Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
aa

Kỳ 5: Từ Nghị quyết đến hành động - Biến khát vọng thành hiện thực phát triển nguồn nhân lực số trong kỷ nguyên vươn mình

Việt Nam đã từng tạo nên kỳ tích Đổi Mới, giúp đất nước thoát nghèo và vươn lên trở thành một nền kinh tế có thu nhập trung bình. Giờ đây, trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên số, đất nước lại đứng trước cơ hội làm nên một kỳ tích mới và nguồn nhân lực chất lượng cao chính là “chìa khóa vàng” mở ra cánh cửa tương lai. Trên hết, mỗi người Việt Nam - dù là lãnh đạo, công nhân, nông dân hay sinh viên - đều phải tự coi mình là hạt nhân của sự thay đổi. Chỉ khi chúng ta không ngừng học hỏi, không ngừng sáng tạo và không ngừng cống hiến, dân tộc mới có đủ nội lực để bứt phá. Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể cả sông sâu - con người có tri thức mới có thể dựng xây nên kỳ tích. Khát vọng vươn mình của dân tộc đang chờ đợi những bàn tay, khối óc và trái tim của mỗi chúng ta.

Để các giải pháp nêu trên phát huy hiệu lực, chúng ta cần một nền tảng thể chế vững chắc, bám chặt khung thể chế: Nghị quyết số 57-NQ/TW mở đường cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết số 66-NQ/TW nhấn mạnh yêu cầu thể chế phải đi trước một bước; Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định kinh tế tư nhân là động lực trung tâm; Nghị quyết số 59-NQ/TW xác định hội nhập quốc tế là thế trận tổng lực. Bốn nghị quyết tứ trụ này tạo thành “xương sống” để Đảng chỉ huy, Nhà nước thực thi, xã hội đồng lòng - cùng nhau biến khát vọng thành hiện thực, biến giải pháp thành hiệu quả.

Quy hoạch nhân lực: Mở lối cho tương lai

Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ mang tính quyết định: Tiến lên thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, hay kẹt trong bẫy thu nhập trung bình? Thành bại của chặng đường này phụ thuộc vào việc chúng ta có xây dựng được đội ngũ nhân lực chất lượng cao, sáng tạo, bản lĩnh và đủ năng lực hội nhập hay không. Chính vì vậy, cần sớm triển khai quy hoạch nguồn nhân lực toàn diện, làm nền tảng mở đường cho tương lai. Quy hoạch phải gắn kết chặt chẽ với các cụm ngành và vùng động lực: AI và bán dẫn tại Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Đà Nẵng; dữ liệu lớn và logistics ở Hải Phòng - Cần Thơ; năng lượng sạch - vật liệu mới tại các tỉnh Nam Trung Bộ. Đồng thời, cần sớm vận hành “bảng điều khiển nhân lực quốc gia” công khai kết nối dữ liệu cung - cầu kỹ năng theo thời gian thực, dự báo nhu cầu nhân lực trong 5, 10, 15 năm tới và liên thông thông tin từ tuyển sinh đến việc làm. Đây sẽ là công cụ để người đứng đầu các cấp thực hiện trách nhiệm giải trình, đúng tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW về tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật và quản trị dựa trên dữ liệu.

Một là, xây dựng quy hoạch nhân lực quốc gia gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến bộ công nghệ. Quy hoạch không chỉ dự báo số lượng lao động cho từng ngành, từng vùng, mà còn phải dự đoán cấu trúc kỹ năng cần thiết trong nhiều năm tới.

Nhu cầu nhân lực trong các lĩnh vực AI, khoa học dữ liệu và an ninh mạng được dự báo sẽ bùng nổ và tăng vọt trong thời gian tới. Do đó, quy hoạch nhân lực cần gắn liền với phát triển các ngành AI, dữ liệu lớn, bán dẫn và công nghệ sạch. Đồng thời, cần ưu tiên đào tạo lực lượng lao động cho kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn - hướng đi tất yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khủng hoảng năng lượng toàn cầu.

Bên cạnh đó, quy hoạch nhân lực phải được kết hợp hài hòa với quy hoạch không gian và hạ tầng, nhằm hình thành các trung tâm nhân lực số tại các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời thu hẹp khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi.

Hai là, mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút chuyên gia cùng chuyển giao công nghệ đào tạo tiên tiến. Theo tinh thần Nghị quyết số 59-NQ/TW, cần xây dựng mạng lưới chuyên gia Việt Nam toàn cầu tham gia tư vấn, thiết kế chương trình đào tạo; triển khai các chương trình bằng kép, liên kết với các đại học hàng đầu thế giới (top 200); tổ chức các kỳ thực tập quốc tế tại các tập đoàn công nghệ hàng đầu; ban hành chính sách “trải thảm đỏ” đón giáo sư, chuyên gia nước ngoài giảng dạy theo hình thức hợp đồng linh hoạt; thực hiện kiểm định quốc tế cho các ngành đào tạo số; và thành lập các Trung tâm Xuất sắc (Center of Excellence) đồng tài trợ với đối tác nước ngoài.

Chúng ta nên tận dụng hiệu quả các chương trình quốc tế như Fulbright Việt Nam, Erasmus+ (EU), JICA (Nhật Bản), KOICA (Hàn Quốc)… để trao đổi giảng viên, cán bộ và xây dựng chương trình đào tạo chung. Đồng thời, cần mạnh dạn thuê các tổ chức kiểm định quốc tế và chuyên gia tư vấn để giám sát quá trình đổi mới giáo dục, đảm bảo chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn toàn cầu, rút ngắn đường cong học hỏi.

Việt Nam cần coi việc hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế phát triển về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là một mũi đột phá. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ Israel, Singapore, Hàn Quốc - những quốc gia đầu tư mạnh mẽ cho R&D và xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa trường đại học, doanh nghiệp và quỹ đầu tư mạo hiểm. Việc cử cán bộ, sinh viên đi học nước ngoài cần gắn với cam kết trở về phục vụ Tổ quốc; đồng thời, chủ động mời các chuyên gia quốc tế đến Việt Nam xây dựng phòng thí nghiệm, chuyển giao kỹ thuật và kiến tạo các trung tâm xuất sắc ngay tại Việt Nam.

Ba là, cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo nghề, đại học và sau đại học theo hướng mở, linh hoạt, chất lượng cao. Cải cách cần tập trung vào ba trọng tâm chính: (i) Nâng cao chất lượng đào tạo thông qua đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy và áp dụng công cụ đánh giá hiện đại; (ii) Đa dạng hóa hình thức đào tạo - từ chính quy, vừa học vừa làm, trực tuyến đến các mô hình học tập cá nhân hóa; (iii) Tăng cường tự chủ đại học gắn với trách nhiệm giải trình. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng chuẩn đầu ra cho từng ngành nghề, khuyến khích các cơ sở đào tạo thiết kế chương trình theo chuẩn quốc tế, giảm bớt bài giảng nặng về lý thuyết và tăng cường thực hành cùng kỹ năng mềm. Đối với giáo dục nghề nghiệp, cần liên tục cập nhật kịp thời những tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp, khuyến khích đào tạo nghề ngắn hạn và tích lũy tín chỉ linh hoạt để người lao động có thể học tập, nâng cao trình độ và chuyển đổi nghề nghiệp trong suốt cuộc đời.

Cải cách giáo dục không chỉ hướng đến kỹ năng số mà còn phải nuôi dưỡng tư duy phản biện, tính sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp. Chúng ta đã có những mô hình thành công đáng khích lệ. Tiêu biểu như Đại học FPT áp dụng chương trình đào tạo tại doanh nghiệp (On-the-Job Training) cho sinh viên năm thứ ba, giúp rèn luyện kỹ năng mềm và khuyến khích tham gia dự án thực tế; Học viện Viettel triển khai văn hóa học tập suốt đời: Mỗi cán bộ, nhân viên phải hoàn thành tối thiểu 42 giờ học/năm, mỗi lãnh đạo giảng dạy tối thiểu 24 giờ/năm; việc triển khai quy định này được các chi bộ, đảng bộ cơ sở giám sát chặt chẽ, đưa vào tiêu chí thi đua và xét kết nạp đảng viên. Nhà nước cần nhân rộng các mô hình này, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục linh hoạt thiết kế chương trình đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo chuẩn mực chính trị và đạo đức.

Giáo dục phổ thông, nhất là bậc trung học phổ thông (THPT) chỉ thành công khi đội ngũ giáo viên là lực lượng chủ chốt thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Cần triển khai chương trình bồi dưỡng bắt buộc về kỹ năng số và kiến thức AI-STEAM cho giáo viên; thu hút chuyên gia doanh nghiệp giảng dạy bán thời gian; thành lập Quỹ đổi mới sư phạm nhằm tài trợ cho các dự án dạy học số; trao quyền tự chủ học thuật cho trường học gắn với trách nhiệm giải trình thông qua chỉ số đầu ra; đồng thời, có chính sách đãi ngộ xứng đáng để thu hút, giữ chân giáo viên giỏi tham gia giảng dạy kỹ năng số. Giáo dục phổ thông phải trở thành “đường băng” để đội ngũ nhân tài số cất cánh và bay cao.

Giáo viên hướng dẫn học sinh tham gia học tập công nghệ tại lớp học STEAM - Nguồn ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại
Giáo viên hướng dẫn học sinh tham gia học tập công nghệ tại lớp học STEAM (Nguồn ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

Theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, chương trình THPT cần bổ sung chuẩn kỹ năng số tối thiểu cho học sinh tốt nghiệp lớp 12; triển khai hồ sơ học tập điện tử (e-portfolio) và đưa đánh giá năng lực số trở thành một thành tố trong xét tốt nghiệp.

Nội dung cốt lõi cần bao gồm tư duy tính toán và lập trình nhập môn, phân tích dữ liệu cơ bản, giáo dục STEAM qua dự án cộng đồng; đạo đức số, đạo đức AI, liêm chính dữ liệu và quyền riêng tư; kỹ năng an ninh mạng cơ bản; kỹ năng truyền thông thông tin (Media and Information Literacy) để nhận diện tin giả; kỹ năng tài chính số và khởi nghiệp thông qua các mô phỏng kinh doanh nhỏ, thương mại điện tử; định hướng nghề nghiệp sớm qua học phần “Đường học - Đường nghề” và trải nghiệm thực tập tại doanh nghiệp hoặc địa phương. Nhà trường cần được trao quyền tự chủ học thuật dưới sự kiểm định độc lập, đồng thời linh hoạt mời chuyên gia, doanh nghiệp giảng dạy các chuyên đề - đúng tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW về tự chủ đại học gắn trách nhiệm giải trình.

Trọng tâm kế tiếp là xây dựng và ban hành Bộ Chuẩn kỹ năng số quốc gia, phân theo trình độ và nhóm ngành nghề, áp dụng cho giáo dục phổ thông, đại học, đào tạo nghề và đào tạo lại tại doanh nghiệp. Đồng thời, thành lập tổ chức kiểm định độc lập để đánh giá chương trình, giảng viên và kết quả đầu ra về kỹ năng số; và thiết lập các bộ chỉ số KPI cho giai đoạn đến năm 2025 và 2030 như: Tỉ lệ học sinh đạt chuẩn kỹ năng số, tỉ lệ sinh viên ngành số có việc làm đúng chuyên môn sau 6 - 12 tháng, số giờ đào tạo bổ sung (reskill/upskill) bình quân mỗi năm, tỉ lệ môn học được số hóa… với phương châm “Đo được - So được - Chịu trách nhiệm được”.

Nghị quyết số 71-NQ/TW đã nhấn mạnh yêu cầu nâng cao chuẩn chất lượng giáo dục và đề cao trách nhiệm giải trình, trong khi Nghị quyết số 66-NQ/TW bảo đảm khung pháp lý để đo lường và giám sát các mục tiêu này.

Hệ thống chính trị: Lực lượng tiên phong đổi mới

Trong khu vực công, Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là lực lượng trụ cột vận hành bộ máy và hoạch định chính sách. Tầm nhìn đến năm 2045, Chính phủ phải chuyển vai trò: “Người quản lý” phải trở thành “nhà kiến tạo phát triển”. Để thực hiện điều đó, Chính phủ cần đồng thời đảm nhiệm ba vai trò then chốt: (i) Nhà đầu tư chiến lược - tập trung nguồn lực cho hạ tầng dữ liệu, các trung tâm AI và công viên phần mềm; (ii) Người kết nối - tạo cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp, viện nghiên cứu và đại học phối hợp chặt chẽ; (iii) Người bảo trợ - ban hành chính sách đãi ngộ đủ mạnh để thu hút chuyên gia toàn cầu. Minh chứng cho tư duy quốc tế hóa này là chương trình “Hợp tác đào tạo 1.000 kỹ sư AI” giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc, thể hiện tầm nhìn chiến lược trong đào tạo nhân lực. Về lâu dài, Chính phủ Việt Nam phải coi nhân lực số là một “hạ tầng mềm” quan trọng không kém công trình hạ tầng vật chất, để khát vọng hùng cường 2045 có nền móng vững chắc.

Về dài hạn, Quốc hội chính là “kiến trúc sư thể chế” định hình khung pháp lý ổn định và quyết định sự bền vững cho nguồn nhân lực số. Nếu Chính phủ và doanh nghiệp trực tiếp tổ chức, đào tạo và sử dụng nhân lực, thì Quốc hội giữ vai trò đặt nền móng pháp luật, bảo đảm mọi nỗ lực không bị rời rạc hay manh mún. Theo kinh nghiệm quốc tế, nhiều nghị viện tiên tiến như Nhật Bản, Ấn Độ… đã thành lập ủy ban chuyển đổi số đặc biệt để giám sát và thúc đẩy chính sách nhân lực. Việt Nam hoàn toàn có thể đi theo hướng này, coi nhân lực số như “mạch nguồn” nuôi dưỡng khát vọng 2045. Một khung pháp lý ổn định, dài hạn, bao trùm các lĩnh vực giáo dục - lao động - công nghệ nếu được Quốc hội thông qua, sẽ là lời giải căn cơ để cơn “khát nhân lực số” biến thành “dòng chảy dồi dào”, giúp dân tộc vững bước trong kỷ nguyên mới.

Đích đến năm 2045 không chỉ là một mốc thời gian mà còn là “lời hẹn lịch sử” của dân tộc. Để biến khát vọng thành hiện thực, Quốc hội sẽ tiếp tục vai trò “kiến trúc sư thể chế”, Chính phủ trở thành “nhà kiến tạo phát triển”, và Bộ Chính trị giữ vai trò “ngọn hải đăng định hướng”. Giáo dục - đào tạo cần một cuộc đổi mới mạnh mẽ nhằm ươm tạo thế hệ nhân lực số xuất sắc kế cận. Và chắc chắn, khi cả ba trụ cột ấy đồng bộ, Việt Nam sẽ xây dựng được lực lượng lao động số chất lượng cao, đầy tinh hoa và bản lĩnh, đủ sức đưa dân tộc sánh vai cùng cường quốc năm châu.

Với trọng trách và sứ mệnh lớn lao đó, chúng ta cần triển khai những giải pháp đồng bộ để đưa đất nước vươn mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên số. Trước hết, đổi mới toàn diện công tác tuyển dụng và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức. Tuyển dụng cần đặt năng lực, phẩm chất và tiềm năng phát triển lên trên hết, thay vì chỉ dựa vào bằng cấp. Cần tổ chức thi tuyển cạnh tranh cho các vị trí việc làm, tránh “cơ cấu” hình thức và tình trạng “thừa người - thiếu việc”. Áp dụng các hình thức tuyển dụng trực tuyến, sát hạch thực tế và phỏng vấn tình huống để đánh giá đúng tư duy, khả năng thích ứng và đạo đức nghề nghiệp. Các cơ quan nhà nước có thể học hỏi mô hình đánh giá 360 độ như doanh nghiệp; đồng thời, lấy ý kiến phản hồi của người dân và doanh nghiệp về từng cán bộ để làm cơ sở sử dụng và bổ nhiệm.

Song song đó, phải đổi mới đào tạo và bồi dưỡng cán bộ gắn với vị trí công tác cụ thể. Sau khi tuyển dụng, cán bộ cần được phân loại theo trình độ và năng lực để xây dựng lộ trình bồi dưỡng phù hợp. Chương trình đào tạo phải liên tục cập nhật: Từ kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, kiến thức pháp luật, kỹ năng chuyển đổi số, ngoại ngữ đến kỹ năng lãnh đạo, giao tiếp và làm việc nhóm. Các học viện như Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia… cần tiếp tục đổi mới giáo trình, mời chuyên gia tại các doanh nghiệp tham gia giảng dạy; đào tạo kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, giữa trực tuyến và trực tiếp. Cán bộ được cử đi học phải cam kết ứng dụng kiến thức vào công việc, và kết quả đào tạo cần gắn với quy hoạch, đề bạt cán bộ. Việc đánh giá hiệu quả đào tạo nên do cả tổ chức Đảng, cấp ủy và chính quyền đồng thực hiện, nhằm tránh bệnh thành tích và hình thức.

Đồng thời, cần tạo điều kiện, tăng cường tự chủ và đầu tư cho các đơn vị đào tạo công lập. Tự chủ không chỉ là tự quyết ngân sách, tự chủ thu chi mà còn là chủ động thiết kế chương trình, mời giảng viên và mở rộng hợp tác quốc tế. Nhà nước cần bảo đảm kinh phí nâng cấp hạ tầng số cho các trường chính trị và các học viện đào tạo cán bộ; đồng thời khuyến khích xã hội hóa đào tạo thông qua hợp tác, hình thức đặt hàng đào tạo với trường đại học, học viện ngoài công lập. Sự hợp tác đào tạo giữa khu vực công và tư sẽ thúc đẩy chia sẻ tri thức và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực công. Tuy nhiên, tự chủ phải đi đôi với trách nhiệm giải trình, các đơn vị tự chủ cần báo cáo công khai chất lượng, chi phí và hiệu quả đào tạo của mình.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh thiết lập cơ chế luân chuyển, điều động và đánh giá thường xuyên nhằm ngăn chặn sự trì trệ trong bộ máy. Cần có chính sách luân chuyển cán bộ giữa các vị trí việc làm khác nhau, thậm chí giữa khu vực nhà nước và doanh nghiệp để trải nghiệm thực tế; ngược lại, có thể mời chuyên gia doanh nghiệp làm việc ngắn hạn tại cơ quan nhà nước. Sự luân chuyển hai chiều này tạo nên “thế hệ cán bộ đa năng” - vừa hiểu quản trị nhà nước, vừa thấu hiểu kinh doanh và công nghệ. Việc đánh giá cán bộ nên dựa vào kết quả thực hiện nhiệm vụ, mức độ hài lòng của người dân và tinh thần hợp tác và cống hiến đối với tổ chức.

Để cải cách đào tạo nhân lực số đi vào thực chất và chiều sâu, cần có “dòng chảy tài chính thông minh” làm động lực vận hành. Chính phủ nên thiết lập mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong đào tạo: đặt hàng doanh nghiệp đào tạo nhân lực theo chuẩn đầu ra và khuyến khích doanh nghiệp cung cấp học bổng kỹ năng số. Đồng thời triển khai cơ chế voucher học tập cho người lao động chuyển đổi nghề; xây dựng tài khoản học tập suốt đời (learning account) cho mỗi cá nhân, kèm gói tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên ngành số. Các chi phí đào tạo nội bộ đã kiểm định chất lượng có thể được hưởng ưu đãi thuế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ vào nhân lực. Cách tiếp cận này hài hòa, phù hợp tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW (kích hoạt nguồn lực kinh tế tư nhân) với Nghị quyết số 71-NQ/TW (bảo đảm nguồn lực cho giáo dục). Khi “dòng máu” tài chính được khơi thông, các cải cách đào tạo nhân lực số sẽ bền vững và tạo hiệu ứng cộng hưởng giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động, đội ngũ trí thức và cả cộng đồng kiều bào.

Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ: Nâng cao năng lực số và AI cho người học và đội ngũ nhà giáo là yêu cầu cấp bách, phải được tích hợp trực tiếp vào chương trình giáo dục ở tất cả các bậc học. Đây không chỉ là định hướng mang tính chiến lược, mà còn là bước đệm thúc đẩy sáng tạo, trải nghiệm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế, giáo dục và khoa học lớn của cả nước - việc ứng dụng AI trong học tập đã nhanh chóng trở nên phổ biến sau khi mở rộng địa giới hành chính. Những công cụ như ChatGPT, Gemini được học sinh, sinh viên sử dụng thường xuyên để tìm kiếm tài liệu, hỗ trợ viết bài, thuyết trình và rèn luyện tư duy khoa học. Hiệu quả đã được kiểm chứng qua câu chuyện của Huỳnh Tường Ân - thủ khoa đầu vào Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, với số điểm 29,75/30 khối A00 trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025 vừa qua. Tường Ân thừa nhận AI giúp hoàn thiện ý tưởng, chỉnh sửa ngữ pháp, nâng cao chất lượng bài làm, song cũng cảnh báo: “Khi quá dựa dẫm vào AI, con người có thể mất đi tư duy căn bản của mình”.

Không chỉ ở bậc đại học, AI đã bắt đầu hiện diện trong giảng dạy trung học phổ thông. Nguyễn Thái Hoàng Ngân, học sinh Trường THPT Bùi Thị Xuân cho biết, ChatGPT giúp nhóm học nhanh chóng thu thập thông tin, từ đó kết hợp với sách vở để sáng tạo sản phẩm học tập. Sinh viên Trương Văn Hùng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, cũng chia sẻ kinh nghiệm sử dụng chatbot AI để đào sâu thêm các vấn đề học thuật khi tự học ở nhà. Những trải nghiệm thực tế này cho thấy, nếu biết khai thác đúng cách, AI có thể trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

Trên bình diện quốc gia, Chính phủ đã chỉ đạo đưa AI vào chương trình giảng dạy từ bậc tiểu học, bắt đầu ngay từ lớp 1, với tinh thần “vừa học, vừa chơi”. Đây là bước đi mang tính đột phá, thể hiện quyết tâm trang bị cho thế hệ trẻ kỹ năng số nền tảng, khả năng sử dụng AI một cách thông minh và có trách nhiệm, giúp học sinh làm chủ công nghệ thay vì bị công nghệ chi phối. Nhìn tổng thể, Nghị quyết số 71-NQ/TW cùng với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ đã mở ra lộ trình rõ ràng: Đưa AI trở thành một thành tố thiết yếu trong giáo dục phổ thông và đại học, coi đó là chìa khóa xây dựng nguồn nhân lực sáng tạo, đủ sức cạnh tranh trong kỷ nguyên số.

Doanh nghiệp: Trường học của thời đại số

Khu vực doanh nghiệp - đặc biệt là các tập đoàn lớn và doanh nghiệp nhà nước - đóng vai trò chủ chốt trong phát triển nguồn nhân lực số. Doanh nghiệp không chỉ trực tiếp ứng dụng công nghệ mới và tạo ra giá trị kinh tế, mà còn là môi trường học tập hiệu quả nhất. Để mỗi doanh nghiệp trở thành một “trường học” và mỗi đảng viên là một “người thầy”, cần những giải pháp cụ thể.

Thứ nhất, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược đào tạo gắn liền với chiến lược kinh doanh. Đào tạo không phải là chi phí có thể cắt giảm khi khó khăn, mà là khoản đầu tư quan trọng và động lực tăng trưởng. Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu nhân lực theo từng giai đoạn, từ đó lập kế hoạch tuyển dụng, đào tạo và giữ chân nhân tài phù hợp. Nhiều tập đoàn công nghệ như FPT, Viettel, VNPT đã thành lập học viện nội bộ để đào tạo kỹ sư và chuyên gia; các ngân hàng như VietinBank, Vietcombank có trung tâm đào tạo bài bản; các doanh nghiệp công nghiệp như VinFast, THACO cũng xây dựng viện đào tạo kỹ sư và chuyên gia cho riêng mình. Đây là những mô hình tiêu biểu cho thấy mỗi doanh nghiệp đều có thể là một ngôi trường học tập.

Thứ hai, phát huy vai trò của tổ chức Đảng và đảng viên trong doanh nghiệp. Nhiều đảng bộ tại doanh nghiệp lớn đã chứng minh đảng viên không chỉ là hạt nhân chính trị mà còn là người thầy, người dẫn dắt trong công tác đào tạo. Ví dụ, tại Viettel, hơn 90% lãnh đạo cấp cao phải tham gia giảng dạy ít nhất 24 giờ/năm cho cấp dưới. Đảng ủy FPT khuyến khích đảng viên hướng dẫn sinh viên thực tập và hỗ trợ các dự án khởi nghiệp trẻ. Ngay cả các ngân hàng thương mại cũng đề cao việc đảng viên chia sẻ kinh nghiệm và lan tỏa văn hóa “khách hàng là trung tâm”. Mô hình “mỗi đảng viên là một người thầy” cần được nhân rộng để đảng viên thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu trong học tập và truyền đạt tri thức.

Thứ ba, tăng cường hợp tác với các cơ sở giáo dục để đào tạo theo nhu cầu đặt hàng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên tham gia xây dựng chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; cử chuyên gia làm giảng viên thực hành; và phối hợp tổ chức các chương trình “co-op” (vừa học vừa làm). Các công ty công nghệ có thể mở phòng thí nghiệm ngay tại trường để sinh viên thực hành; các ngân hàng và công ty tài chính có thể tài trợ học bổng và chương trình ngoại ngữ cho sinh viên. Mô hình hợp tác này giúp nhà trường hiểu rõ nhu cầu của doanh nghiệp, cập nhật chương trình kịp thời; sinh viên được làm quen với môi trường làm việc thực tế, gia tăng cơ hội được tuyển dụng ngay khi tốt nghiệp.

Thứ tư, triển khai chiến lược thu hút, sử dụng và giữ chân nhân tài. Bên cạnh đào tạo, doanh nghiệp cần tạo ra môi trường làm việc sáng tạo và công bằng; có chính sách lương thưởng, phúc lợi hấp dẫn; và lộ trình thăng tiến rõ ràng. Các công ty nên khuyến khích tinh thần khởi nghiệp nội bộ và giao những dự án thách thức để nhân sự học hỏi và phát triển. Đặc biệt, phải ngăn chặn “chảy máu chất xám” bằng cách giao những dự án mang tính thách thức, trao cơ hội học tập ở nước ngoài và ghi nhận xứng đáng đóng góp của cá nhân cả về vật chất lẫn tinh thần. Đồng thời, doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo lại (reskilling) và nâng cấp kỹ năng (upskilling) cho đội ngũ cán bộ, nhất là những vị trí có nguy cơ bị thay thế bởi tự động hóa.

Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số là nhiệm vụ mang tầm chiến lược quốc gia. Nếu lực lượng này không được tiếp sức, tiến trình xây dựng kinh tế số và xã hội số sẽ chậm lại. Vì vậy, chính sách cần hướng tới một hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện: từ ưu đãi thuế và tín dụng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; đến các gói đào tạo quản trị số, tư vấn chuyên sâu và cung cấp dịch vụ nền tảng số dùng chung. Quan trọng hơn, phải tạo cơ chế để doanh nghiệp dễ dàng kết nối với chuyên gia, viện nghiên cứu và tập đoàn công nghệ lớn nhằm tận dụng tri thức và công nghệ tiên tiến.

Bài học từ Thành phố Hà Nội cho thấy, việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ chữ ký số, mở các lớp đào tạo quản trị và trực tiếp tư vấn cho doanh nghiệp chế biến - chế tạo đang là những “chìa khóa” then chốt. Nếu những giải pháp này được nhân rộng toàn quốc, chúng sẽ là động lực để cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa bứt phá, đưa Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong về chuyển đổi số trong khu vực Đông Nam Á, hiện thực hóa mục tiêu được đề ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Nhiều doanh nghiệp công nghệ đã trở thành “người đồng hành” quan trọng cùng doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ, Công ty FSI (Hà Nội) - với hơn 16 năm kinh nghiệm - đã triển khai hàng trăm dự án số hóa và xây dựng cơ sở Big Data theo chuẩn ISO. Ông Lê Phương, Phó Ban Công nghệ số FSI, khẳng định: “Chúng tôi đã số hóa và thiết lập cơ sở dữ liệu cho nhiều bộ, ngành và doanh nghiệp lớn, qua đó hình thành nền tảng dữ liệu số phục vụ trực tiếp tiến trình chuyển đổi số”. Công ty ITG DX đã phát triển giải pháp tối ưu hóa chuỗi cung ứng và quản trị hiệu suất thông minh (Smart KPI). Ông Nguyễn Xuân Hách - Giám đốc điều hành ITG DX nhấn mạnh: “Chúng tôi ứng dụng AI để giúp doanh nghiệp tối ưu nguồn lực và con người, nâng cao hiệu quả vận hành và năng lực cạnh tranh”. Những nỗ lực này cho thấy chuyển đổi số không chỉ cải tiến quy trình, mà là động lực tái cấu trúc toàn diện doanh nghiệp. Với lợi thế dân số gần 100 triệu người, đa phần trẻ và năng động, Việt Nam đang có cơ hội vàng để trở thành một quốc gia số. Khi doanh nghiệp được tiếp sức bởi công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số sẽ trở thành đòn bẩy nâng cao năng suất và tạo sức bật cho nền kinh tế, khẳng định vị thế đất nước trong kỷ nguyên mới.

Toàn cảnh Khu đô thị sáng tạo phía Đông TP. Hồ Chí Minh – biểu tượng cho phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo - Nguồn ảnh: Báo Chính phủ
Toàn cảnh Khu đô thị sáng tạo phía Đông TP. Hồ Chí Minh - biểu tượng cho phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo (Nguồn ảnh: Báo Chính phủ)

Đề án Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2030 và định hướng tới năm 2045 (ban hành kèm theo Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 24/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ) đã mở ra tầm nhìn chiến lược dài hạn. Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các cơ sở đại học không chỉ đổi mới chương trình theo mô hình liên ngành, chú trọng năng lực thực tiễn, mà còn triển khai chương trình kỹ sư - thạc sĩ tài năng từ năm 2025, với tuyển sinh gắn liền nghiên cứu khoa học và hợp tác doanh nghiệp theo cơ chế đặt hàng. Một điểm nhấn quan trọng khác là thu hút giảng viên, chuyên gia trình độ cao; cử cán bộ đi đào tạo tiến sĩ tại các cơ sở uy tín thế giới; ưu tiên đầu tư nâng cấp phòng thí nghiệm và công nghệ nghiên cứu; tạo điều kiện cho sinh viên thực tập tại doanh nghiệp. Đây là sự chuẩn bị đồng bộ cả đào tạo - nghiên cứu - ứng dụng, nhằm hình thành đội ngũ nhân lực công nghệ cao làm chủ những công nghệ lõi.

Mục tiêu cốt lõi của Đề án là xây dựng đội ngũ nhân lực công nghệ cao vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam thành quốc gia có nền công nghiệp công nghệ cao và kinh tế tri thức vào năm 2045. Đây không chỉ là giải pháp trước mắt, mà là tầm nhìn dài hạn để đất nước bứt phá trong kỷ nguyên số.

Bên cạnh chính sách và thể chế, yếu tố quyết định thành công chính là văn hóa học tập suốt đời trong toàn xã hội. Văn hóa này phải được vun đắp từ gia đình, nhà trường, doanh nghiệp đến cộng đồng và chính quyền - không để ai bị bỏ lại phía sau. Gia đình phải là điểm khởi đầu cho thói quen học tập: Cha mẹ gương mẫu đọc sách, khuyến khích con cái học ngoại ngữ và tiếp cận khoa học - công nghệ. Nhà trường cần tạo môi trường học tập chủ động, khuyến khích học sinh tự học, phát huy năng lực cá nhân. Các trường phổ thông có thể áp dụng phương pháp dạy học theo dự án và tích hợp STEAM (Khoa học - Công nghệ - Kỹ thuật - Nghệ thuật - Toán) để nâng cao tư duy sáng tạo và kỹ năng số cho học sinh. Đồng thời, các chương trình “Nông dân số - Công nhân số - Thanh niên số” cần được triển khai rộng khắp, trang bị kỹ năng số cơ bản và kiến thức an toàn dữ liệu cho từng nhóm xã hội. Đây chính là lời giải thiết thực để thực hiện tinh thần Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế cho mọi người dân, cũng như Nghị quyết số 71-NQ/TW về bảo đảm cơ hội giáo dục chất lượng cho mọi vùng miền.

Gia đình cùng con cái tiếp cận tri thức qua sách và Internet, vun đắp văn hóa học tập - Nguồn ảnh: Báo Nhân dân
Gia đình cùng con cái tiếp cận tri thức qua sách và Internet, vun đắp văn hóa học tập (Nguồn ảnh: Báo Nhân dân)

Chính quyền từ Trung ương đến địa phương phải đảm bảo hạ tầng và chính sách hỗ trợ học tập: Mở rộng kết nối Internet tốc độ cao, đặc biệt ở nông thôn, miền núi; cung cấp máy tính và thiết bị học tập cho người nghèo; phát triển thư viện số và nền tảng MOOC tiếng Việt; triển khai các chương trình nâng cao kỹ năng số cho nông dân và lao động phổ thông. Chỉ khi mọi người dân đều có điều kiện học tập, khoảng cách số mới được thu hẹp và nguồn nhân lực mới được hình thành.

Tinh thần tự học, chủ động cập nhật kiến thức cần được khơi dậy mạnh mẽ. Sự phát triển vũ bão của công nghệ có thể gây lo lắng, nhưng cũng mở ra cơ hội cho những ai dám thay đổi. Mỗi cá nhân nên xác định lộ trình học tập liên tục của mình, kết hợp giữa giáo dục chính quy và các hình thức học không chính quy (khóa học trực tuyến, hội thảo, diễn đàn cộng đồng). Khát vọng phát triển bản thân phải gắn liền với khát vọng cống hiến cho gia đình, cộng đồng và đất nước - như khẩu hiệu “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Xây dựng xã hội học tập không phải là lựa chọn, mà là con đường tất yếu của dân tộc trong thế kỷ XXI. Đó sẽ là xã hội nơi mọi người đều học, mọi lúc mọi nơi đều học; nơi mỗi cá nhân là một tế bào học tập, mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp là một tổ chức học tập, và cả quốc gia thành một hệ thống học tập. Theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, học tập suốt đời cần được nâng tầm thành chuẩn mực sống: khi đó mỗi người Việt Nam sẽ dám nghĩ táo bạo, dám nói sự thật, dám làm quyết liệt, dám chịu trách nhiệm chính trực và dám hy sinh vì lợi ích chung. Học tập không chỉ để thu nhận kiến thức, mà còn để rèn luyện nhân cách, hun đúc bản lĩnh và khí phách dân tộc.

Một xã hội học tập như vậy sẽ trở thành nguồn năng lượng tinh thần cho khát vọng vươn lên và bứt phá của Việt Nam: Biến một dân tộc “hiếu học” thành dân tộc “dám học để đổi mới, dám học để sáng tạo, dám học để phụng sự”. Đây chính là chiếc chìa khóa vàng mở ra cánh cửa bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng - thực hiện mục tiêu đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao.

Chỉ có tri thức và con người mới là chìa khóa then chốt mở ra tương lai hùng cường. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải đoàn kết xây dựng chiến lược nhân sự số quy mô quốc gia, với quyết tâm và sáng tạo không ngừng. Các giải pháp chiến lược - từ quy hoạch nhân lực, cải cách giáo dục, đến đổi mới bộ máy và xây dựng văn hóa học tập - không chỉ là chính sách mà còn là lời hiệu triệu hành động dũng cảm. Như Bác Hồ đã dạy, “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà…”, chúng ta phải biến khát vọng và kiến thức thành hành động cụ thể.

Những giải pháp chiến lược đã nêu không chỉ đơn thuần là khuyến nghị, mà là cam kết - là lời hiệu triệu toàn dân. Con đường tiến tới một Việt Nam thịnh vượng, hùng cường không thể trông chờ vào tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa chính trị hay lợi thế lao động giá rẻ, mà phải dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao. Đào tạo nguồn nhân lực không phải nhiệm vụ một sớm một chiều, mà là công việc xuyên suốt, kéo dài qua nhiều thế hệ. Nó đòi hỏi sự kiên trì, sáng tạo và quyết tâm của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Nếu chúng ta làm tốt, nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ trở thành lực đẩy, động lực và nền tảng để Việt Nam bứt phá, vươn lên hàng ngũ các quốc gia phát triển. Nếu chúng ta lơ là, chậm trễ, chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ và bị tụt hậu trong cuộc đua toàn cầu. Lựa chọn nằm trong tay chúng ta - mỗi cấp ủy, mỗi doanh nghiệp, mỗi gia đình và mỗi người Việt Nam. Kỷ nguyên vươn mình đang mở ra; đào tạo nhân lực chính là chiếc cầu nối để dân tộc bước tới tương lai phồn vinh.

Con đường phía trước dù nhiều gian nan nhưng không thể chần chừ. Đào tạo đội ngũ nhân tài số là hành trình dài, đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm của nhiều thế hệ. Khi tinh thần “dám nghĩ, dám nói, dám làm” trở thành sức mạnh nội sinh, nguồn nhân lực số của Việt Nam sẽ không còn là những con số khô khan, mà là khát vọng, trí tuệ và bản lĩnh kết tinh trong mỗi con người. Đó là nền móng để dân tộc ta giàu mạnh, sáng tạo, nhân văn như khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng “năm cái dám” mà Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh không chỉ gợi mở một hình mẫu công dân mới, mà còn khẳng định một tầm nhìn quốc gia: Xây dựng Việt Nam trở thành xã hội học tập, nơi tri thức lan tỏa từ trường học đến gia đình, cộng đồng, cơ quan, doanh nghiệp và toàn xã hội. Trên nền tảng ấy, lực lượng lao động số mới thực sự đủ tài, đủ tâm, đủ tầm gánh vác khát vọng dân tộc, đưa đất nước vững vàng bước vào hàng ngũ các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.

Kỷ nguyên vươn mình đòi hỏi ý chí quốc gia phải được cụ thể hóa bằng thể chế hiện đại, tài chính thông minh, quản trị minh bạch và giáo dục đi trước một bước - từ lớp học THPT đến xưởng sản xuất, từ phòng lab đến công trường số. Khi mỗi học sinh được “trao mã năng lực”, mỗi nhà trường trở thành “xưởng sáng tạo”, mỗi doanh nghiệp thành “trường học”, mỗi cán bộ là “người thầy” - thì “nguồn nhân lực chất lượng cao” sẽ không còn là lời hứa hẹn, mà là thực tế sống động, đưa Việt Nam bứt phá vững chãi trên con đường hùng cường vào năm 2045.

Đảng đã thắp lên ngọn lửa khát vọng, còn nhân dân với tri thức và lòng yêu nước - chính là nhiên liệu để ngọn lửa ấy rực cháy. Khi con người Việt Nam trở thành trung tâm của chuyển đổi số, dân tộc ta sẽ bước vào kỷ nguyên vươn mình với tư thế của một quốc gia hùng cường.

Phát triển nguồn nhân lực số chính là nền tảng vững chắc để Việt Nam “vững bước” vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc!

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân. Trích dẫn nội dung chính sách hỗ trợ khu vực tư nhân.

4. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Lê Thị Hoàng Anh
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

Tin bài khác

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân là kim chỉ nam giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chỉ hội nhập thành công với thế giới mà còn giữ vững được bản sắc dân tộc, bảo đảm sự ổn định và phát triển lâu dài cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô