Truyền thông chính sách của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới coi truyền thông như là công cụ chính sách tiền tệ phi truyền thống để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng trung ương, củng cố niềm tin để bảo vệ người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính, chống khủng hoảng tài chính, ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng và tâm lý của người dân cũng như an ninh kinh tế của các quốc gia.
aa

Truyền thông chính sách của ngân hàng trung ương (NHTW) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự minh bạch, ổn định tài chính và hướng dẫn kỳ vọng của thị trường. Thời gian qua, bám sát chủ trương, chính sách, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) luôn quan tâm, chú trọng công tác truyền thông chính sách. Theo đó, công tác truyền thông chính sách đã đạt được những kết quả tích cực, qua đó tạo được sự đồng thuận, nâng cao niềm tin công chúng với công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng, góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách, đóng góp vào thành công chung của ngành Ngân hàng trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, cùng với những khó khăn nội tại của nền kinh tế trong nước sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến điều hành CSTT của NHTW, công tác truyền thông càng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng cho công chúng trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, truyền thông đa phương tiện, việc nghiên cứu về truyền thông chính sách của NHTW các nước trên thế giới sẽ giúp Việt Nam rút ra được những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác truyền thông chính sách của NHNN, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành CSTT trong việc thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

1. Kinh nghiệm truyền thông chính sách của một số NHTW trên thế giới

1.1. Xây dựng chiến lược truyền thông

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới coi truyền thông như là công cụ CSTT phi truyền thống để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHTW, củng cố niềm tin để bảo vệ người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính, chống khủng hoảng tài chính, ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng và tâm lý của người dân cũng như an ninh kinh tế của các quốc gia.

Trên cơ sở khảo sát một số NHTW trên thế giới cho thấy, xét về góc độ lý thuyết, không có chiến lược tối ưu nào cho truyền thông của NHTW. Một chiến lược có thể áp dụng hiệu quả cho NHTW quốc gia này nhưng chưa chắc có thể áp dụng được cho NHTW quốc gia khác. Có 2 yếu tố quyết định chiến lược truyền thông của một NHTW, bao gồm: Cấu trúc của hệ thống ra quyết định và khuôn khổ tiền tệ trong đó NHTW vận hành. Theo nghiên cứu của Alan Blinder và Charles Wyplosz, có 3 mô hình nguyên mẫu hệ thống ra quyết định:

Mô hình 1, chỉ cá nhân Thống đốc NHTW đưa ra quyết định. Mô hình lấy New Zealand là một ví dụ điển hình. Khi chỉ có Thống đốc được ra quyết định về lãi suất, sẽ không có việc bỏ phiếu và không có các biên bản họp để báo cáo. Tất cả phụ thuộc vào việc Thống đốc sẽ giải thích một cách đầy đủ nhất có thể vì sao lại đưa ra quyết định như vậy.

Mô hình 2, quyết định được đưa ra bởi hội đồng mang tính chuyên quyền. Theo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Chủ tịch sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến sự nhất trí của tập thể. Trong trường hợp này, Chủ tịch sẽ chi phối quá trình truyền thông, Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) - cơ quan chính của Fed về chính sách tiền tệ sẽ phát đi các thông điệp độc lập sau khi kết thúc các buổi họp, trong khi đó, Chủ tịch có thể bắt đầu phiên thảo luận với một bản dự thảo được chuẩn bị sẵn và sẽ xác nhận về chính sách bằng các tin tức sự kiện chính.

Mô hình 3, việc ra quyết định được thực hiện bởi một hội đồng thực sự như NHTW châu Âu (ECB). Trong trường hợp này, Chủ tịch đóng vai trò thông qua quyết định của tập thể và tránh các thảo luận bất đồng ý kiến.

1.2. Chủ đề và các hình thức truyền thông

Về chủ đề, truyền thông của NHTW cung cấp tới các nhóm đối tượng mục tiêu thông tin về 4 lĩnh vực chủ yếu của CSTT, bao gồm: (i) Mục tiêu và chiến lược tổng quát; (ii) Nguyên nhân, mục đích của việc ra các quyết định chính sách cụ thể; (iii) Đánh giá tổng quan về triển vọng kinh tế; (iv) Định hướng các quyết định CSTT tương lai. Các đối tượng truyền thông của các NHTW có thể chia thành 7 nhóm chính: (i) Doanh nghiệp; (ii) Hộ gia đình; (iii) Khu vực công; (iv) Giới truyền thông; (v) Các tổ chức giáo dục; (vi) Giới nghiên cứu/học thuật; (vii) Các tổ chức quốc tế (Naghdaliyev, 2011).

NHTW truyền thông theo nhiều kênh khác nhau: Các bài diễn văn của Thống đốc và thành viên Ban Lãnh đạo, các biên bản họp CSTT, website của NHTW, sổ tay về chức năng và hoạt động của NHTW, bản tin, báo cáo thường niên, thông cáo báo chí, các biên bản họp CSTT, các bài phát biểu, phỏng vấn, các báo cáo đánh giá tình hình kinh tế, báo cáo ổn định tài chính, các định hướng chính sách và các tài liệu nghiên cứu… Bên cạnh các kênh truyền thông truyền thống, các NHTW cũng đã và đang sử dụng nhiều kênh thông tin mới, như các mạng xã hội Facebook, Twitter, Youtube, Blog, các diễn đàn, Chat room… để tăng cường việc phổ biến thông tin đến các nhóm đối tượng mục tiêu đa dạng trong xã hội.

Mỗi phương pháp và kênh này hướng tới một đối tượng công chúng và mục tiêu nhất định, cũng như đóng vai trò quan trọng trong chiến lược truyền thông của NHTW.

Chẳng hạn như: Tất cả các NHTW đều công bố các dự báo, phân tích về tình hình kinh tế vĩ mô dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ: NHTW Anh (BoE) có Báo cáo lạm phát quý, Bản tin hằng tháng của ECB, thông báo CSTT của Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ)(Kedan và Stuart, 2014).

Một số NHTW công bố dự báo về các chỉ báo của lạm phát, thị trường lao động và các hoạt động kinh tế. Một số NHTW xây dựng dự báo cho lãi suất, từ đó trực tiếp định hướng về lộ trình và hướng đi của lãi suất trong tương lai như RBNZ, Norges Bank, Sveriges Riksbank. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh tác động tích cực hay tiêu cực của các dự báo này.

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009, các NHTW càng chú trọng hơn vào việc phát hiện, đánh giá và truyền thông về những nguy cơ rủi ro và tổn thương tới các nhà hoạch định chính sách, thị trường tài chính và công chúng. Những năm gần đây, vai trò cốt yếu của các hoạt động truyền thông ổn định tài chính đã được chú trọng nhiều hơn.

Bên cạnh đó, định hướng chính sách được xem như một cuộc cách mạng về sự minh bạch của NHTW. Nó đưa ra các quan điểm của NHTW về việc CSTT sẽ còn tiếp tục phù hợp trong một khoảng thời gian đáng kể sau khi phục hồi.

Các NHTW có nhiều cách khác nhau để định hướng chính sách. Các đề án, dự báo lãi suất của NHTW là một dạng định hướng chính sách khi chúng cung cấp thông tin chính xác về lộ trình dự kiến của ngân hàng về lãi suất tương lai. Một số NHTW như New Zealand, Norges Bank và Sveriges Riksbank đã vượt ra khỏi thông lệ khi công bố các định hướng mang tính định lượng và đưa ra các dự đoán về hướng đi của chính sách lãi suất trong tương lai với các con số cụ thể để củng cố cho các dự báo kinh tế vĩ mô.

2. Vài nét về hoạt động truyền thông chính sách của NHNN

Tại Việt Nam, NHNN là NHTW, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của NHTW về phát hành tiền; ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của NHNN.

Thời gian qua, hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng diễn ra trong bối cảnh đặc biệt. Tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, xung đột địa chính trị kéo dài. Kinh tế toàn cầu hồi phục chậm, tăng trưởng không đồng đều ở các khu vực. Lạm phát toàn cầu giảm nhưng tốc độ giảm vẫn chậm hơn kỳ vọng và tiềm ẩn rủi ro tăng trở lại. Ở trong nước, là một nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam dễ chịu tác động từ những biến động trên thị trường thế giới, đặt ra rất nhiều thách thức đối với điều hành CSTT của NHNN trong năm 2024, vừa bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn phải bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Mặt khác, tác động tiêu cực của dịch Covid-19 ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội còn kéo dài sang năm 2024. Sản xuất, kinh doanh khó khăn, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu, tín dụng tăng trưởng thấp; những khó khăn trên thị trường bất động sản, trái phiếu; sự cố tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) đã ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin công chúng đối với điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng.

Trong bối cảnh khó khăn, thách thức trên, bám sát chủ trương, chính sách, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Ban Lãnh đạo NHNN về công tác truyền thông, Vụ Truyền thông - NHNN đã tích cực triển khai các hoạt động truyền thông chính sách “sáng tạo, chuyên nghiệp, thống nhất, hiệu quả”; qua đó, góp phần tạo được sự đồng thuận, nâng cao niềm tin công chúng với điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng, đồng thời, góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách, đóng góp vào thành công chung của Ngành trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các chương trình giáo dục tài chính có tính lan tỏa cao, được dư luận đánh giá cao và có nhiều sản phẩm cụ thể. Theo đó, công tác truyền thông của NHNN đã đạt được một số kết quả nổi bật như sau:

Một là, thực hiện tốt quản lý nhà nước về truyền thông ngành Ngân hàng liên quan đến truyền thông chính sách: Thực hiện Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 21/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác truyền thông chính sách, thời gian qua, NHNN đã tổ chức quán triệt đến các đơn vị truyền thông trong toàn Ngành về tầm quan trọng của truyền thông chính sách, đồng thời yêu cầu đẩy mạnh truyền thông chính sách (trong các Chỉ thị của Thống đốc hằng năm; thông qua các cuộc họp giao ban hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng hoặc một số văn bản chỉ đạo, NHNN đều quán triệt tới các đơn vị truyền thông trong Ngành về việc đẩy mạnh truyền thông chính sách).

Hai là, xây dựng chương trình, kế hoạch truyền thông chính sách bài bản, chuyên nghiệp: Hằng năm, NHNN xây dựng và ban hành Kế hoạch truyền thông tổng thể của ngành Ngân hàng và kế hoạch truyền thông cụ thể đối với các văn bản, chính sách sắp ban hành được dư luận quan tâm. Khi ban hành chính sách mới, NHNN luôn chú trọng truyền thông trước, trong và sau khi ban hành.

Ba là, xây dựng kế hoạch truyền thông xử lý khủng hoảng: Khi có các sự cố liên quan ngân hàng, NHNN kịp thời có thông điệp; theo sát dư luận, mạng xã hội để có phương án truyền thông phù hợp; đồng thời phối hợp các cơ quan quản lý báo chí, cơ quan thông tấn báo chí triển khai truyền thông, qua đó góp phần giữ vững niềm tin của người gửi tiền với điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng.

Bốn là, đa dạng và đổi mới các hoạt động triển khai truyền thông chính sách thông qua tổ chức các cuộc họp báo định kỳ; tổ chức sự kiện của NHNN và ngành Ngân hàng, đồng thời phối hợp các đơn vị liên quan triển khai các sự kiện, hội thảo1. Truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, phát thanh, báo viết, báo điện tử…).

Nhằm thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia2 và các Đề án của Chính phủ3, NHNN đã triển khai các chương trình giáo dục tài chính với những sản phẩm cụ thể được đánh giá cao4:

Truyền thông mạng xã hội: Vụ Truyền thông - NHNN đã nghiên cứu, sáng tạo đổi mới truyền thông giáo dục tài chính trên nền tảng mạng xã hội và 01 kênh giáo dục tài chính trên nền tảng Tiktok để bắt kịp xu thế thời đại và kinh nghiệm quốc tế. Nội dung liên quan đến điều hành CSTT, hoạt động ngân hàng, các kiến thức về thanh toán, tiết kiệm, nâng cao hiểu biết, kỹ năng sử dụng dịch vụ ngân hàng nhằm hạn chế "tín dụng đen"; Fanpage giáo dục tài chính đã đạt tích xanh.

Các chương trình giáo dục tài chính đã truyền tải kịp thời các chính sách của NHTW, thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật, giúp thay đổi nhận thức và hành vi của người sử dụng dịch vụ tài chính, góp phần tích cực trong việc thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam5, tỉ lệ người sử dụng thanh toán tăng, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho người dân6, tránh rủi ro cho người sử dụng dịch vụ tài chính, giảm thiểu chi phí xã hội, đóng góp tích cực cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước.

Truyền thông qua Cổng thông tin điện tử NHNN: Cổng Thông tin điện tử NHNN là kênh thông tin chính thống của NHNN; thực hiện tốt nhiệm vụ minh bạch hóa thông tin theo các cam kết quốc tế của Chính phủ và NHTW; cung cấp thông tin chính thức của NHNN về cơ chế, chính sách điều hành, kết quả và định hướng liên quan đến các hoạt động tiền tệ - ngân hàng đúng thời gian quy định, bảo đảm công khai, minh bạch, chính xác và kịp thời theo quy định của pháp luật7.

Đến nay, Cổng Thông tin điện tử NHNN đã tích hợp với các dịch vụ công mức độ 3 theo lộ trình thực hiện của NHNN, góp phần thực hiện kế hoạch đổi mới và cải tiến thủ tục ngân hàng, đẩy mạnh hoạt động cải cách thủ tục hành chính; đáp ứng đầy đủ các quy định của Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước8.

Năm là, thúc đẩy truyền thông chính sách trong nội bộ nhằm nâng cao nhận thức của các cán bộ làm truyền thông trong Ngành về các chủ trương, chính sách, chỉ đạo của Chính phủ tới NHNN và của NHNN tới hệ thống tổ chức tín dụng.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt ra những khó khăn, thách thức đối với công tác truyền thông chính sách nói chung và công tác truyền thông chính sách ngành Ngân hàng nói riêng. Các hình thức truyền thông mới tác động sâu sắc đến cách thức tiếp nhận thông tin, nhận thức và xử lý thông tin của công chúng. Cùng với đó là những thách thức về vấn nạn tin giả (fake news), thông tin thiếu kiểm chứng, thông tin bịa đặt, thông tin xấu độc…

Thông tin về tiền tệ và ngân hàng có tính “nhạy cảm” cao, tác động trực tiếp, nhanh chóng đến thị trường tài chính và có khả năng dẫn dắt, định hướng dòng vốn trong nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, thu hút sự quan tâm đặc biệt của người dân, doanh nghiệp. Do đó, đòi hỏi sự thận trọng, chuẩn xác trong việc phát ngôn, đưa tin, bình luận.

3. Bài học rút ra về truyền thông chính sách của NHNN

Qua nghiên cứu hoạt động truyền thông chính sách tại NHTW một số nước trên thế giới, có thể thấy, trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, đặc biệt là từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2007 - 2009, các NHTW trên thế giới đã và đang thay đổi nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác truyền thông đối với việc góp phần thực hiện hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của NHTW hiện đại. Truyền thông đã trở thành một công cụ quan trọng và là một phần không thể tách rời của hoạt động điều hành CSTT của NHTW. Đặc biệt sau khủng hoảng tài chính, các NHTW đã nhận ra vai trò chủ chốt của truyền thông, việc truyền thông hợp lý về các chính sách, các biện pháp cũng quan trọng không kém so với bản thân nội dung chính sách, biện pháp đó.

Tuy nhiên, thực tế hoạt động truyền thông của các NHTW trên thế giới cho thấy, không có một chiến lược truyền thông “tối ưu”, hay “thông lệ tốt nhất” cho tất cả các NHTW. Việc xây dựng chiến lược truyền thông cần căn cứ vào bối cảnh trong nước, quốc tế và đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia, cũng như mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của từng NHTW trong từng giai đoạn nhất định.

Một khuôn khổ CSTT với các mục tiêu cụ thể, rõ ràng, nhất quán, trong đó, nhấn mạnh vào tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của NHTW - yếu tố chủ đạo cho việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động truyền thông. Những nỗ lực cải thiện sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của NHTW không chỉ giúp tăng cường hiệu quả điều hành CSTT của NHTW mà còn góp phần củng cố, nâng cao hình ảnh, địa vị và tín nhiệm của NHTW đối với công chúng.

Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và sự ra đời của nhiều hình thức, phương pháp, công cụ truyền thông mới, việc nghiên cứu, ứng dụng các loại hình này là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả truyền thông của NHTW. Tuy nhiên, việc áp dụng một hình thức truyền thông mới cần phải tiến hành một cách thận trọng và có sự tính toán kỹ lưỡng.

Theo đó, để công tác truyền thông chính sách của NHNN đạt hiệu quả, cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:

Thứ nhất, truyền thông, cung cấp thông tin cần phải chính xác, kịp thời. NHNN cần bảo đảm thông tin đưa ra là chính xác và kịp thời để tránh tạo ra sự hiểu lầm hoặc sự hoang mang trong công chúng. Đặc biệt, khi đưa ra các quyết định quan trọng về CSTT, lãi suất, tỉ giá... hoặc các biện pháp ứng phó với khủng hoảng liên quan đến kinh tế, tài chính, ngân hàng, NHNN cần phải cung cấp thông tin một cách minh bạch, công khai, giải thích rõ ràng mục đích, mục tiêu, lý do và tác động của quyết định đó.

Thứ hai, tăng cường truyền thông đối ngoại. NHNN có thể tổ chức cuộc họp, tọa đàm, hội thảo, hội nghị quốc tế để giới thiệu các chính sách đang áp dụng và giải thích về các quyết định quan trọng đối với cộng đồng quốc tế, từ đó nâng cao uy tín và sự tín nhiệm.

Thứ ba, tăng cường giáo dục tài chính, nâng cao sự hiểu biết của công chúng. Việc cộng đồng nắm bắt thông tin một cách đầy đủ, chính xác sẽ góp phần xây dựng sự tin tưởng của công chúng đối với NHNN. Do đó, NHNN cần tăng cường truyền thông giáo dục tài chính, nâng cao sự hiểu biết của công chúng về các chính sách, cơ chế hoạt động và các quyết sách của NHNN cũng như vai trò của NHNN trong nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tỉ giá duy trì sự ổn định tài chính, ảnh hưởng của NHNN đến nền kinh tế và đời sống.

Các chương trình truyền thông, giáo dục tài chính cần bảo đảm các yếu tố cung cấp thông tin dễ hiểu, trực quan, dễ tiếp cận; sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng, tránh thuật ngữ chuyên ngành hoặc được giải thích một cách dễ hiểu. Đồng thời, kết hợp các phương tiện trực quan sinh động như biểu đồ, hình ảnh, video để giúp người xem dễ dàng tiếp cận và ghi nhớ. Xây dựng và phát triển nền tảng tiếp cận đa dạng, có tính tương tác, phù hợp với các nhóm đối tượng mục tiêu; truyền thông qua mạng xã hội, truyền hình, báo chí, sự kiện cộng đồng... được triển khai phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng...

Thứ tư, xử lý, giải quyết một cách nhanh chóng khi xảy ra thông tin sai lệch. Khi phát hiện thông tin sai lệch, NHNN cần lưu ý đến các kênh truyền thông, trong đó có các kênh truyền thông mạng xã hội hoặc sử dụng các kênh đã thiết lập sẵn với đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông truyền thống.

Về lâu dài, NHNN cần xây dựng chiến lược ứng phó với vấn đề tin giả, tin sai lệch. Có thể thực hiện các cuộc khảo sát định kỳ 2 năm/1 lần để đánh giá hình ảnh, độ tin cậy của chính ngân hàng đó, từ đó, phát hiện sớm các dấu hiệu của thông tin sai lệch. Đồng thời, NHNN có thể chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc chống tin giả mạo, góp phần củng cố thông điệp truyền thông một cách thống nhất và vững chắc. Ngoài ra, NHNN cần duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các phóng viên, báo chí và các cơ quan truyền thông để bảo đảm rằng thông tin được lan truyền một cách chính xác và không bị xuyên tạc.

Thứ năm, tăng cường truyền thông trên mạng xã hội. Đây là hoạt động thiết yếu nhằm nâng cao sự minh bạch, cải thiện khả năng tiếp cận thông tin và tăng cường sự hiểu biết của công chúng về chính sách tiền tệ, tài chính, ngân hàng, qua đó góp phần bảo vệ người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính.

NHNN cần xây dựng các kênh truyền thông trực tuyến để giao tiếp trực tiếp với công chúng, chia sẻ thông tin về các CSTT và cập nhật kịp thời về tình hình tài chính quốc gia. Có thể thực hiện chia sẻ các nội dung bằng những bài viết ngắn gọn, Infographic và video dễ hiểu, trả lời vấn đề dư luận quan tâm, giúp nâng cao sự hiểu biết và giảm bớt lo ngại về các quyết định của ngân hàng.

Thứ sáu, tăng cường truyền thông nội bộ. Truyền thông nội bộ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của NHNN, giúp thúc đẩy giao tiếp hiệu quả đối với cán bộ trẻ và khuyến khích nhân viên trở thành những đại sứ truyền thông; đồng thời, góp phần hiệu quả trong việc bảo đảm thông tin được truyền tải chính xác và nhất quán, tránh hiểu lầm và hạn chế thông tin sai lệch, giảm thiểu rủi ro bị gây ra bởi thông tin không chính xác.

1 Tổ chức sự kiện Ngày chuyển đổi số ngành Ngân hàng (năm 2022, 2023, 2024); phối hợp Báo Tuổi trẻ tổ chức sự kiện Ngày không tiền mặt (từ năm 2019 đến nay); phối hợp Báo Tiền Phong tổ chức sự kiện Ngày thẻ Việt Nam (năm 2020, 2022, 2023, 2024); phối hợp Thời báo Kinh tế Sài Gòn tổ chức các diễn đàn “Toàn cảnh ngân hàng” với các chủ đề liên quan điều hành CSTT, tín dụng và tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng (các năm 2018, 2019, 2020…).

2 Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

3 Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế, Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công: thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội.

4 Chương trình “Tiền khéo - Tiền khôn”, phát sóng trên VTV3, là một trong những chương trình có tỉ lệ người xem (rating) cao nhất, thậm chí có thơi điểm cao hơn cả những chương trình rất nổi tiếng của VTV như chương trình “Ai là triệu phú”, cụ thể: Xếp hạng thứ nhất trong quý I/2022 (rating 1,5%); xếp hạng thứ 2 trong quý II/2022 (rating là 1,3%). Trong khi rating trung bình của các chương trình khác từ 0,4-1%.

- Chương trình “Tay hòm chìa khóa”, phát sóng trên VTV1, từ tháng 5/2021 đến nay vẫn đang phát sóng với rating cao nhất của VTV với tỉ lệ 3,29%, trong khi rating trung bình của các chương trình khác của VTV khoảng 1%.

- Tổ chức các cuộc thi “Hiểu đúng về tiền”; chuỗi sự kiện “Nhà Ngân hàng tương lai” (2023) ; Cuộc thi “Hiểu biết về tài chính” (2024); thực hiện chương trình “Đồng tiền thông thái”, phát sóng trên VTV1... được đánh giá cao.

5 Theo đánh giá, khảo sát của Vụ Thanh toán NHNN, sau khi thực hiện các chương trình truyền thông giáo dục tài chính, hoạt động TTKDTM trong thời gian qua đã đạt được kết quả tăng trưởng mạnh mẽ. Theo thống kê: Đến nay, hơn 87% người trưởng thành đã có tài khoản thanh toán tại ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. TTKDTM tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt về số lượng giao dịch thanh toán qua di động (Mobile) và QR Code bình quân qua các năm từ 2017 - 2023 đạt trên 100%/năm.

6 Sau 03 số phát sóng của Chương trình “Tay hòm chìa khóa” (vào các ngày 20/8/2021, 27/8/2021 và 03/9/2021) giới thiệu các nội dung về Cổng thông tin kết nối khách hàng vay của CIC; Khai thác báo cáo tín dụng khách hàng vay, Mô hình Chấm điểm tín dụng thể nhân, Hướng dẫn khách hàng vay tìm hiểu các gói vay an toàn, số liệu thống kê của CIC cho thấy, số lượng đăng ký tài khoản cá nhân mới trong tháng 8/2021 tăng 30% so với tháng trước; số lượng khai thác báo cáo của CIC cũng đã cải thiện đáng kể; số lượng đăng ký nhu cầu vay trên Cổng thông tin CIC trung bình 1 ngày tăng gần 28%. Các số liệu về số tài khoản được duyệt, số lượng khai thác báo cáo và số đăng ký nhu cầu vay (cá nhân) sau chương trình cũng đã tăng lên so với trước khi chương trình phát sóng.

7 Trung bình hằng năm, Cổng Thông tin điện tử NHNN đăng tải 1.200 tin, bài tiếng Việt và 500 tin, bài tiếng Anh; 120 Thông cáo báo chí; 40 Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); 40 VBQPP; hơn 100 tin, bài của NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố và cộng tác viên gửi đến; dịch, cập nhật hàng trăm tin, bài sang tiếng Anh để phục vụ độc giả ở ngoài nước.

8 Cổng Thông tin điện tử NHNN có lượng truy cập cao nhất trong số các trang thông tin điện tử của các bộ, ngành ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 21/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác truyền thông chính sách.

2. Carvalho C., Cordeiro F. & Vargas J. (2013). Just Words? A Quantitative Analysis of the Communication of the Central Bank of Brazil. Rio de Janeiro, v67n 4/ pages 443-455.

3. Cruijsen C. and Demertzis M.(2007) The impact of central bank transparency on inflation expectations. European Journal of Political Economy, 2007, vol.

4. Chant, J. (2003). The Bank of Canada: Moving Towards Transparency,” Bank of Canada Review. (Spring): pages 5-13.

5. D’Amico S. & King T.B. (2015). What does Anticipated Monetary Policy Do? Federal Reserve Bank of Chicago.

6. Eijffinger, S, Geraats,P. (2006). How transparent are central banks? European Journal of Political Economy 22, pages 1-21.

7. Eusepi S. & Preston B. (2010) Central bank communication and Expectations Stabilzation. American Economic Journal: Macroeconomics, Vol.2, No.3, July 2010.

8. Hayo B. & Neunkirch M. (2014) Central Bank communication in the Financial crisis: evidence from a survey of financial market participants, Research papers in economics, No.1/14.

9. IMF (2014), Review of the IMF’s Communications Strategy, http://www.imf.org/external/pp/ppindex.aspx.

10. J.de Haan et al (2007) Central bank transparency and central bank communication: Editorial introduction, European Journal of Political Economy 23, pages 1-8.

11. J. de Haan & H.Berger (2010), The European Central Bank at Ten, DOI: 10.1007/978-3-642-14237-6_5, @Springer-Verlag Berlin Heidelberg.

12. J. Sadakkadulla & Rrij Raj (2012), Central Banking in the Changing Times, The Journal of Indian Institute of Banking and Finance.

13. Kang Y., Koc A., Luo X., Muller, Pinho & Zagaria (2013). Central Bank Communication Policy: A Comparative Study, School of International and Public Affairs| SIPA, Columbia University in the City of New York.

14. Kedan, D. & Stuart, R. (2014) Central Bank Communications: A comparative study. Quarterly Bulletin Articles, 2014, pages 89-104.

15. Vụ Truyền thông NHNN (2018). Đề tài nghiên cứu khoa học “Hoạt động truyền thông chính sách của NHNN: Thực trạng và giải pháp”.

16. https://www.bankofengland.co.uk/

17. https://www.ecb.europa.eu/home/html/index.en.html

18. https://www. sbv.gov.vn

Vụ Truyền thông, NHNN

Tin bài khác

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô