Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
aa
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương
Cánh đồng điện gió tỉnh Bạc Liêu (Ảnh: Trần Trọng Triết)

Nỗ lực duy trì tăng trưởng trong khu vực

Trên địa bàn khu vực, Thành phố Cần Thơ có lợi thế nhiều khu công nghiệp chế xuất tập trung phát triển công nghiệp chế tạo chế biến. 5 tháng đầu năm 2025, hoạt động kinh tế của thành phố Cần Thơ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, nhiều chỉ tiêu kinh tế tăng so với cùng kỳ năm trước. Trên tinh thần khẩn trương quyết liệt với nỗ lực cao, thành phố linh hoạt triển khai hiệu quả các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế... Cụ thể, so với cùng kỳ năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2025 tăng 6,06%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 60.174 tỉ đồng, tăng 13,66%; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt hơn 1 tỉ USD, tăng 10,7%; hoạt động du lịch tiếp tục phát triển ổn định, tổng số khách tham quan, du lịch hơn 3,16 triệu lượt, tăng 13%, với doanh thu đạt 3.131 tỉ đồng, tăng 20,5%. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, sản lượng thủy sản thu hoạch tăng so với cùng kỳ. Ðến ngày 31/5/2025, tổng thu ngân sách trên địa bàn thành phố là 6.032 tỉ đồng, đạt 48,79% dự toán, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2024.

Còn tỉnh Hậu Giang có 317 dự án đầu tư, với tổng mức đầu tư hơn 191.500 tỉ đồng. Trong đó, có 251 dự án ngoài khu, cụm công nghiệp, 63 dự án trong khu công nghiệp và 3 dự án trong Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang.

Trong 5 tháng đầu năm 2025, Hậu Giang không cấp mới dự án FDI, hiện đang có 24 dự án FDI (trong khu công nghiệp là 5 dự án, ngoài khu công nghiệp 19 dự án), với tổng số vốn đăng ký hơn 610 triệu USD; có 479 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký mới với tổng số vốn 2.020 tỉ đồng, lũy kế đến nay có 4.837 doanh nghiệp hoạt động, với tổng vốn hơn 74.400 tỉ đồng; về hộ kinh doanh có 1.055 hộ kinh doanh thành lập mới, với vốn đăng ký hơn 201 tỉ đồng, lũy kế đến nay có 56.344 hộ kinh doanh thành lập mới, tổng vốn đăng ký hơn 7.500 tỉ đồng.

Tại tỉnh Vĩnh Long, trong 5 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 14,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,12%,...; tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 475,4 triệu USD, tăng 6,86%, đạt 43,22% kế hoạch; giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp đạt trên 11.475 tỉ đồng và tăng 48,53%; xuất khẩu trên 370 triệu USD, tăng 38,46% và đạt 47,44% so với kế hoạch năm 2025.

Đối với tỉnh Sóc Trăng, thế mạnh của tỉnh là phát triển các giống lúa chất lượng cao, lúa đặc sản, cao sản nhằm nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn tỉnh. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất và cơ cấu mùa vụ phù hợp để thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng suất, chất lượng lúa, thì công tác liên kết tiêu thụ lúa rất được chú trọng, bởi việc liên kết nhằm tạo đầu ra ổn định cho nông dân trồng lúa. Để đạt sản lượng lúa chất lượng cao chiếm hơn 90%, ngành nông nghiệp tỉnh đã triển khai thực hiện Đề án Phát triển sản xuất lúa đặc sản, Đề án Nông nghiệp hữu cơ và Đề án Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Diện tích sản xuất lúa theo đề án này đến nay đạt gần 5.000 ha. Các sản phẩm gạo đặc sản của tỉnh thường có mặt trong các cuộc triển lãm, hội chợ trong nước và ngoài nước, đặc biệt tỉnh có sản phẩm gạo ST rất được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng, trong đó có gạo ST25 đạt giải gạo ngon nhất thế giới trong nhiều năm, càng khẳng định chất lượng của lúa ST trên vùng đất Sóc Trăng. Chính nhờ sản phẩm lúa ST và các giống lúa chất lượng cao của tỉnh mà đã có 20 doanh nghiệp, công ty trong, ngoài tỉnh tìm đến liên kết tiêu thụ lúa sau thu hoạch, với diện tích lúa được liên kết bao tiêu đầu ra hằng năm gần 70.000 ha, giá liên kết thu mua cao hơn so với bên ngoài thị trường từ 100 - 500 đồng/kg. Đồng thời, tỉnh cũng có lợi thế là có 3 doanh nghiệp chế biến lúa gạo xuất khẩu với quy mô 20.000 tấn/năm; có 19 nhà máy, cơ sở xay xát chế biến lúa gạo, tổng sản lượng sơ chế 50.000 tấn/năm. Các doanh nghiệp và nhà máy nêu trên cũng đã góp phần tiêu thụ tốt số lượng lúa sau thu hoạch của bà con nông dân toàn tỉnh.

Bên cạnh đó, tỉnh Bạc Liêu tập trung đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại và kích cầu tiêu dùng nên thị trường bán lẻ hàng hóa cùng xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng so với cùng kỳ. Tính đến tháng 5/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt hơn 35.668 tỉ đồng, tăng 10,35% so với cùng kỳ.

Riêng hoạt động xuất khẩu hàng hóa tiếp tục tăng khá và chủ yếu vẫn tập trung vào mặt hàng chủ lực là chế biến thủy sản. Trong tháng 5/2025, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 91 triệu USD, nâng tổng kim ngạch trong 5 tháng đạt trên 402 triệu USD, tăng 6,85% so với cùng kỳ.

Tình hình kinh tế - xã hội của các địa phương trên địa bàn đạt được kết quả tăng trưởng trên cũng có phần đóng góp của ngành Ngân hàng Khu vực 14 trong việc khơi thông tín dụng “tiếp sức” vốn vay cho các thành phần kinh tế tại địa phương.

Mở rộng cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng

Xác định tín dụng ngân hàng là một trong những “đòn bẩy” quan trọng giúp doanh nghiệp và người dân cải thiện đời sống và phát triển kinh tế, sau khi ổn định cơ cấu tổ chức, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã tập trung chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn chú trọng mở rộng mạng lưới đến các vùng sâu, vùng xa để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay của ngân hàng không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, mà còn thể hiện tinh thần đồng hành, sẻ chia với cộng đồng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tài chính toàn diện mà Chính phủ đang hướng tới.

Kết quả thực hiện tăng trưởng tín dụng của các TCTD Khu vực 14 đến cuối tháng 5/2025, tổng dư nợ cho vay của khu vực đạt 403.850 tỉ đồng, tăng 4,7% so với cuối năm 2024. Trong đó, dư nợ cho vay ngành nông, lâm, thủy sản đạt 42.700 tỉ đồng, chiếm 10,57% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngành công nghiệp và xây dựng 83.600 tỉ đồng, chiếm 20,7%; dư nợ cho vay ngành thương mại - dịch vụ 277.550 tỉ đồng, chiếm 68,73%.

Riêng nguồn vốn huy động của các TCTD Khu vực 14 đến cuối tháng 5/2025 đạt 298.553 tỉ đồng, tăng 1% so với cuối năm 2024 và đáp ứng được 73,93% tổng dư nợ cho vay.

Điểm đáng chú ý, là hầu hết dư nợ cho vay các lĩnh vực ưu tiên tại Khu vực 14 đều tăng so với cuối năm 2024. Cụ thể, đến cuối tháng 5/2025, dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 175.055 tỉ đồng, tăng 11,45% so với cuối năm 2024; dư nợ cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 71.800 tỉ đồng, tăng 4,2%; cho vay xuất khẩu dư nợ đạt 33.267 tỉ đồng, tăng 18,9%; cho vay công nghiệp hỗ trợ 1.600 tỉ đồng, tăng gần 114,5%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao 172 tỉ đồng, tăng 1,55% so với cuối năm 2024.

Bên cạnh đó, các TCTD Khu vực 14 còn chú trọng triển khai cho vay các chương trình tín dụng khác, với dư nợ tăng khá. Đơn cử như chương trình tín dụng đối với lĩnh vực thủy sản, dư nợ đến cuối tháng 5/2025 đạt 36.300 tỉ đồng, tăng 6,1% so với cuối năm 2024; chương trình tín dụng đối với lúa, gạo dư nợ cho vay 35.900 tỉ đồng, tăng 7,19%; dư nợ tín dụng rau quả đạt 11.500 tỉ đồng, tăng 7,11% so với cuối năm 2024.

Đặc biệt, các TCTD đều chú trọng cho vay lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN; tập trung cho vay các lĩnh vực thế mạnh của khu vực là nông, thủy sản, xuất khẩu lúa gạo… Đồng thời, thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn và mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên, tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, người dân tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh.

Hiện nay tại Khu vực 14 có hơn 1,07 triệu khách hàng còn dư nợ tín dụng. Mặt bằng lãi suất cho vay và huy động tiếp tục giữ ổn định. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4%/năm; trung dài hạn từ 7% - 10%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường phổ biến đối với ngắn hạn từ 6,5% - 10%/năm; trung, dài hạn từ 8,5% - 10,5%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ biến ngắn hạn 4,5% - 5,8%/năm.

Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNN, từ đầu năm đến nay, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã chỉ đạo các TCTD tiếp tục hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Trung ương. Các TCTD tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng. Song song đó triển khai hiệu quả Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng khu vực đạt mục tiêu đề ra, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế các địa phương.

Thực hiện Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản với 100.000 tỉ đồng với lãi suất ưu đãi, ngày 15/4/2025, NHNN đã có Công văn số 2756/NHNN-TD đề nghị các ngân hàng thương mại triển khai cho đến khi doanh số cho vay đạt mức chỉ đạo của Chính phủ. Tại Khu vực 14, đến cuối tháng 5/2025 dư nợ cho vay Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản đạt 2.798 tỉ đồng, chiếm 0,69% tổng dư nợ; Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ của Chính phủ, trên địa bàn Khu vực 14 hiện có 3 dự án nhà ở xã hội đã được UBND tỉnh/thành phố công bố đủ điều kiện vay vốn ưu đãi; các TCTD triển khai Chương trình cho vay liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL.

Tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, tạo động lực tăng trưởng kinh tế

Định hướng nhiệm vụ thời gian từ nay đến cuối năm 2025, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tiếp tục thực hiện hiệu quả theo Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 08/01/2025 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2025 và Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 20/01/2025 của Thống đốc NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2025.

Hai là, tập trung thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2025, góp phần ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối của nền kinh tế. Về định hướng chung là phấn đấu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống khoảng 16% trong năm 2025, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.

Ba là, tiếp tục chỉ đạo các TCTD phải phấn đấu chung là đạt được mục tiêu đề ra. Qua đó góp phần hỗ trợ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Chính phủ là phải đảm bảo tăng trưởng 8% trong năm 2025. Trong đó, tín dụng là một trong những kênh có thể hỗ trợ tăng trưởng tốt nhất.

Bốn là, tiếp tục thực hiện đề án xử lý nợ xấu và củng cố TCTD. Các TCTD phải chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể để kiểm soát, xử lý nợ xấu, đảm bảo hoạt động an toàn và tăng trưởng tín dụng, nhưng đồng thời kiểm soát được nợ xấu và đảm bảo cho dòng vốn luân chuyển bớt rủi ro hơn.

Năm là, cần nâng cao ý thức đạo đức công vụ đối với công chức, người lao động trong ngành Ngân hàng, cán bộ tín dụng, làm sao để hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các TCTD trên địa bàn Khu vực 14 cần tiếp tục chú trọng ứng dụng công nghệ nhằm hạn chế rủi ro trên không gian mạng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện nhất. Các TCTD Khu vực 14 luôn xác định chuyển đổi số ngành Ngân hàng là mục tiêu hàng đầu trong những năm qua cũng như hiện nay và trong tương lai. Vì thế, các ngân hàng thương mại cần chú trọng vào đào tạo nhân sự và xây dựng các chương trình chuyển đổi số sao cho hoạt động này diễn ra an ninh, an toàn, nhanh chóng và hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ tháng 5 và triển khai nhiệm vụ tháng 6 năm 2025 của NHNN Chi nhánh Khu vực 14.

2. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng năm 2025 của UBND thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Bạc Liêu.

ThS. Trần Trọng Triết

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng