Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
aa
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương
Cánh đồng điện gió tỉnh Bạc Liêu (Ảnh: Trần Trọng Triết)

Nỗ lực duy trì tăng trưởng trong khu vực

Trên địa bàn khu vực, Thành phố Cần Thơ có lợi thế nhiều khu công nghiệp chế xuất tập trung phát triển công nghiệp chế tạo chế biến. 5 tháng đầu năm 2025, hoạt động kinh tế của thành phố Cần Thơ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, nhiều chỉ tiêu kinh tế tăng so với cùng kỳ năm trước. Trên tinh thần khẩn trương quyết liệt với nỗ lực cao, thành phố linh hoạt triển khai hiệu quả các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế... Cụ thể, so với cùng kỳ năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2025 tăng 6,06%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 60.174 tỉ đồng, tăng 13,66%; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt hơn 1 tỉ USD, tăng 10,7%; hoạt động du lịch tiếp tục phát triển ổn định, tổng số khách tham quan, du lịch hơn 3,16 triệu lượt, tăng 13%, với doanh thu đạt 3.131 tỉ đồng, tăng 20,5%. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, sản lượng thủy sản thu hoạch tăng so với cùng kỳ. Ðến ngày 31/5/2025, tổng thu ngân sách trên địa bàn thành phố là 6.032 tỉ đồng, đạt 48,79% dự toán, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2024.

Còn tỉnh Hậu Giang có 317 dự án đầu tư, với tổng mức đầu tư hơn 191.500 tỉ đồng. Trong đó, có 251 dự án ngoài khu, cụm công nghiệp, 63 dự án trong khu công nghiệp và 3 dự án trong Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang.

Trong 5 tháng đầu năm 2025, Hậu Giang không cấp mới dự án FDI, hiện đang có 24 dự án FDI (trong khu công nghiệp là 5 dự án, ngoài khu công nghiệp 19 dự án), với tổng số vốn đăng ký hơn 610 triệu USD; có 479 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký mới với tổng số vốn 2.020 tỉ đồng, lũy kế đến nay có 4.837 doanh nghiệp hoạt động, với tổng vốn hơn 74.400 tỉ đồng; về hộ kinh doanh có 1.055 hộ kinh doanh thành lập mới, với vốn đăng ký hơn 201 tỉ đồng, lũy kế đến nay có 56.344 hộ kinh doanh thành lập mới, tổng vốn đăng ký hơn 7.500 tỉ đồng.

Tại tỉnh Vĩnh Long, trong 5 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 14,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,12%,...; tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 475,4 triệu USD, tăng 6,86%, đạt 43,22% kế hoạch; giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp đạt trên 11.475 tỉ đồng và tăng 48,53%; xuất khẩu trên 370 triệu USD, tăng 38,46% và đạt 47,44% so với kế hoạch năm 2025.

Đối với tỉnh Sóc Trăng, thế mạnh của tỉnh là phát triển các giống lúa chất lượng cao, lúa đặc sản, cao sản nhằm nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn tỉnh. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất và cơ cấu mùa vụ phù hợp để thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng suất, chất lượng lúa, thì công tác liên kết tiêu thụ lúa rất được chú trọng, bởi việc liên kết nhằm tạo đầu ra ổn định cho nông dân trồng lúa. Để đạt sản lượng lúa chất lượng cao chiếm hơn 90%, ngành nông nghiệp tỉnh đã triển khai thực hiện Đề án Phát triển sản xuất lúa đặc sản, Đề án Nông nghiệp hữu cơ và Đề án Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Diện tích sản xuất lúa theo đề án này đến nay đạt gần 5.000 ha. Các sản phẩm gạo đặc sản của tỉnh thường có mặt trong các cuộc triển lãm, hội chợ trong nước và ngoài nước, đặc biệt tỉnh có sản phẩm gạo ST rất được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng, trong đó có gạo ST25 đạt giải gạo ngon nhất thế giới trong nhiều năm, càng khẳng định chất lượng của lúa ST trên vùng đất Sóc Trăng. Chính nhờ sản phẩm lúa ST và các giống lúa chất lượng cao của tỉnh mà đã có 20 doanh nghiệp, công ty trong, ngoài tỉnh tìm đến liên kết tiêu thụ lúa sau thu hoạch, với diện tích lúa được liên kết bao tiêu đầu ra hằng năm gần 70.000 ha, giá liên kết thu mua cao hơn so với bên ngoài thị trường từ 100 - 500 đồng/kg. Đồng thời, tỉnh cũng có lợi thế là có 3 doanh nghiệp chế biến lúa gạo xuất khẩu với quy mô 20.000 tấn/năm; có 19 nhà máy, cơ sở xay xát chế biến lúa gạo, tổng sản lượng sơ chế 50.000 tấn/năm. Các doanh nghiệp và nhà máy nêu trên cũng đã góp phần tiêu thụ tốt số lượng lúa sau thu hoạch của bà con nông dân toàn tỉnh.

Bên cạnh đó, tỉnh Bạc Liêu tập trung đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại và kích cầu tiêu dùng nên thị trường bán lẻ hàng hóa cùng xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng so với cùng kỳ. Tính đến tháng 5/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt hơn 35.668 tỉ đồng, tăng 10,35% so với cùng kỳ.

Riêng hoạt động xuất khẩu hàng hóa tiếp tục tăng khá và chủ yếu vẫn tập trung vào mặt hàng chủ lực là chế biến thủy sản. Trong tháng 5/2025, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 91 triệu USD, nâng tổng kim ngạch trong 5 tháng đạt trên 402 triệu USD, tăng 6,85% so với cùng kỳ.

Tình hình kinh tế - xã hội của các địa phương trên địa bàn đạt được kết quả tăng trưởng trên cũng có phần đóng góp của ngành Ngân hàng Khu vực 14 trong việc khơi thông tín dụng “tiếp sức” vốn vay cho các thành phần kinh tế tại địa phương.

Mở rộng cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng

Xác định tín dụng ngân hàng là một trong những “đòn bẩy” quan trọng giúp doanh nghiệp và người dân cải thiện đời sống và phát triển kinh tế, sau khi ổn định cơ cấu tổ chức, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã tập trung chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn chú trọng mở rộng mạng lưới đến các vùng sâu, vùng xa để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay của ngân hàng không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, mà còn thể hiện tinh thần đồng hành, sẻ chia với cộng đồng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tài chính toàn diện mà Chính phủ đang hướng tới.

Kết quả thực hiện tăng trưởng tín dụng của các TCTD Khu vực 14 đến cuối tháng 5/2025, tổng dư nợ cho vay của khu vực đạt 403.850 tỉ đồng, tăng 4,7% so với cuối năm 2024. Trong đó, dư nợ cho vay ngành nông, lâm, thủy sản đạt 42.700 tỉ đồng, chiếm 10,57% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngành công nghiệp và xây dựng 83.600 tỉ đồng, chiếm 20,7%; dư nợ cho vay ngành thương mại - dịch vụ 277.550 tỉ đồng, chiếm 68,73%.

Riêng nguồn vốn huy động của các TCTD Khu vực 14 đến cuối tháng 5/2025 đạt 298.553 tỉ đồng, tăng 1% so với cuối năm 2024 và đáp ứng được 73,93% tổng dư nợ cho vay.

Điểm đáng chú ý, là hầu hết dư nợ cho vay các lĩnh vực ưu tiên tại Khu vực 14 đều tăng so với cuối năm 2024. Cụ thể, đến cuối tháng 5/2025, dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 175.055 tỉ đồng, tăng 11,45% so với cuối năm 2024; dư nợ cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 71.800 tỉ đồng, tăng 4,2%; cho vay xuất khẩu dư nợ đạt 33.267 tỉ đồng, tăng 18,9%; cho vay công nghiệp hỗ trợ 1.600 tỉ đồng, tăng gần 114,5%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao 172 tỉ đồng, tăng 1,55% so với cuối năm 2024.

Bên cạnh đó, các TCTD Khu vực 14 còn chú trọng triển khai cho vay các chương trình tín dụng khác, với dư nợ tăng khá. Đơn cử như chương trình tín dụng đối với lĩnh vực thủy sản, dư nợ đến cuối tháng 5/2025 đạt 36.300 tỉ đồng, tăng 6,1% so với cuối năm 2024; chương trình tín dụng đối với lúa, gạo dư nợ cho vay 35.900 tỉ đồng, tăng 7,19%; dư nợ tín dụng rau quả đạt 11.500 tỉ đồng, tăng 7,11% so với cuối năm 2024.

Đặc biệt, các TCTD đều chú trọng cho vay lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN; tập trung cho vay các lĩnh vực thế mạnh của khu vực là nông, thủy sản, xuất khẩu lúa gạo… Đồng thời, thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn và mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên, tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, người dân tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh.

Hiện nay tại Khu vực 14 có hơn 1,07 triệu khách hàng còn dư nợ tín dụng. Mặt bằng lãi suất cho vay và huy động tiếp tục giữ ổn định. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4%/năm; trung dài hạn từ 7% - 10%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường phổ biến đối với ngắn hạn từ 6,5% - 10%/năm; trung, dài hạn từ 8,5% - 10,5%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ biến ngắn hạn 4,5% - 5,8%/năm.

Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNN, từ đầu năm đến nay, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã chỉ đạo các TCTD tiếp tục hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Trung ương. Các TCTD tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng. Song song đó triển khai hiệu quả Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng khu vực đạt mục tiêu đề ra, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế các địa phương.

Thực hiện Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản với 100.000 tỉ đồng với lãi suất ưu đãi, ngày 15/4/2025, NHNN đã có Công văn số 2756/NHNN-TD đề nghị các ngân hàng thương mại triển khai cho đến khi doanh số cho vay đạt mức chỉ đạo của Chính phủ. Tại Khu vực 14, đến cuối tháng 5/2025 dư nợ cho vay Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản đạt 2.798 tỉ đồng, chiếm 0,69% tổng dư nợ; Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ của Chính phủ, trên địa bàn Khu vực 14 hiện có 3 dự án nhà ở xã hội đã được UBND tỉnh/thành phố công bố đủ điều kiện vay vốn ưu đãi; các TCTD triển khai Chương trình cho vay liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL.

Tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, tạo động lực tăng trưởng kinh tế

Định hướng nhiệm vụ thời gian từ nay đến cuối năm 2025, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tiếp tục thực hiện hiệu quả theo Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 08/01/2025 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2025 và Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 20/01/2025 của Thống đốc NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2025.

Hai là, tập trung thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2025, góp phần ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối của nền kinh tế. Về định hướng chung là phấn đấu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống khoảng 16% trong năm 2025, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.

Ba là, tiếp tục chỉ đạo các TCTD phải phấn đấu chung là đạt được mục tiêu đề ra. Qua đó góp phần hỗ trợ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Chính phủ là phải đảm bảo tăng trưởng 8% trong năm 2025. Trong đó, tín dụng là một trong những kênh có thể hỗ trợ tăng trưởng tốt nhất.

Bốn là, tiếp tục thực hiện đề án xử lý nợ xấu và củng cố TCTD. Các TCTD phải chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể để kiểm soát, xử lý nợ xấu, đảm bảo hoạt động an toàn và tăng trưởng tín dụng, nhưng đồng thời kiểm soát được nợ xấu và đảm bảo cho dòng vốn luân chuyển bớt rủi ro hơn.

Năm là, cần nâng cao ý thức đạo đức công vụ đối với công chức, người lao động trong ngành Ngân hàng, cán bộ tín dụng, làm sao để hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các TCTD trên địa bàn Khu vực 14 cần tiếp tục chú trọng ứng dụng công nghệ nhằm hạn chế rủi ro trên không gian mạng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện nhất. Các TCTD Khu vực 14 luôn xác định chuyển đổi số ngành Ngân hàng là mục tiêu hàng đầu trong những năm qua cũng như hiện nay và trong tương lai. Vì thế, các ngân hàng thương mại cần chú trọng vào đào tạo nhân sự và xây dựng các chương trình chuyển đổi số sao cho hoạt động này diễn ra an ninh, an toàn, nhanh chóng và hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ tháng 5 và triển khai nhiệm vụ tháng 6 năm 2025 của NHNN Chi nhánh Khu vực 14.

2. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng năm 2025 của UBND thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Bạc Liêu.

ThS. Trần Trọng Triết

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô