền Nhà nước sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước cũng từng bước hội nhập sâu vào kinh tế thế giới thông qua việc gia nhập nhiều tổ chức quốc tế như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, đồng thời, ký kết và thực thi hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Tính đến tháng 7/2025, Việt Nam đã triển khai hiệu quả 17 FTA (Bảng 2), bao phủ 65 nền kinh tế lớn, với mục tiêu phát triển thị trường và hội nhập sâu rộng toàn cầu (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Công thương tại Đại hội Đảng bộ Bộ Công thương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030). Việc tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại quốc tế không chỉ mang lại ưu đãi thuế quan cho Việt Nam mà còn thúc đẩy cải cách thể chế, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, tăng sức cạnh tranh và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng.
![]() |
3. Kinh tế Việt Nam tiếp tục vững bước trên hành trình hội nhập và phát triển
Những kết quả quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện đã tạo ra nền tảng vững chắc, đưa nền kinh tế Việt Nam tiến bước trên hành trình hội nhập và phát triển, đồng thời nâng cao sức chống chịu trước những biến động địa chính trị. Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng năng động hàng đầu khu vực, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, an sinh xã hội được bảo đảm. Vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được khẳng định, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định các mục tiêu cụ thể: Đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Ngày 05/8/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 226/NQ-CP về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực, địa phương và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để bảo đảm tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8,3 - 8,5%. Trong đó, "Bộ tứ trụ cột" - bao gồm: Thể chế pháp lý, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế khu vực tư nhân. Đây chính là khung lý luận và hành động cho mô hình phát triển tích hợp của Việt Nam hiện đại. Nhằm đạt được những mục tiêu trên, Việt Nam cần thực hiện một cách nhất quán và hiệu quả nhóm giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và thông thoáng; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới.
Thứ hai, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số toàn diện trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế; hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ; tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, kinh doanh và quản lý; phát triển hạ tầng số hiện đại, bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ các nguồn lực, kinh nghiệm, tri thức tiên tiến từ các tổ chức, định chế tài chính đa phương và quốc gia đối tác. Đồng thời, tích cực đàm phán các hiệp định thương mại song phương và đa phương cũng như tham gia vào các mô hình, khuôn khổ hợp tác và liên kết mới về kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại phù hợp với điều kiện của đất nước và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Theo đó, cần ưu tiên xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, cần hỗ trợ các thành phần kinh tế hộ, kinh tế hợp tác; khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các lĩnh vực chiến lược của đất nước. Bên cạnh đó, cần có các chính sách riêng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới, hiệu quả.
Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng cách đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế; chú trọng đào tạo kỹ năng nghề, kỹ năng số và ngoại ngữ; xây dựng chính sách thu hút, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài, đồng thời khuyến khích học tập suốt đời để nâng cao năng lực cạnh tranh của lực lượng lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trải qua chặng đường 80 năm gian nan nhưng cũng đầy rực rỡ, nền kinh tế Việt Nam đã chứng minh bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên không ngừng của dân tộc. Từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu, chịu nhiều tàn phá của chiến tranh, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động hàng đầu khu vực và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục phát huy truyền thống kiên cường, đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng đáng với kỳ vọng và niềm tin của các thế hệ cha anh.
1 Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, t.1, trang 136.
2 Báo Chính phủ, Một vài nét về kinh tế - xã hội Việt Nam, https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390
3 https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390
4 https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390
Tài liệu tham khảo:
1. Báo Chính phủ, Một vài nét về kinh tế - xã hội Việt Nam. https://chinhphu.vn/kinh-te-xa-hoi-68390
2. Báo Công Thương (2015), Các FTA mới - “Chìa khóa” khai phá các thị trường xuất khẩu tiềm năng cho hàng hóa Việt Nam. https://tapchicongthuong.vn/cac-fta-moi--chia-khoa--khai-pha-cac-thi-truong-xuat-khau-tiem-nang-cho-hang-hoa-viet-nam-176576.htm
3. Đặng Phong (2013), Kinh tế Việt Nam 1945 - 1954: Chủ trương và thành tựu. https://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/461-KINH-TE-VIET-NAM-1945-1954-CHU-TRUONG-VA-THANH-TUU
4. https://vietnam.gov.vn/economy-68968
5. Kinh tế Việt Nam trong 45 năm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990.
6. Thủ tướng Phạm Minh Chính (2025), Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc. https://baochinhphu.vn/doi-moi-sang-tao-tang-toc-but-pha-dua-dat-nuoc-vung-buoc-tien-vao-ky-nguyen-vuon-minh-phat-trien-giau-manh-van-minh-thinh-vuong-cua-dan-toc-102250101011544952.htm
Tin bài khác


NHNN Chi nhánh Khu vực 10: Đẩy mạnh phong trào thi đua khen thưởng

Thúc đẩy sức mạnh nội sinh từ phong trào thi đua

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu
