Tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp và những vấn đề đặt ra

Nghiên cứu - Trao đổi
Thông qua phân tích quy mô và biến động dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023, bài viết chỉ ra những kết quả tích cực và một số hạn chế trong tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với ngành sản xuất quan trọng này.
aa

Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng đối với ngành nông nghiệp trong 10 năm gần đây ở Việt Nam. Thông qua phân tích quy mô và biến động dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023, bài viết chỉ ra những kết quả tích cực và một số hạn chế trong tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với ngành sản xuất quan trọng này. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm thúc đẩy hơn nữa tăng trưởng dư nợ tín dụng nông nghiệp trong thời gian tới để đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất nông nghiệp cũng như yêu cầu về mở rộng quy mô tín dụng của hệ thống ngân hàng từ nay đến năm 2030.

Từ khóa: Dư nợ, nông nghiệp, tăng trưởng, tín dụng.

THE CREDIT GROWTH IN THE AGRICULTURE INDUSTRY AND ISSUES EMERGE

Abstract: The article evaluates the banking system’s lending activities for the agriculture industry in 10 years in Vietnam. By analyzing the scale and the outstanding credit fluctuation for agriculture in the period 2014 - 2023, the article points out the positive results and some limitations in the banking system’s credit growth for the important agriculture industry. On that basis, the authors propose recommendations to further promote the outstanding credit growth in the coming time aimed at meeting the demand for agriculture production capital as well as the requirement for widening the banking system credit scale by 2030.

Keywords: Outstanding credit, agriculture, growth, credit.

1. Giới thiệu

Việt Nam là một nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời và cho đến hiện tại, nông nghiệp (bao gồm cả lĩnh vực lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản) vẫn là ngành có nhiều đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế. Thống kê trong 10 năm trở lại đây (từ năm 2014 đến năm 2023) cho thấy, ngành nông nghiệp thường chiếm khoảng 12 - 14% tổng sản phẩm trong nước (GDP) và khoảng 2,5 - 4% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tính chung trong cả giai đoạn 2014 - 2023, tỉ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP và kim ngạch xuất khẩu của cả nước lần lượt là 12,73% và 3,35%. Mức độ đóng góp cụ thể từng năm của ngành nông nghiệp được thể hiện chi tiết tại Hình 1.

Hình 1: Đóng góp của nông nghiệp vào GDP và kim ngạch xuất khẩu

giai đoạn 2014 - 2023

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê


Trong nhiều năm qua, nông nghiệp luôn là đối tượng được Nhà nước và ngành Ngân hàng quan tâm, có nhiều chính sách ưu tiên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình hoạt động trong ngành nông nghiệp sử dụng nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng để phục vụ sản xuất, kinh doanh. Kết quả của chính sách ưu tiên này là đã có hàng triệu khách hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp được hệ thống ngân hàng cho vay một lượng vốn tín dụng lên đến hàng triệu tỉ đồng và dư nợ tín dụng đối với ngành nông nghiệp không ngừng tăng lên mỗi năm.

Với dư nợ tín dụng thường xuyên được mở rộng, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đã có vốn để đáp ứng nhu cầu tài chính cho các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh dư nợ liên tục gia tăng, kết quả cho vay của hệ thống ngân hàng đối với ngành nông nghiệp vẫn còn một số hạn chế nhất định như tốc độ tăng trưởng hay tỉ trọng dư nợ... Chính vì vậy, việc xem xét một cách toàn diện quy mô tín dụng nông nghiệp là rất cần thiết nhằm xác định phương hướng điều hành hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, đáp ứng tốt hơn yêu cầu mở rộng hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng, đồng thời thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả - như mục tiêu được đặt ra tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. Thực trạng tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp thời gian qua

2.1. Một số chính sách cơ bản thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp

Ở Việt Nam, việc cung ứng vốn tín dụng đối với ngành nông nghiệp đã được hệ thống ngân hàng thực hiện từ rất lâu, tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, chính sách tín dụng đối với ngành nông nghiệp đã thực sự nhận được sự quan tâm rất lớn từ các cơ quan quản lý nhà nước. Cụ thể là việc Chính phủ thường xuyên ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động cho vay cũng như các biện pháp hỗ trợ tài chính khác đối với nông nghiệp, trong đó, đáng chú ý là các văn bản quan trọng như Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (thay thế Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn); Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP; Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 về một số chính sách phát triển thủy sản; Nghị định số 89/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP; Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 về bảo hiểm nông nghiệp...

Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật nói trên, tùy theo tình hình thực tiễn và yêu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế từng năm, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cũng đã có nhiều văn bản chỉ đạo ngành Ngân hàng thực hiện các biện pháp hỗ trợ vốn tín dụng đối với ngành nông nghiệp như: Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 05/3/2014 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2024, trong đó yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xây dựng chương trình cho vay thí điểm phục vụ cho phát triển nông nghiệp (ưu tiên các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp, các mô hình sản xuất áp dụng khoa học và công nghệ cao, các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu); Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2017, trong đó giao NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại dành ít nhất 100.000 tỉ đồng từ nguồn vốn huy động của các ngân hàng để thực hiện chương trình cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch với lãi suất phù hợp (thấp hơn lãi suất thị trường); Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 17/7/2019 của Chính phủ về giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững; Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 16/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng đối với người nuôi tôm và cá tra; Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị với Hiệp hội Gỗ và Lâm sản, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu lâm sản và thủy sản (theo Thông báo số 167/TB-VPCP ngày 01/5/2023 của Văn phòng Chính phủ), trong đó giao NHNN nghiên cứu, đề xuất gói tín dụng 10.000 tỉ đồng để hỗ trợ cho doanh nghiệp ngành sản xuất, chế biến lâm sản và thủy sản trong tháng 5/2023...

Căn cứ các chính sách và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN cũng đã ban hành nhiều văn bản quy định hoặc hướng dẫn triển khai hoạt động cho vay đối với ngành nông nghiệp, như: Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 về chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 05/3/2014 của Chính phủ; Quyết định số 2662/QĐ-NHNN ngày 16/12/2014 về việc sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 3 Quyết định số 1050/QĐ-NHNN; Quyết định số 813/QĐ-NHNN ngày 04/4/2017 về Chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ; Công văn số 5631/NHNN-TD ngày 14/7/2023 về việc triển khai Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản, trong đó chỉ đạo các ngân hàng thương mại dành khoảng 15.000 tỉ đồng để cho vay đối với các khách hàng có dự án, phương án phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh lĩnh vực lâm sản, thủy sản (gấp 1,5 lần quy mô gói tín dụng được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo)... Ngoài ra, tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc, NHNN quy định tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam (VND) nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc NHNN quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn, trong đó có nhu cầu vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. (Hình 2)

Hình 2: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND

đối với lĩnh vực nông nghiệp do NHNN quy định những năm gần đây

Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám Thống kê và NHNN


2.2. Tình hình tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023

Căn cứ các chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp do Chính phủ và NHNN ban hành, trong những năm qua, hệ thống ngân hàng đã liên tục đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các tổ chức, cá nhân để thực hiện các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, vì thế, dư nợ tín dụng đối với ngành nông nghiệp không ngừng tăng lên mỗi năm. Thống kê cho thấy, thời điểm cuối năm 2013, dư nợ tín dụng nông nghiệp đạt 366,1 nghìn tỉ đồng; đến hết năm 2023, dư nợ tín dụng nông nghiệp tăng gấp 2,6 lần, đạt 952,4 nghìn tỉ đồng. Diễn biến dư nợ và tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp từng năm giai đoạn 2014 - 2023 được thể hiện tại Hình 3.

Hình 3: Tăng trưởng dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023

Nguồn: NHNN


Trong những năm qua, dư nợ tín dụng nông nghiệp tăng trưởng với tốc độ rất đáng khích lệ. Tính bình quân trong giai đoạn 2014 - 2023, mỗi năm, dư nợ tín dụng ngành nông nghiệp tăng trưởng 10,03%, trong đó, một số năm có dư nợ tăng trưởng với tốc độ cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả giai đoạn, như năm 2015 (cao hơn 8,97 điểm phần trăm), năm 2016 (cao hơn 9,34 điểm phần trăm)... Đồng thời, so với tốc độ tăng trưởng dư nợ đối với một số ngành, nhóm ngành khác trong nền kinh tế như công nghiệp, vận tải và viễn thông, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023 rất đáng ghi nhận. Tính bình quân, trong giai đoạn 2014 - 2023, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng ngành công nghiệp đạt 9,34%/năm, nhóm ngành vận tải và viễn thông đạt 9,62%/năm, lần lượt thấp hơn 0,69 điểm phần trăm và 0,41 điểm phần trăm so với tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng nông nghiệp. (Hình 4 và Hình 7)

Hình 4: Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với một số ngành

giai đoạn 2014 - 2023

Nguồn: Tính toán từ số liệu của NHNN

Nếu so với tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp thì tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với ngành này thời gian qua có sự chênh lệch tương đối lớn. Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2014 - 2023, tốc độ tăng trưởng bình quân GDP ngành nông nghiệp theo giá so sánh năm 2010 đạt 3,14%/năm; nếu tính theo giá hiện hành, tốc độ tăng trưởng đạt 6,03%/năm. Điều đó có nghĩa dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng vào ngành nông nghiệp đã tăng trưởng với tốc độ cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trong cùng thời kỳ. Chênh lệch về tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp qua từng năm được thể hiện tại Hình 5.

Hình 5: Tốc độ tăng trưởng tín dụng và GDP nông nghiệp

giai đoạn 2014 - 2023

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê và NHNN


Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng trưởng đáng ghi nhận nói trên, tăng trưởng dư nợ tín dụng nông nghiệp một số năm gần đây có dấu hiệu chậm lại. Kết quả tính toán từ số liệu thống kê do NHNN công bố cho thấy, giai đoạn 2014 - 2017, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng nông nghiệp bình quân đạt 15,23%/năm; giai đoạn 2018 - 2023 (trong đó có hai năm 2020 và năm 2021, nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19), tốc độ tăng trưởng bình quân là 6,7%/năm. So với dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân dư nợ tín dụng đối với ngành nông nghiệp giảm trong giai đoạn này. (Hình 6)

Hình 6: Diễn biến tốc độ tăng trưởng bình quân dư nợ tín dụng

đối với nền kinh tế và một số ngành khác giai đoạn tính từ đầu năm 2014

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của NHNN


Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đối với ngành nông nghiệp giai đoạn 2018 - 2023 cũng thấp hơn một số ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Tính toán từ số liệu thống kê của NHNN cho thấy, trong giai đoạn 2014 - 2023, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của dư nợ cho vay đối với nông nghiệp chỉ cao hơn chưa đầy 1 điểm phần trăm so với tốc độ tương ứng của dư nợ đối với ngành công nghiệp hoặc nhóm ngành vận tải và viễn thông, trong khi lại thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ đối với thương mại hoặc các hoạt động dịch vụ khác, với mức chênh lệch tăng trưởng bình quân lần lượt là 7,73 điểm phần trăm và 8,30 điểm phần trăm. Nếu so với tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ tín dụng đối với ngành xây dựng thì tốc độ tăng trưởng tương ứng của dư nợ tín dụng nông nghiệp thấp hơn 2,32 điểm phần trăm; còn nếu so với tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế thì khoảng chênh lệch này là 4,55 điểm phần trăm. (Hình 7)

Hình 7: Tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân theo ngành

giai đoạn 2014 - 2023

Nguồn: Tính toán từ số liệu của NHNN


Theo thống kê của NHNN, trong giai đoạn 2014 - 2023, dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng thêm gần 10,1 triệu tỉ đồng, trong đó, dư nợ tín dụng nông nghiệp tăng thêm 586,3 nghìn tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 5,81%. Mức độ đóng góp của hoạt động tín dụng đối với ngành nông nghiệp vào dư nợ tín dụng tăng thêm từng năm của nền kinh tế được thể hiện cụ thể tại Hình 8.

Hình 8: Đóng góp của ngành nông nghiệp

vào tổng dư nợ tín dụng tăng thêm giai đoạn 2014 - 2023

Nguồn: Tính toán từ số liệu của NHNN


Số liệu tại Hình 8 cho thấy, trong giai đoạn 2014 - 2023, dư nợ tín dụng tăng thêm đối với nông nghiệp đóng góp trên 10% vào dư nợ tín dụng tăng thêm đối với nền kinh tế chỉ bao gồm năm 2015 và năm 2016; các năm còn lại, ngành nông nghiệp đóng góp gần 10% trong tổng dư nợ tín dụng tăng thêm của hệ thống ngân hàng, trong đó phổ biến là đóng góp dưới 6%. Năm 2023, tỉ lệ đóng góp của hoạt động tín dụng đối với ngành nông nghiệp vào dư nợ tăng thêm của nền kinh tế là 3,78%.

Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2014 - 2023, giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 12,73% GDP (tính theo giá hiện hành); dư nợ tín dụng bình quân đối với ngành nông nghiệp chiếm 8,56% tổng dư nợ bình quân của hệ thống ngân hàng. Ngành xây dựng đóng góp 5,84% vào GDP giai đoạn 2014 - 2023, thấp hơn 6,89 điểm phần trăm so với ngành nông nghiệp, tuy nhiên, dư nợ tín dụng bình quân của ngành xây dựng chiếm đến 9,12% tổng dư nợ tín dụng bình quân của nền kinh tế, cao hơn ngành nông nghiệp 0,56 điểm phần trăm. Mức độ đóng góp vào GDP và quy mô dư nợ tín dụng nền kinh tế của ngành nông nghiệp và ngành xây dựng trong từng năm được thể hiện tại Hình 9.

Hình 9: Đóng góp của ngành nông nghiệp và ngành xây dựng

vào GDP và dư nợ tín dụng nền kinh tế giai đoạn 2014 - 2023

Nguồn: Tính toán từ số liệu của NHNN


Đánh giá một cách khái quát, trong 10 năm qua, dư nợ tín dụng nông nghiệp không ngừng tăng lên từng năm; kết quả đầu tư tín dụng của hệ thống ngân hàng vào lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần tích cực hỗ trợ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp qua các năm, gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và nâng cao vị thế trên trường thế giới.

Để thúc đẩy nông nghiệp phát triển hơn nữa, việc mở rộng quy mô cho vay đối với ngành kinh tế này là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, khi mà tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như ngành nông nghiệp nhìn chung vẫn phụ thuộc nhiều vào quy mô vốn đầu tư, trong đó vốn vay từ các tổ chức tín dụng là một bộ phận hết sức quan trọng.

3. Một số vấn đề đặt ra trong tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp thời gian tới

Tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, một trong những mục tiêu được đặt ra đối với nông nghiệp là phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp đến năm 2030 đạt bình quân khoảng 3%/năm. Tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân toàn nền kinh tế đến năm 2030 được xác định là khoảng 7%/năm. Với quy mô nền kinh tế và ngành nông nghiệp Việt Nam năm 2020 (theo giá so sánh năm 2010) lần lượt là hơn 5 triệu tỉ đồng và gần 566 nghìn tỉ đồng, nếu thực hiện thành công các mục tiêu được đặt ra ở trên, thì tỉ trọng GDP ngành nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta ước tính đến năm 2030 là 7,72% và trong cả giai đoạn 2021 - 2030 là 9,03%. Kết quả ước tính quy mô GDP ngành nông nghiệp và toàn nền kinh tế từng năm (bao gồm các năm 2021 - 2023) được thể hiện tại

Hình 10.

Hình 10: Ước tính GDP ngành nông nghiệp và nền kinh tế

giai đoạn 2021 - 2030

Nguồn: Tính toán của tác giả


Với dư nợ tín dụng đạt được đến hết năm 2023, giả sử trong giai đoạn 2024 - 2030, hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế và ngành nông nghiệp vẫn tăng trưởng với tốc độ bình quân của giai đoạn 2014 - 2023 (lần lượt là 14,58%/năm và 10,03%/năm) thì đến cuối năm 2030, tỉ trọng dư nợ tín dụng nông nghiệp trong tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế là 5,29% và tính chung giai đoạn 2021 - 2030, tỉ trọng này là 6,23%. Số liệu về dư nợ và tỉ trọng dư nợ ước tính của ngành nông nghiệp từng năm được thể hiện tại Hình 11.

Hình 11: Ước tính quy mô dư nợ tín dụng

ngành nông nghiệp và nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2030

Nguồn: Thống kê của NHNN và tính toán của tác giả


Số liệu tại Hình 10 và Hình 11 cho thấy, với các mục tiêu và giả định được đưa ra, nếu tính riêng năm 2030 hay tính chung cho cả giai đoạn 2021 - 2030, thì tỉ trọng dư nợ tín dụng đối với ngành nông nghiệp trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng ước tính đều thấp hơn so với tỉ lệ đóng góp của GDP ngành này trong GDP toàn nền kinh tế, với khoảng cách chênh lệch là 2,43 điểm phần trăm (tính riêng cho năm 2030) hoặc 2,8 điểm phần trăm (tính chung cho cả giai đoạn 2021 - 2030). Trường hợp ước tính dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế và ngành nông nghiệp trong thời gian tới theo tốc độ tăng trưởng của giai đoạn 2018 - 2023 thì khoảng cách chênh lệch này sẽ lớn hơn bởi kết quả tính toán từ số liệu thống kê của NHNN cho thấy, càng đến những giai đoạn gần đây, tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế càng có xu hướng vượt xa hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ đối với ngành nông nghiệp. (Hình 12)

Hình 12: Tốc độ tăng trưởng bình quân và tỉ trọng dư nợ tín dụng bình quân
của ngành nông nghiệp trong các giai đoạn tính đến cuối năm 2023

Nguồn: Tính toán từ số liệu của NHNN


Với những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, việc xem xét đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với ngành nông nghiệp trong thời gian tới là việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa.

Tuy nhiên, nhìn chung, năng lực của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong ngành nông nghiệp hiện nay vẫn còn một số hạn chế. Kết quả Điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ được Tổng cục Thống kê thực hiện gần nhất (năm 2020) cho thấy, trong số hơn 9,1 triệu đơn vị sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, bộ phận chủ yếu vẫn là các hộ sản xuất, phần còn lại bao gồm 7.418 hợp tác xã và 7.471 doanh nghiệp, trong đó, phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (chiếm 96%). Với sự hạn chế về năng lực tài chính, khả năng đáp ứng yêu cầu về tài sản bảo đảm tiền vay và trình độ quản lý của đa phần các tổ chức và cá nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, việc mở rộng quy mô cho vay để thực hiện các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh nông nghiệp đến thời điểm hiện nay vẫn là một thách thức rất lớn đối với các tổ chức tín dụng.

Trong bối cảnh đó, để việc mở rộng quy mô cho vay đối với nông nghiệp đáp ứng được nhu cầu về vốn của ngành nông nghiệp cũng như yêu cầu về tăng trưởng tín dụng mà không đem lại rủi ro cho hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần đặc biệt quan tâm phát triển đội ngũ nhân lực thật sự am hiểu về lĩnh vực nông nghiệp để nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, quyết định cho vay cũng như hỗ trợ kịp thời các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh nông nghiệp trong việc hoàn tất các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh và hồ sơ vay vốn theo quy định. Cùng với đó, các tổ chức tín dụng cũng cần áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro có hiệu quả để hạn chế đến mức tối đa tổn thất từ các khoản tín dụng của các khách hàng vay vốn trong ngành nông nghiệp.

Bên cạnh nỗ lực của hệ thống ngân hàng, để hoạt động cho vay đối với ngành nông nghiệp mang lại kết quả, các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh trong ngành nông nghiệp cần chú trọng nâng cao chất lượng của phương án sản xuất, kinh doanh, đề nghị vay vốn và thực hiện đúng các cam kết tại hợp đồng tín dụng cũng như hợp đồng bảo đảm tiền vay đã ký kết với tổ chức tín dụng. Cùng với đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần xúc tiến mở rộng các chương trình hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong ngành nông nghiệp, đặc biệt là kiến thức về quản lý tài chính và lập kế hoạch kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức tín dụng đối với các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh có nhu cầu sử dụng vốn vay cũng như khách hàng vay vốn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 17/7/2019 của Chính phủ về giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030.

3. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

4. NHNN (2023), Thống kê dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế, truy cập ngày 18/8/2024 tại https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/dntddvnkt

5. Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 25/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025.

6. Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

7. Tổng cục Thống kê (2015 - 2023), Niên giám Thống kê 2014 - 2023, Nxb. Thống kê.

8. Tổng cục Thống kê (2020), Kết quả Điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ 2020, Nxb. Thống kê.

TS. Nguyễn Cảnh Hiệp (Ngân hàng Phát triển Việt Nam)

TS. Vũ Thị Tâm Thu (Kho bạc Nhà nước Hà Nội)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng