Tăng trưởng xanh hướng đến phát triển bền vững tại Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Là một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh chóng trong khu vực, cũng là một trong 47 quốc gia tuân thủ tuyên bố về tăng trưởng xanh của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 2009, Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong diễn đàn về tăng trưởng xanh toàn cầu.
aa

Tóm tắt: Là một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh chóng trong khu vực, cũng là một trong 47 quốc gia tuân thủ tuyên bố về tăng trưởng xanh của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 2009, Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong diễn đàn về tăng trưởng xanh toàn cầu. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế xanh, mới đây nhất phải kể đến Bộ chỉ tiêu thống kê tăng trưởng xanh, một công cụ quan trọng nhằm hướng đến chiến lược phát triển bền vững. Việt Nam cũng đã đạt được một số những thành tựu đáng kể về tăng trưởng xanh, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn cần phải giải quyết. Bài viết này tìm hiểu khái niệm về “tăng trưởng xanh”, Bộ chỉ tiêu đo lường tăng trưởng xanh, các thành tựu đã đạt được cũng như khó khăn phải đối mặt, từ đó đưa ra khuyến nghị đóng góp vào quá trình tăng trưởng xanh hướng đến kinh tế xanh và phát triển bền vững tại Việt Nam.

Từ khóa: Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, Bộ chỉ tiêu thống kê tăng trưởng xanh.

GREEN GROWTH TOWARDS SUSTAINABLE DEVELOPMENT IN VIETNAM

Abstract: Vietnam is not only one of the countries with rapid development in Southeast Asia, but also one of 47 countries that complied with Organisation for Economic Cooperation and Development (OECD) declaration on green growth in 2009. Therefore,Vietnam Nam plays an important role in the global green growth forum. The Party and State of Vietnam have recently issued many guidelines and policies to develop a green economy, most recently including the green growth statistical indicators which is a crucial tool for the sustainable development strategy. In the fact, Vietnam has achieved several significant achievements in green growth, but there are still many difficulties that need to be resolved. This article explores the definition of “green growth”, the set of indicators to measure green growth, the achievements, challenges, thereby providing recommendations to contribute to the green growth process towards a green economy and sustainable development in Vietnam.

Keywords: Green growth, sustainable development, set of green growth statistical indicators.

1. Khái niệm về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững

Theo Liên hợp quốc (2011), tăng trưởng xanh là chiến lược phát triển bền vững nhằm đạt được tăng trưởng kinh tế, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Tăng trưởng xanh nhấn mạnh việc sử dụng tài nguyên một cách có trách nhiệm và hiệu quả. Mục tiêu trọng tâm của tăng trưởng xanh là phải hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo tồn môi trường, tạo ra sự cân bằng có lợi cho cả nền kinh tế và toàn cầu. Thuật ngữ “tăng trưởng xanh” bắt đầu được sử dụng rộng rãi vào năm 2005 tại Hội nghị Bộ trưởng về Môi trường và Phát triển và được sử dụng trong các thỏa thuận của các quốc gia với Liên hợp quốc, nhằm cụ thể hóa chiến lược hành động của mình trong Chiến lược tăng trưởng xanh (UNESCAP). Ví dụ, khái niệm này đã được Hàn Quốc luật hóa tại Đạo luật về Tăng trưởng xanh Carbon thấp (Framework Act on Low Carbon Green Growth) ban hành vào tháng 4/2010.

Theo Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED), phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai... Phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ.

Có thể thấy, mục tiêu cuối cùng của tăng trưởng xanh nhằm nhấn mạnh tới việc phát triển kinh tế một cách bền vững thông qua việc giữ cân bằng, hài hòa với môi trường sinh thái, không gây áp lực, làm phá vỡ sự cân bằng của môi trường.

2. Hành động của Đảng và Nhà nước thực hiện tăng trưởng xanh hướng đến phát triển bền vững

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm, chú trọng đến phát triển kinh tế xanh, thông qua các văn bản cụ thể hóa định hướng về tăng trưởng xanh như Quyết định số 1393/QĐ-TTg 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, sau đó là Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.

Bên cạnh đó, để xây dựng cơ sở giám sát, đánh giá việc thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, ngày 01/11/2023, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 10/2023/TT-BKHĐT quy định Bộ chỉ tiêu thống kê tăng trưởng xanh bao gồm 72 chỉ tiêu, được xếp theo 4 nhóm mục tiêu cụ thể, bám sát Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.

Mục tiêu số 1 là “giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP”. Trong đó, các lĩnh vực phải thực hiện việc kiểm kê chỉ số bao gồm: Giao thông vận tải; năng lượng; xây dựng; nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất; chất thải; công nghiệp.

Mục tiêu số 2 là “xanh hóa các ngành kinh tế”. Trong mục tiêu số 2, các lĩnh vực phải thực hiện việc kiểm kê chỉ số bao gồm: Năng lượng; giao thông vận tải; nông nghiệp; công nghệ; vốn đầu tư, trái phiếu, tín dụng; thương mại - dịch vụ.

Mục tiêu số 3 là “xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững”. Ở mục tiêu số 3, bộ chỉ tiêu đề cập đến lĩnh vực môi trường, xã hội với các chỉ tiêu như: Tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lí bằng cách chôn lấp trực tiếp; tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lí; tỉ lệ nước thải đô thị được thu gom, xử lí đạt theo quy chuẩn kĩ thuật môi trường. Lĩnh vực đô thị với các chỉ tiêu: Tỉ lệ đô thị đạt được tiêu chuẩn đô thị tăng trưởng xanh theo hướng đô thị thông minh và bền vững so với tổng số các đô thị; diện tích cây xanh công cộng bình quân trên đầu người khu vực nội thành, nội thị.

Mục tiêu số 4 là “xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm và nâng cao năng lực chống chịu”. Mục tiêu số 4 bao hàm các chỉ tiêu: Tỉ lệ người tham gia bảo hiểm y tế; tỉ lệ dân số đô thị được cung cấp và sử dụng nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung; tỉ lệ dân số nông thôn sử dụng nước sạch đáp ứng được quy chuẩn; tỉ lệ dân số sử dụng nhà vệ sinh hợp vệ sinh; tỉ lệ dân số sống trong các nhà tạm.

Bộ chỉ tiêu này được ban hành cuối năm 2023, áp dụng đo lường và thống kê các chỉ tiêu từ cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) chủ trì và phối hợp với 12 bộ, ngành liên quan trực tiếp, cùng Ủy ban nhân dân các tỉnh thực hiện. Có thể khẳng định, việc ban hành Bộ chỉ tiêu thống kê về tăng trưởng xanh trên thể hiện rất rõ quyết tâm đạt được các mục tiêu cụ thể về tăng trưởng xanh để hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xanh và phát triển bền vững của Việt Nam.

3. Một số kết quả nổi bật về tăng trưởng xanh hướng đến phát triển bền vững tại Việt Nam


Thực hiện các chủ trương, định hướng tăng trưởng xanh hướng đến phát triển kinh tế xanh, Việt Nam đã và đang chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế và tiếp cận với xu hướng phát triển kinh tế xanh của thế giới.

3.1. Lĩnh vực nông nghiệp


Nông nghiệp hữu cơ là ưu tiên trong cách thức canh tác và sản xuất của nông nghiệp xanh. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2023, diện tích canh tác hữu cơ tại Việt Nam đã tăng hơn 4 lần lên xấp xỉ 495.000 ha so với năm 2016. Bộ cũng đã tổ chức triển khai và thu hút các nguồn lực thực hiện Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”. Bên cạnh đó, Việt Nam có 46/63 tỉnh, thành phố phát động và đang thực hiện phong trào sản xuất nông nghiệp hữu cơ, trong đó có 17.168 người nông dân tham gia sản xuất hữu cơ, 97 doanh nghiệp sản xuất hữu cơ và tham gia xuất khẩu với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm. Để phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ, phong trào nông dân tự sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh bằng cách sử dụng các phụ phẩm từ nông nghiệp cũng được đẩy mạnh ở một số địa phương, điển hình như tỉnh Nghệ An... Mỗi năm, tỉnh Nghệ An đặt mục tiêu trung bình đạt 90.000 tấn phân bón hữu cơ vi sinh để phục vụ cho việc canh tác hữu cơ, vừa giảm được chi phí khoảng ½ lần so với phân bón hóa học, vừa tăng năng suất, chất lượng cho đầu ra của các sản phẩm hữu cơ. Không chỉ dừng lại ở đó, rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về công nghệ sinh học tại các trường đại học và phòng thí nghiệm ở Việt Nam đã nghiên cứu, tổ chức nhiều hội thảo khoa học, các lớp tập huấn để triển khai mô hình “nuôi ruồi lính đen” giúp phân hủy rác hữu cơ đến người nông dân. Năm 2023, cả nước có 120 cơ sở nuôi ruồi lính đen, phân bố ở 7 vùng sinh thái, trong đó có 12 cơ sở với diện tích từ 200 - 2.000 m2 nhằm mục đích thương mại hoặc để xử lí chất thải chăn nuôi, làm thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, phân bón hữu cơ cho cây trồng. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam được tiêu thụ trong nước và còn xuất khẩu sang 180 nước trên thế giới gồm: Mỹ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan… Các quốc gia trên đều là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.

Thủy sản là ngành duy trì tốc độ tăng trưởng 3,7 - 4%/năm và đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế Việt Nam. Năm 2023, tổng sản lượng thủy sản đạt 9,32 triệu tấn, tăng 2,3% so với năm 2022. Sản lượng này 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 2.431,4 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kì năm trước. Tại Hội nghị Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản - vì một ngành thủy sản xanh và phát triển bền vững do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức đã nhấn mạnh mục tiêu chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế biển xanh, xây dựng một nghề cá có trách nhiệm, bền vững, tăng nuôi trồng và giảm khai khác, góp phần tạo động lực để xây dựng nền kinh tế xanh hướng tới phát triển bền vững, hội nghị cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Ngành lâm nghiệp của Việt Nam năm 2023 đã lần đầu tiên chuyển nhượng thành công lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn CO2 cho Quỹ Đối tác Carbon trong lâm nghiệp thông qua Ngân hàng Thế giới với đơn giá 5 USD/tấn CO2, tương đương 51,5 triệu USD. Diện tích rừng trồng mới của cả nước 6 tháng đầu năm 2024 tăng 3,55% so với cùng kì năm trước, sản lượng gỗ khai thác tăng 6,3%. Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong lâm nghiệp có những bước phát triển mạnh, nhiều đề tài nghiên cứu theo hướng tăng trưởng xanh đã được áp dụng vào thực tiễn, ví dụ có thể kể đến là công trình "Ứng dụng công nghệ GIS và ảnh viễn thám vào quản lí rừng và cảnh báo cháy rừng tại tỉnh Thái Nguyên" (GIS là hệ thống công cụ tập hợp các quy trình trên máy tính dùng để thu thập, quản lí, lưu trữ dữ liệu địa lí và thực hiện lập bản đồ, phân tích sự vật, hiện tượng xảy ra trên trái đất cũng như dự đoán tác động và hoạch định chiến lược).

3.2. Lĩnh vực công nghiệp

Trong những năm qua, xu hướng phát triển công nghiệp xanh tập trung vào mục tiêu chính bao gồm nghiên cứu, phát triển các nguồn năng lượng, máy móc, kĩ thuật mới, thân thiện với môi trường và hạn chế phát thải CO2, hóa chất độc hại từ các khu công nghiệp, khu chế xuất ra ngoài môi trường, triển khai việc ứng dụng các nguồn năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng sinh học vào sản xuất công nghiệp.

Theo báo cáo, Bộ Công Thương đã triển khai một cách đồng bộ các giải pháp quản lí về nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo để từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng có nguồn gốc hóa thạch.

Để đánh giá cụ thể hơn về cường độ sử dụng năng lượng, các chuyên gia thường đánh giá thông qua hệ số đàn hồi/GDP hay còn được hiểu là tỉ lệ tăng trưởng sản lượng điện trên GDP. Hệ số đàn hồi điện/GDP của Việt Nam đã giảm từ mức 2,0 trong giai đoạn 2001 - 2010 xuống mức 1,9 trong giai đoạn 2011 - 2015. Trong giai đoạn 2017 - 2019, tỉ lệ này là 1,25 - 1,3 sau đó tiếp tục giảm xuống 1,07 vào 2020; trong nửa đầu năm 2023, tỉ lệ này đã giảm xuống dưới 0,5. (Hình 1)

Hình 1: Hệ số đàn hồi tăng trưởng điện và tăng trưởng GDP tại Việt Nam

giai đoạn 2017 - 2023

Nguồn: David Dapice (2023)


Ngoài ra, hiện nay 91% khu công nghiệp tại Việt Nam đã có hệ thống xử lí nước thải tập trung, các ngành công nghiệp tái chế phát triển, đạt mức tăng 11,3% so với năm 2021, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 10 trên thế giới về tái chế kim loại, nhựa, giấy và thủy tinh, đặt nền móng cho phát triển kinh tế tuần hoàn. Những kết quả trên đã góp phần quan trọng cho việc giảm cường độ phát thải khí nhà kính của Việt Nam.

3.3. Lĩnh vực dịch vụ


Ngành dịch vụ đã dần trở thành ngành kinh tế lớn nhất của Việt Nam, chiếm 42,54% GDP năm 2023, tỉ trọng lao động trong ngành dịch vụ chiếm gần 40% tổng số lao động của cả nền kinh tế. Trong 6 tháng đầu năm 2024, ngành dịch vụ đã đóng góp 49,76% vào GDP. Dịch vụ xanh ngày càng được coi trọng trong xây dựng và khai thác các loại hình dịch vụ gắn với gìn giữ môi trường và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên. Các hoạt động dịch vụ được đẩy mạnh trong quá trình chuyển đổi xanh như: Mua sắm và tiêu dùng xanh, tài chính xanh, du lịch xanh. Để đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp đã nỗ lực đầu tư sản xuất cho ra đời những sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, xây dựng thương hiệu gắn với yêu cầu phát triển bền vững. Các chương trình được phát động liên quan đến sản phẩm xanh như: Chương trình Cấp nhãn sinh thái do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức, chương trình Nhãn tiết kiệm năng lượng của Bộ Công Thương. Nhãn sinh thái cho ngành du lịch cũng được triển khai, áp dụng để điều chỉnh hành vi sử dụng sản phẩm, dịch vụ của người dân trong lĩnh vực du lịch. Đặc biệt, rất nhiều người tiêu dùng quan tâm, hưởng ứng sử dụng sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, ví dụ như các sản phẩm organic, sản phẩm hữu cơ, sản phẩm dễ phân hủy. Một trong những thành tựu phải kể đến trong lĩnh vực tài chính xanh, tín dụng xanh đó là tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh tại Việt Nam đã có nhiều tín hiệu tích cực. Dư nợ tín dụng xanh đã tăng từ 71 nghìn tỉ đồng vào năm 2015 lên gần 8 lần, cụ thể là 564 nghìn tỉ đồng năm 2023, con số này chiếm 4,4% tổng dư nợ của toàn nền kinh tế.

4. Một số hạn chế, khó khăn

Bên cạnh những thành tựu nhất định đã đạt được, việc phát triển nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế, khó khăn.

Từ phía cơ quan quản lí nhà nước

Hoạt động quản lí, điều phối các chính sách về tăng trưởng xanh còn thiếu sự phối hợp, thống nhất giữa các bộ, ngành và các cấp chính quyền; các chính sách và kế hoạch chồng chéo, không nhất quán. Một vấn đề quan trọng nữa là nhận thức của các chủ thể về nội hàm của kinh tế xanh, tăng trưởng xanh còn khác nhau hoặc chưa được thống nhất, chưa xác định rõ đây là mục tiêu hay phương thức để phát triển, được cụ thể hóa trong các đạo luật, chính sách. Điều này cản trở việc thực hiện và giám sát hiệu quả các hành động và mục tiêu tăng trưởng xanh. Bên cạnh đó, các văn bản quy định pháp luật cụ thể hay hành lang pháp lí về thực hiện phát triển nền kinh tế xanh ở nước ta hiện nay chưa có, chủ yếu là lồng ghép trong các quyết định mà chưa hình thành được một hành lang pháp lí thống nhất, xuyên suốt, dẫn đến khó khăn trong quá trình quản lí của các cơ quan, đơn vị và chủ thể thực hiện.

Từ phía các ngành kinh tế và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh

Do điều kiện về nguồn lực còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam vẫn sử dụng công nghệ sản xuất cũ, tiêu hao nhiều năng lượng, lượng phát thải lớn, hiệu quả kinh tế thấp và gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, mức độ tăng trưởng trong từng ngành kinh tế chưa thực sự rõ nét do công tác quản lí Nhà nước về kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trong khi đó, nền kinh tế đã và đang phải đối phó với những khó khăn từ biến đổi khí hậu, vừa phải hướng tới phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn với mục tiêu bảo vệ môi trường trong điều kiện hạn chế nguồn lực.

Từ phía nhận thức của cộng đồng


Mức độ nhận thức, sự tham gia của cộng đồng về các vấn đề bền vững và tăng trưởng xanh còn chưa cao, làm hạn chế việc thay đổi hành vi cộng đồng, đổi mới xã hội để có thể hỗ trợ tăng trưởng xanh và phát triển carbon thấp. Ngoài ra, một số người tiêu dùng Việt Nam vẫn giữ thói quen tiêu dùng truyền thống, chưa quan tâm đến bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các sản phẩm thân thiện với môi trường thường có giá thành cao hơn, do đó hạn chế sự lựa chọn của người tiêu dùng.

5. Đề xuất, khuyến nghị nâng cao hiệu quả tăng trưởng xanh hướng đến phát triển bền vững

Xuất phát từ những khó khăn và hạn chế nêu trên, tác giả đề xuất một số khuyến nghị như sau:

Đối với cơ quan quản lí nhà nước


Nhà nước cần tăng cường sự phối hợp liên cơ quan để đảm bảo tính thống nhất, đồng thuận và huy động sức mạnh tổng hợp trong các chính sách tăng trưởng xanh, từ đó góp phần giảm sự thiếu nhất quán, thúc đẩy sự nỗ lực hợp tác hành động cả ở cấp trung ương và địa phương. Ngoài ra, Nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thực hiện tăng trưởng xanh, hướng tới nền kinh tế xanh và phát triển bền vững. Đây được xem là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa bao trùm, định hướng hành vi của các chủ thể hướng tới mục tiêu phát triển xanh hóa nền kinh tế, giải quyết các vấn đề về kinh tế, môi trường và xã hội. Mặc dù hiện nay, hệ thống pháp luật ở nước ta đã quy định và khuyến khích các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, tiêu dùng, sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên thiên nhiên, tuy nhiên, các quy định này còn thiếu cụ thể, cần được xây dựng thành hệ thống, tạo hành lang pháp lí công bằng, hiệu quả, tăng cường các cơ chế quản lí và hệ thống giám sát để đảm bảo khuyến khích, hỗ trợ các chủ thể phát triển, hướng tới tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường. Đồng thời, cần áp dụng biện pháp xử lí nghiêm khắc đối với các chủ thể tác động tiêu cực đến môi trường khi tiến hành sản xuất, kinh doanh, buộc các đơn vị không tuân thủ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hệ thống cơ sở pháp lí này còn phải bao gồm hệ thống danh mục phân loại xanh (green taxonomy) hoàn chỉnh, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.

Thêm vào đó, Nhà nước cần định hướng phát triển kinh tế xanh đối với những ngành trọng điểm và nguồn nhân lực đảm bảo thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra. Đồng thời, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế xanh dựa trên cơ sở cách tiếp cận theo ngành, hướng tới mục tiêu bền vững như: Đầu tư phát triển khoa học, công nghệ mang lại sản phẩm thân thiện với môi trường, có hiệu quả kinh tế cao; hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, thúc đẩy phát triển các ngành năng lượng sinh học, năng lượng tái tạo; đầu tư chuyển giao, áp dụng công nghệ sạch và các công nghệ sử dụng tiết kiệm năng lượng.

Đối với các ngành kinh tế và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh


Cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ xanh, cung cấp các chương trình đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho người lao động để thu hẹp khoảng cách về công nghệ, thúc đẩy đổi mới và phát triển bền vững. Thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào các dự án xanh, đồng thời tăng cường đầu tư công vào các dự án cơ sở hạ tầng xanh, nhà máy năng lượng gió, năng lượng mặt trời, hệ thống quản lí chất thải và sáng kiến phủ xanh đô thị. Tích cực tìm kiếm sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế cho các sáng kiến tăng trưởng xanh, chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức và trao đổi các kinh nghiệm từ các quốc gia đi đầu về tăng trưởng xanh. Bên cạnh đó, cần có cơ chế khuyến khích các nhà khoa học, nhóm nghiên cứu tại các trường đại học đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ công nghệ theo hướng ứng dụng các công nghệ mới, thông minh, nghiên cứu quy trình tái chế hoặc xử lí rác.

Ngoài ra, các doanh nghiệp nên tiếp tục tăng cường hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế vì mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Bởi vì nền kinh tế xanh có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường và sự phát triển bền vững. Việc tham gia các thỏa thuận môi trường quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh đáp ứng với thách thức môi trường toàn toàn cầu. Hợp tác quốc tế là cơ hội thuận lợi để tham khảo kinh nghiệm của các nước đã thành công trong mô hình phát triển nền kinh tế xanh và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, tạo thêm nhiều cơ hội để vận động các nguồn hỗ trợ của quốc tế cho mục tiêu tăng trưởng xanh hướng tới phát triển bền vững.

Đối với cộng đồng

Tăng cường, nâng cao nhận thức của cộng đồng về các vấn đề môi trường và thực hành bền vững thông qua các chiến dịch giáo dục về năng lượng sạch, phân loại rác, giảm thiểu chất thải và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng thông qua các dự án như thích ứng dựa vào cộng đồng với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức để nâng cao nhận thức của các chủ thể về phát triển nền kinh tế xanh, đặc biệt là chủ doanh nghiệp và người tiêu dùng. Qua các phương tiện thông tin truyền thông, các kiến thức về phát triển kinh tế xanh nên được thường xuyên cập nhật phổ biến, đặc biệt trong hệ thống giáo dục từ cấp học phổ thông đến cao đẳng, đại học. Những kiến thức hiểu biết về nền kinh tế xanh sẽ tác động và dần thay đổi thói quen, hành vi sản xuất, tiêu dùng của các chủ thể.

Tài liệu tham khảo:

1. Thông tư số 10/2023/TT-BKHĐT ngày 01/11/2023 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định Bộ chỉ tiêu thống kê tăng trưởng xanh.

2. Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam (2018), Kinh tế xanh cho phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. Viện Chiến lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2023), Ngân hàng với tăng trưởng xanh, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, trang 25.

4. Sáng kiến phát triển mở Việt Nam (2024): Tăng trưởng xanh ở Việt Nam, https://vietnam.opendevelopmentmekong.net/vi/topics/green-growth-in-vietnam

5. Nguyễn Hoàng Nam (2020), Mối quan hệ giữa tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.

6. Liên hợp quốc (2011), Hướng tới một nền kinh tế xanh: Con đường dẫn đến phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo.

7. Khúc Thế Anh (2024), Cơ sở hạ tầng phục vụ cho tài chính xanh, tín dụng xanh trong các ngân hàng tại Việt Nam; https://tapchinganhang.gov.vn/co-so-ha-tang-phuc-vu-cho-tai-chinh-xanh-tin-dung-xanh-trong-cac-ngan-hang-tai-viet-nam.htm

8. Trịnh Thị Tuyết Mai (2022), Một số vấn đề về phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam.

9. Báo cáo tổng kết ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2023.

10. Nguyễn Xuân Thành (2023), Chuyển đổi xanh và thách thức tăng trưởng kinh tế trung hạn, https://diendankinhte.quochoi.vn/tham-luan2/chuyen-doi-xanh-va-thach-thuc-tang-truong-kinh-te-trung-han.html


ThS. Lương Hoàng Phương Thảo

Trường Đại học Phenikaa

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Trong kỷ nguyên số, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp thiết và mang tính chiến lược hơn, đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận hệ thống, gắn kết giữa “xây” và “chống”, giữa “thế trận lòng dân” và “thế trận số”.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xem thêm
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô