Tín dụng chính sách: “Bậc thang” để người dân tộc thiểu số thoát nghèo

Hoạt động ngân hàng
Trong những năm gần đây, đường lên các bản làng xa xôi đã bớt khó khăn, người dân đi lại thuận tiện hơn khi Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư cho khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi.
aa

Trong những năm gần đây, đường lên các bản làng xa xôi đã bớt khó khăn, người dân đi lại thuận tiện hơn khi Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư cho khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi. Với việc thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi cùng các chương trình tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), đời sống của đồng bào DTTS được cải thiện và nâng cao, góp phần thu hẹp khoảng cách về mức sống cũng như thu nhập bình quân của đồng bào DTTS so với bình quân chung cả nước.

Phát huy nội lực và tinh thần vươn lên của đồng bào DTTS

Theo số liệu thống kê, cộng đồng 53 DTTS tại Việt Nam có hơn 14 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Đồng bào DTTS hiện diện trên tất cả 63 tỉnh, thành phố cả nước nhưng cư trú chủ yếu thuộc địa bàn của 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (548 huyện, 5.266 xã), chiếm 3/4 diện tích tự nhiên cả nước. Do đó, an sinh xã hội là một vấn đề lớn và là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo đối với khu vực này, đặc biệt là đối với đồng bào DTTS.

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, chính sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm, thúc đẩy an sinh xã hội cho đồng bào DTTS. “Trong hệ thống chính sách này, bên cạnh ngân sách cho
đầu tư, hỗ trợ trực tiếp thì tín dụng chính sách có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong cấu thành hệ thống chính sách, nhất là các nội dung về cải thiện điều kiện sống (nhà ở, đất ở, nước sinh hoạt), phát triển sản xuất (nông, lâm nghiệp) và thương mại, giải quyết việc làm, hỗ trợ giáo dục... Qua đó góp phần thúc đẩy hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc trên quan điểm phát huy nội lực và tinh thần vươn lên của đồng bào DTTS”, TS. Nguyễn Lâm Thành - Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khẳng định.




Anh Lường Văn Dũng (bên tay phải) trao đổi về hiệu quả vốn vay ưu đãi

với các cán bộ NHCSXH tại thôn Nà Kham, xã Đồng Thắng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn

Thực tế, tại Nho Quan - huyện miền núi duy nhất của tỉnh Ninh Bình có 7 xã vùng đồng bào DTTS, nơi tập trung sinh sống chủ yếu của người Mường, nhiều năm qua, nguồn vốn ưu đãi từ NHCSXH đã giúp không ít hộ vay vốn là đồng bào DTTS từng bước thay đổi tư duy, tập quán sản xuất, vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng trên chính quê hương của mình. Giữa sắc xanh trùng điệp của núi rừng Cúc Phương, chúng tôi gặp ông Bùi Văn Thuận - chủ hộ vay vốn từ NHCSXH với dáng người lam lũ. Đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu trong căn nhà nhỏ không mấy khang trang nhưng ông tự hào nói: “Nhờ có NHCSXH, tôi mới có ngày hôm nay. Trước đây gia đình tôi nghèo lắm, giờ kinh tế ổn định hơn, quan trọng nhất là nuôi được các con học đại học, trở thành niềm tự hào của gia đình”.

Kể về hành trình thoát nghèo của mình, ông Thuận cho biết, từ những đồng vốn ưu đãi ban đầu, ông đã mạnh dạn đầu tư nuôi ong tại nhà. Sau này được sự ủng hộ và hỗ trợ từ chính quyền địa phương, ông Thuận với vai trò là Giám đốc cùng các hộ nuôi ong liên kết thành lập Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ mật ong Cúc Phương nhằm xây dựng chuỗi sản xuất khép kín, phát triển hơn nữa nghề nuôi ong lấy mật. Không chỉ riêng ông Thuận mà nhiều thành viên của Hợp tác xã cũng vay vốn tại NHCSXH để phát triển nghề nuôi ong. Trung bình Hợp tác xã thu hoạch gần 50.000 lít mật ong mỗi năm, ước tính doanh thu đạt trên 10 tỉ đồng, sản phẩm đã đạt chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao. Nhờ đó, nhiều hộ vay vốn NHCSXH của Hợp tác xã đã có của ăn của để, trả được hết nợ cho ngân hàng, thoát nghèo bền vững.

Ông Mầu Quang Ngọc, Giám đốc Phòng giao dịch NHCSXH huyện Nho Quan cho biết, số hộ dân trên địa bàn toàn huyện đến cuối năm 2023 là 46.854 hộ, trong đó, hộ đồng bào DTTS chiếm trên 17,1%. Hiện nay, trên địa bàn huyện Nho Quan đang triển khai thực hiện 14 chương trình tín dụng chính sách và các chương trình do địa phương ủy thác, trong đó có chương trình cho vay phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS. Nhằm giúp hộ nghèo và các đối tượng chính sách tổ chức sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả, vươn lên thoát nghèo bền vững, Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo Phòng Giao dịch NHCSXH huyện Nho Quan cùng các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhận ủy thác phối hợp với các ngành chức năng tổ chức tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn có hiệu quả, triển khai lồng ghép giữa chương trình vốn vay NHCSXH với các chương trình và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng và mở rộng các mô hình cho hộ nghèo, hộ sản xuất, kinh doanh vay vốn theo dự án có sự hướng dẫn, tư vấn của tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị liên quan phối hợp với địa phương để tổ chức các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đồng thời giới thiệu và tạo việc làm cho nhiều đối tượng sau đào tạo nghề có việc làm và thu nhập ổn định.


Gia đình ông Bùi Văn Thuận cùng các cán bộ NHCSXH bên sản phẩm mật ong Cúc Phương
đạt chứng nhận OCOP 4 sao

Không chỉ riêng tại huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình mà tại huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, nhiều hộ DTTS cũng quyết chí vươn lên thoát nghèo từ đồng vốn vay NHCSXH. Điển hình là anh Lường Văn Dũng, dân tộc Tày, thôn Nà Kham, xã Đồng Thắng, huyện Chợ Đồn với bản tính cần cù, chất phác nhưng luôn ấp ủ giấc mơ khởi nghiệp tại quê hương. Anh Dũng kể, sau thời gian làm việc tại thành phố, anh quyết định quay trở lại quê nhà, được sự tuyên truyền, vận động của tổ chức hội, đoàn thể, Trưởng bản, Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn, anh đã mạnh dạn vay vốn tại NHCSXH để mở xưởng cơ khí. Anh Dũng đầu tư hơn 30 triệu đồng để mua máy móc và nguyên liệu sản xuất ban đầu. Vốn sẵn tính chăm chỉ, cần mẫn, anh Dũng vừa sản xuất cơ khí vừa nhận xây dựng, hoàn thiện công trình. Ban đầu, xưởng được đặt tại nhà riêng nhưng đơn hàng ngày càng nhiều, nhu cầu bảo quản hàng hóa ngày càng tăng, anh Dũng đã mạnh dạn chuyển đến địa điểm mới rộng rãi hơn, giao thông cũng thuận tiện hơn. Nhắc đến nguồn vốn vay từ NHCSXH, anh Dũng xúc động cho biết, số tiền được vay giúp anh duy trì hoạt động, vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất. Phần vốn vay không chỉ giúp anh Dũng thỏa mãn đam mê, theo đuổi nghề yêu thích mà còn là động lực để anh từ bỏ công việc lương cao nơi thành phố, trở về quê hương khởi nghiệp, góp phần tạo công ăn việc làm cho những nhân công là người đồng bào DTTS.

Từ miền núi đến đồng bằng, nguồn vốn từ NHCSXH đã giúp cuộc sống của nhiều đồng bào DTTS đổi thay. Ông Danh Sen, ấp 10, xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang tâm sự, ông vô cùng cảm ơn chính quyền các cấp và NHCSXH đã quan tâm đến các hộ gia đình chính sách, hộ đồng bào DTTS, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp gia đình ông có vốn làm ăn, từ đó có thu nhập ổn định, cải thiện đời sống. Với 50 triệu đồng được vay ban đầu, ông Danh Sen đã mua 2 con trâu và làm chuồng trại. Ông Danh Sen nhận thấy mô hình nuôi trâu rất phù hợp với gia đình và con trâu là loại động vật khỏe mạnh, ít bệnh, thức ăn chủ yếu là cỏ nên dễ tìm, ít tốn kém chi phí, thu lời nhiều hơn so với các vật nuôi khác. Nhờ chăm sóc cẩn thận, đến nay, gia đình ông Danh Sen chuẩn bị đón lứa nghé đầu tiên từ con trâu mẹ.

Bà Lê Thị Đức Hạnh, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH cho biết, NHCSXH đã kịp thời giải ngân, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; tiếp tục khẳng định vai trò tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Hơn 20 năm qua, đã có gần 47 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn từ NHCSXH với tổng doanh số cho vay đạt trên 1 triệu tỉ đồng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đầu tư tín dụng ưu đãi các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Tạo điều kiện bổ sung thêm nguồn lực cho NHCSXH

Sự hỗ trợ từ NHCSXH đã giúp đời sống của nhiều đồng bào DTTS đổi thay, tuy nhiên, để tạo nên một bức tranh đẹp hơn, tươi sáng hơn, đồng bào DTTS cần sự chung tay hỗ trợ từ các cấp chính quyền và sức mạnh chung của toàn xã hội. Đời sống của đồng bào DTTS hiện nay còn nhiều khó khăn, vẫn còn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền; tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào DTTS còn thấp, tỉ lệ đói nghèo ở một số vùng sâu, vùng xa còn cao… Cùng với đó, một số chuyên gia nhìn nhận, nguồn lực thực hiện tín dụng ưu đãi cho người nghèo, hộ đồng bào DTTS, các đối tượng xã hội khác còn hạn chế nên mức độ bao phủ chưa toàn diện, chưa tiếp sức cho các hộ muốn thoát nghèo phát triển sản xuất, tránh tái nghèo; chính sách tín dụng trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi còn trùng lắp về địa bàn, đối tượng...

Để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào DTTS”. Do đó, tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, diễn ra ngày 14/8/2024 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu, NHCSXH tập trung ưu tiên nguồn vốn hỗ trợ đồng bào DTTS, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; mở rộng quy mô tín dụng, nâng cao quy mô cho vay, tăng cường đối tượng cho vay, nhất là đối tượng là người nghèo, đồng bào DTTS, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, người yếu thế, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn... tạo điều kiện cho những người yếu thế phát huy sức mạnh nội sinh, tự tin, tự lực, tự cường, vượt lên khó khăn, thách thức, nghịch cảnh, thoát nghèo, tiến tới làm giàu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiến bộ; góp phần thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội rất nhân văn, bao trùm, tổng thể, toàn diện của Đảng, Nhà nước ta.

Tín dụng chính sách xã hội có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, nhất là trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay, đặc biệt đối với đồng bào DTTS và vùng đồng bào DTTS và miền núi. Do đó, TS. Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đề xuất: Chính phủ có kế hoạch tăng nguồn vốn cho vay qua NHCSXH, trước mắt bố trí đủ 19.700 tỉ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi; bố trí cấp bổ sung vốn điều lệ hằng năm cho NHCSXH; bố trí cấp bổ sung vốn thực hiện các chương trình do ngân sách nhà nước cấp nhằm đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của các đối tượng thụ hưởng theo mục tiêu đề ra của Chương trình. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước theo từng năm để đáp ứng nhu cầu giải ngân cho hộ đồng bào nghèo trong cả giai đoạn của chính sách; phân bổ nguồn vốn hỗ trợ và nguồn vốn cho vay đồng bộ để các địa phương chủ động thực hiện; tạo điều kiện cho NHCSXH được tiếp nhận nguồn vốn ODA để tạo lập nguồn vốn ổn định, lâu dài, lãi suất thấp nhằm tăng nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Hương Giang (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của chính sách tín dụng xanh đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của chính sách tín dụng xanh đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực tiễn triển khai tín dụng xanh tại Việt Nam cho thấy hiệu ứng tích cực về mặt xã hội và kinh tế, đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp bền vững, năng lượng tái tạo và sản xuất sạch hơn.
Tác động của chương trình tín dụng vi mô đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tỉnh Bắc Ninh

Tác động của chương trình tín dụng vi mô đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tỉnh Bắc Ninh

Chương trình tín dụng vi mô là một bộ phận quan trọng của thị trường tín dụng chính thức ở khu vực nông thôn Việt Nam nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Việc tham gia các chương trình này mang lại cho phụ nữ nhiều cơ hội việc làm, tăng sự tự tin, nâng cao kỹ năng giao tiếp, khả năng quản lý tài chính cá nhân, tiếp cận tri thức và mở rộng cơ hội lựa chọn trong đời sống. Nhờ đó, họ có điều kiện khẳng định vai trò và quyền ra quyết định của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Phát triển bền vững hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân dưới góc nhìn ESG

Phát triển bền vững hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân dưới góc nhìn ESG

Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam - dù được hình thành từ rất sớm và đóng vai trò đặc thù là tổ chức tài chính cộng đồng cấp cơ sở - vẫn gần như đứng ngoài dòng vận động ESG quốc tế.
Khơi thông dòng vốn cho vay nhà ở xã hội

Khơi thông dòng vốn cho vay nhà ở xã hội

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân cho vay nhà ở xã hội đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng. Tuy nhiên so với quy mô chương trình, doanh số giải ngân vẫn chưa được như kỳ vọng.
Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 dẫn dắt dòng vốn phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 dẫn dắt dòng vốn phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15, hoạt động trên địa bàn hai tỉnh An Giang và Cà Mau, đóng vai trò trụ cột trong việc dẫn vốn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế địa phương. Qua đó, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2025 đạt mức từ 8,5% trở lên.
Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam đang đối mặt với nhiều biến động khó lường, cùng với quá trình chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, rủi ro liên quan đến thẻ tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Việc kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ, quản trị rủi ro chủ động và nâng cao nhận thức người tiêu dùng sẽ là nền tảng quan trọng giúp thị trường thẻ tín dụng Việt Nam phát triển an toàn, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện và củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Xem thêm
Sàn giao dịch vàng quốc gia: Lựa chọn chuẩn vàng và ý nghĩa đối với ổn định kinh tế vĩ mô

Sàn giao dịch vàng quốc gia: Lựa chọn chuẩn vàng và ý nghĩa đối với ổn định kinh tế vĩ mô

Trong hơn một thập kỷ qua, thị trường vàng Việt Nam luôn được xem là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với công tác điều hành kinh tế vĩ mô. Biến động giá mạnh, tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế, cơ cấu giao dịch phân tán, cùng với sự thiếu thống nhất về tiêu chuẩn vàng đã khiến thị trường vàng không chỉ chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh tài sản an toàn, mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và nghiên cứu xây dựng Sàn giao dịch vàng quốc gia là bước đi chiến lược nhằm chuẩn hóa thị trường, giảm thiểu rủi ro, đồng thời tạo động lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.
Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, vừa là cơ quan quản lý vừa là động lực thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia mà còn nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường tài sản mã hóa ở Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh xét theo cả quy mô giao dịch và mức độ phổ cập trong đời sống tài chính, yêu cầu hoàn thiện khung phòng, chống rửa tiền trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, bởi các chỉ dấu khách quan cho thấy Việt Nam vừa nằm trong nhóm quốc gia có giá trị giao dịch trên chuỗi rất lớn.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô