Tín dụng chính sách: “Bậc thang” để người dân tộc thiểu số thoát nghèo

Hoạt động ngân hàng
Trong những năm gần đây, đường lên các bản làng xa xôi đã bớt khó khăn, người dân đi lại thuận tiện hơn khi Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư cho khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi.
aa

Trong những năm gần đây, đường lên các bản làng xa xôi đã bớt khó khăn, người dân đi lại thuận tiện hơn khi Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư cho khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi. Với việc thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi cùng các chương trình tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), đời sống của đồng bào DTTS được cải thiện và nâng cao, góp phần thu hẹp khoảng cách về mức sống cũng như thu nhập bình quân của đồng bào DTTS so với bình quân chung cả nước.

Phát huy nội lực và tinh thần vươn lên của đồng bào DTTS

Theo số liệu thống kê, cộng đồng 53 DTTS tại Việt Nam có hơn 14 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Đồng bào DTTS hiện diện trên tất cả 63 tỉnh, thành phố cả nước nhưng cư trú chủ yếu thuộc địa bàn của 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (548 huyện, 5.266 xã), chiếm 3/4 diện tích tự nhiên cả nước. Do đó, an sinh xã hội là một vấn đề lớn và là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo đối với khu vực này, đặc biệt là đối với đồng bào DTTS.

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, chính sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm, thúc đẩy an sinh xã hội cho đồng bào DTTS. “Trong hệ thống chính sách này, bên cạnh ngân sách cho
đầu tư, hỗ trợ trực tiếp thì tín dụng chính sách có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong cấu thành hệ thống chính sách, nhất là các nội dung về cải thiện điều kiện sống (nhà ở, đất ở, nước sinh hoạt), phát triển sản xuất (nông, lâm nghiệp) và thương mại, giải quyết việc làm, hỗ trợ giáo dục... Qua đó góp phần thúc đẩy hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc trên quan điểm phát huy nội lực và tinh thần vươn lên của đồng bào DTTS”, TS. Nguyễn Lâm Thành - Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khẳng định.




Anh Lường Văn Dũng (bên tay phải) trao đổi về hiệu quả vốn vay ưu đãi

với các cán bộ NHCSXH tại thôn Nà Kham, xã Đồng Thắng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn

Thực tế, tại Nho Quan - huyện miền núi duy nhất của tỉnh Ninh Bình có 7 xã vùng đồng bào DTTS, nơi tập trung sinh sống chủ yếu của người Mường, nhiều năm qua, nguồn vốn ưu đãi từ NHCSXH đã giúp không ít hộ vay vốn là đồng bào DTTS từng bước thay đổi tư duy, tập quán sản xuất, vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng trên chính quê hương của mình. Giữa sắc xanh trùng điệp của núi rừng Cúc Phương, chúng tôi gặp ông Bùi Văn Thuận - chủ hộ vay vốn từ NHCSXH với dáng người lam lũ. Đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu trong căn nhà nhỏ không mấy khang trang nhưng ông tự hào nói: “Nhờ có NHCSXH, tôi mới có ngày hôm nay. Trước đây gia đình tôi nghèo lắm, giờ kinh tế ổn định hơn, quan trọng nhất là nuôi được các con học đại học, trở thành niềm tự hào của gia đình”.

Kể về hành trình thoát nghèo của mình, ông Thuận cho biết, từ những đồng vốn ưu đãi ban đầu, ông đã mạnh dạn đầu tư nuôi ong tại nhà. Sau này được sự ủng hộ và hỗ trợ từ chính quyền địa phương, ông Thuận với vai trò là Giám đốc cùng các hộ nuôi ong liên kết thành lập Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ mật ong Cúc Phương nhằm xây dựng chuỗi sản xuất khép kín, phát triển hơn nữa nghề nuôi ong lấy mật. Không chỉ riêng ông Thuận mà nhiều thành viên của Hợp tác xã cũng vay vốn tại NHCSXH để phát triển nghề nuôi ong. Trung bình Hợp tác xã thu hoạch gần 50.000 lít mật ong mỗi năm, ước tính doanh thu đạt trên 10 tỉ đồng, sản phẩm đã đạt chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao. Nhờ đó, nhiều hộ vay vốn NHCSXH của Hợp tác xã đã có của ăn của để, trả được hết nợ cho ngân hàng, thoát nghèo bền vững.

Ông Mầu Quang Ngọc, Giám đốc Phòng giao dịch NHCSXH huyện Nho Quan cho biết, số hộ dân trên địa bàn toàn huyện đến cuối năm 2023 là 46.854 hộ, trong đó, hộ đồng bào DTTS chiếm trên 17,1%. Hiện nay, trên địa bàn huyện Nho Quan đang triển khai thực hiện 14 chương trình tín dụng chính sách và các chương trình do địa phương ủy thác, trong đó có chương trình cho vay phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS. Nhằm giúp hộ nghèo và các đối tượng chính sách tổ chức sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả, vươn lên thoát nghèo bền vững, Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo Phòng Giao dịch NHCSXH huyện Nho Quan cùng các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhận ủy thác phối hợp với các ngành chức năng tổ chức tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn có hiệu quả, triển khai lồng ghép giữa chương trình vốn vay NHCSXH với các chương trình và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng và mở rộng các mô hình cho hộ nghèo, hộ sản xuất, kinh doanh vay vốn theo dự án có sự hướng dẫn, tư vấn của tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị liên quan phối hợp với địa phương để tổ chức các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đồng thời giới thiệu và tạo việc làm cho nhiều đối tượng sau đào tạo nghề có việc làm và thu nhập ổn định.


Gia đình ông Bùi Văn Thuận cùng các cán bộ NHCSXH bên sản phẩm mật ong Cúc Phương
đạt chứng nhận OCOP 4 sao

Không chỉ riêng tại huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình mà tại huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, nhiều hộ DTTS cũng quyết chí vươn lên thoát nghèo từ đồng vốn vay NHCSXH. Điển hình là anh Lường Văn Dũng, dân tộc Tày, thôn Nà Kham, xã Đồng Thắng, huyện Chợ Đồn với bản tính cần cù, chất phác nhưng luôn ấp ủ giấc mơ khởi nghiệp tại quê hương. Anh Dũng kể, sau thời gian làm việc tại thành phố, anh quyết định quay trở lại quê nhà, được sự tuyên truyền, vận động của tổ chức hội, đoàn thể, Trưởng bản, Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn, anh đã mạnh dạn vay vốn tại NHCSXH để mở xưởng cơ khí. Anh Dũng đầu tư hơn 30 triệu đồng để mua máy móc và nguyên liệu sản xuất ban đầu. Vốn sẵn tính chăm chỉ, cần mẫn, anh Dũng vừa sản xuất cơ khí vừa nhận xây dựng, hoàn thiện công trình. Ban đầu, xưởng được đặt tại nhà riêng nhưng đơn hàng ngày càng nhiều, nhu cầu bảo quản hàng hóa ngày càng tăng, anh Dũng đã mạnh dạn chuyển đến địa điểm mới rộng rãi hơn, giao thông cũng thuận tiện hơn. Nhắc đến nguồn vốn vay từ NHCSXH, anh Dũng xúc động cho biết, số tiền được vay giúp anh duy trì hoạt động, vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất. Phần vốn vay không chỉ giúp anh Dũng thỏa mãn đam mê, theo đuổi nghề yêu thích mà còn là động lực để anh từ bỏ công việc lương cao nơi thành phố, trở về quê hương khởi nghiệp, góp phần tạo công ăn việc làm cho những nhân công là người đồng bào DTTS.

Từ miền núi đến đồng bằng, nguồn vốn từ NHCSXH đã giúp cuộc sống của nhiều đồng bào DTTS đổi thay. Ông Danh Sen, ấp 10, xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang tâm sự, ông vô cùng cảm ơn chính quyền các cấp và NHCSXH đã quan tâm đến các hộ gia đình chính sách, hộ đồng bào DTTS, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp gia đình ông có vốn làm ăn, từ đó có thu nhập ổn định, cải thiện đời sống. Với 50 triệu đồng được vay ban đầu, ông Danh Sen đã mua 2 con trâu và làm chuồng trại. Ông Danh Sen nhận thấy mô hình nuôi trâu rất phù hợp với gia đình và con trâu là loại động vật khỏe mạnh, ít bệnh, thức ăn chủ yếu là cỏ nên dễ tìm, ít tốn kém chi phí, thu lời nhiều hơn so với các vật nuôi khác. Nhờ chăm sóc cẩn thận, đến nay, gia đình ông Danh Sen chuẩn bị đón lứa nghé đầu tiên từ con trâu mẹ.

Bà Lê Thị Đức Hạnh, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH cho biết, NHCSXH đã kịp thời giải ngân, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; tiếp tục khẳng định vai trò tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Hơn 20 năm qua, đã có gần 47 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn từ NHCSXH với tổng doanh số cho vay đạt trên 1 triệu tỉ đồng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đầu tư tín dụng ưu đãi các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Tạo điều kiện bổ sung thêm nguồn lực cho NHCSXH

Sự hỗ trợ từ NHCSXH đã giúp đời sống của nhiều đồng bào DTTS đổi thay, tuy nhiên, để tạo nên một bức tranh đẹp hơn, tươi sáng hơn, đồng bào DTTS cần sự chung tay hỗ trợ từ các cấp chính quyền và sức mạnh chung của toàn xã hội. Đời sống của đồng bào DTTS hiện nay còn nhiều khó khăn, vẫn còn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền; tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào DTTS còn thấp, tỉ lệ đói nghèo ở một số vùng sâu, vùng xa còn cao… Cùng với đó, một số chuyên gia nhìn nhận, nguồn lực thực hiện tín dụng ưu đãi cho người nghèo, hộ đồng bào DTTS, các đối tượng xã hội khác còn hạn chế nên mức độ bao phủ chưa toàn diện, chưa tiếp sức cho các hộ muốn thoát nghèo phát triển sản xuất, tránh tái nghèo; chính sách tín dụng trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi còn trùng lắp về địa bàn, đối tượng...

Để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào DTTS”. Do đó, tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, diễn ra ngày 14/8/2024 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu, NHCSXH tập trung ưu tiên nguồn vốn hỗ trợ đồng bào DTTS, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; mở rộng quy mô tín dụng, nâng cao quy mô cho vay, tăng cường đối tượng cho vay, nhất là đối tượng là người nghèo, đồng bào DTTS, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, người yếu thế, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn... tạo điều kiện cho những người yếu thế phát huy sức mạnh nội sinh, tự tin, tự lực, tự cường, vượt lên khó khăn, thách thức, nghịch cảnh, thoát nghèo, tiến tới làm giàu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiến bộ; góp phần thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội rất nhân văn, bao trùm, tổng thể, toàn diện của Đảng, Nhà nước ta.

Tín dụng chính sách xã hội có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, nhất là trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay, đặc biệt đối với đồng bào DTTS và vùng đồng bào DTTS và miền núi. Do đó, TS. Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đề xuất: Chính phủ có kế hoạch tăng nguồn vốn cho vay qua NHCSXH, trước mắt bố trí đủ 19.700 tỉ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi; bố trí cấp bổ sung vốn điều lệ hằng năm cho NHCSXH; bố trí cấp bổ sung vốn thực hiện các chương trình do ngân sách nhà nước cấp nhằm đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của các đối tượng thụ hưởng theo mục tiêu đề ra của Chương trình. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước theo từng năm để đáp ứng nhu cầu giải ngân cho hộ đồng bào nghèo trong cả giai đoạn của chính sách; phân bổ nguồn vốn hỗ trợ và nguồn vốn cho vay đồng bộ để các địa phương chủ động thực hiện; tạo điều kiện cho NHCSXH được tiếp nhận nguồn vốn ODA để tạo lập nguồn vốn ổn định, lâu dài, lãi suất thấp nhằm tăng nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Hương Giang (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
Xem thêm
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc