Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
aa
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương
Cánh đồng điện gió tỉnh Bạc Liêu (Ảnh: Trần Trọng Triết)

Nỗ lực duy trì tăng trưởng trong khu vực

Trên địa bàn khu vực, Thành phố Cần Thơ có lợi thế nhiều khu công nghiệp chế xuất tập trung phát triển công nghiệp chế tạo chế biến. 5 tháng đầu năm 2025, hoạt động kinh tế của thành phố Cần Thơ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, nhiều chỉ tiêu kinh tế tăng so với cùng kỳ năm trước. Trên tinh thần khẩn trương quyết liệt với nỗ lực cao, thành phố linh hoạt triển khai hiệu quả các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế... Cụ thể, so với cùng kỳ năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2025 tăng 6,06%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 60.174 tỉ đồng, tăng 13,66%; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt hơn 1 tỉ USD, tăng 10,7%; hoạt động du lịch tiếp tục phát triển ổn định, tổng số khách tham quan, du lịch hơn 3,16 triệu lượt, tăng 13%, với doanh thu đạt 3.131 tỉ đồng, tăng 20,5%. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, sản lượng thủy sản thu hoạch tăng so với cùng kỳ. Ðến ngày 31/5/2025, tổng thu ngân sách trên địa bàn thành phố là 6.032 tỉ đồng, đạt 48,79% dự toán, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2024.

Còn tỉnh Hậu Giang có 317 dự án đầu tư, với tổng mức đầu tư hơn 191.500 tỉ đồng. Trong đó, có 251 dự án ngoài khu, cụm công nghiệp, 63 dự án trong khu công nghiệp và 3 dự án trong Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang.

Trong 5 tháng đầu năm 2025, Hậu Giang không cấp mới dự án FDI, hiện đang có 24 dự án FDI (trong khu công nghiệp là 5 dự án, ngoài khu công nghiệp 19 dự án), với tổng số vốn đăng ký hơn 610 triệu USD; có 479 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký mới với tổng số vốn 2.020 tỉ đồng, lũy kế đến nay có 4.837 doanh nghiệp hoạt động, với tổng vốn hơn 74.400 tỉ đồng; về hộ kinh doanh có 1.055 hộ kinh doanh thành lập mới, với vốn đăng ký hơn 201 tỉ đồng, lũy kế đến nay có 56.344 hộ kinh doanh thành lập mới, tổng vốn đăng ký hơn 7.500 tỉ đồng.

Tại tỉnh Vĩnh Long, trong 5 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 14,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,12%,...; tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 475,4 triệu USD, tăng 6,86%, đạt 43,22% kế hoạch; giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp đạt trên 11.475 tỉ đồng và tăng 48,53%; xuất khẩu trên 370 triệu USD, tăng 38,46% và đạt 47,44% so với kế hoạch năm 2025.

Đối với tỉnh Sóc Trăng, thế mạnh của tỉnh là phát triển các giống lúa chất lượng cao, lúa đặc sản, cao sản nhằm nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn tỉnh. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất và cơ cấu mùa vụ phù hợp để thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng suất, chất lượng lúa, thì công tác liên kết tiêu thụ lúa rất được chú trọng, bởi việc liên kết nhằm tạo đầu ra ổn định cho nông dân trồng lúa. Để đạt sản lượng lúa chất lượng cao chiếm hơn 90%, ngành nông nghiệp tỉnh đã triển khai thực hiện Đề án Phát triển sản xuất lúa đặc sản, Đề án Nông nghiệp hữu cơ và Đề án Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Diện tích sản xuất lúa theo đề án này đến nay đạt gần 5.000 ha. Các sản phẩm gạo đặc sản của tỉnh thường có mặt trong các cuộc triển lãm, hội chợ trong nước và ngoài nước, đặc biệt tỉnh có sản phẩm gạo ST rất được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng, trong đó có gạo ST25 đạt giải gạo ngon nhất thế giới trong nhiều năm, càng khẳng định chất lượng của lúa ST trên vùng đất Sóc Trăng. Chính nhờ sản phẩm lúa ST và các giống lúa chất lượng cao của tỉnh mà đã có 20 doanh nghiệp, công ty trong, ngoài tỉnh tìm đến liên kết tiêu thụ lúa sau thu hoạch, với diện tích lúa được liên kết bao tiêu đầu ra hằng năm gần 70.000 ha, giá liên kết thu mua cao hơn so với bên ngoài thị trường từ 100 - 500 đồng/kg. Đồng thời, tỉnh cũng có lợi thế là có 3 doanh nghiệp chế biến lúa gạo xuất khẩu với quy mô 20.000 tấn/năm; có 19 nhà máy, cơ sở xay xát chế biến lúa gạo, tổng sản lượng sơ chế 50.000 tấn/năm. Các doanh nghiệp và nhà máy nêu trên cũng đã góp phần tiêu thụ tốt số lượng lúa sau thu hoạch của bà con nông dân toàn tỉnh.

Bên cạnh đó, tỉnh Bạc Liêu tập trung đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại và kích cầu tiêu dùng nên thị trường bán lẻ hàng hóa cùng xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng so với cùng kỳ. Tính đến tháng 5/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt hơn 35.668 tỉ đồng, tăng 10,35% so với cùng kỳ.

Riêng hoạt động xuất khẩu hàng hóa tiếp tục tăng khá và chủ yếu vẫn tập trung vào mặt hàng chủ lực là chế biến thủy sản. Trong tháng 5/2025, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 91 triệu USD, nâng tổng kim ngạch trong 5 tháng đạt trên 402 triệu USD, tăng 6,85% so với cùng kỳ.

Tình hình kinh tế - xã hội của các địa phương trên địa bàn đạt được kết quả tăng trưởng trên cũng có phần đóng góp của ngành Ngân hàng Khu vực 14 trong việc khơi thông tín dụng “tiếp sức” vốn vay cho các thành phần kinh tế tại địa phương.

Mở rộng cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng

Xác định tín dụng ngân hàng là một trong những “đòn bẩy” quan trọng giúp doanh nghiệp và người dân cải thiện đời sống và phát triển kinh tế, sau khi ổn định cơ cấu tổ chức, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã tập trung chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn chú trọng mở rộng mạng lưới đến các vùng sâu, vùng xa để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay của ngân hàng không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, mà còn thể hiện tinh thần đồng hành, sẻ chia với cộng đồng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tài chính toàn diện mà Chính phủ đang hướng tới.

Kết quả thực hiện tăng trưởng tín dụng của các TCTD Khu vực 14 đến cuối tháng 5/2025, tổng dư nợ cho vay của khu vực đạt 403.850 tỉ đồng, tăng 4,7% so với cuối năm 2024. Trong đó, dư nợ cho vay ngành nông, lâm, thủy sản đạt 42.700 tỉ đồng, chiếm 10,57% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngành công nghiệp và xây dựng 83.600 tỉ đồng, chiếm 20,7%; dư nợ cho vay ngành thương mại - dịch vụ 277.550 tỉ đồng, chiếm 68,73%.

Riêng nguồn vốn huy động của các TCTD Khu vực 14 đến cuối tháng 5/2025 đạt 298.553 tỉ đồng, tăng 1% so với cuối năm 2024 và đáp ứng được 73,93% tổng dư nợ cho vay.

Điểm đáng chú ý, là hầu hết dư nợ cho vay các lĩnh vực ưu tiên tại Khu vực 14 đều tăng so với cuối năm 2024. Cụ thể, đến cuối tháng 5/2025, dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 175.055 tỉ đồng, tăng 11,45% so với cuối năm 2024; dư nợ cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 71.800 tỉ đồng, tăng 4,2%; cho vay xuất khẩu dư nợ đạt 33.267 tỉ đồng, tăng 18,9%; cho vay công nghiệp hỗ trợ 1.600 tỉ đồng, tăng gần 114,5%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao 172 tỉ đồng, tăng 1,55% so với cuối năm 2024.

Bên cạnh đó, các TCTD Khu vực 14 còn chú trọng triển khai cho vay các chương trình tín dụng khác, với dư nợ tăng khá. Đơn cử như chương trình tín dụng đối với lĩnh vực thủy sản, dư nợ đến cuối tháng 5/2025 đạt 36.300 tỉ đồng, tăng 6,1% so với cuối năm 2024; chương trình tín dụng đối với lúa, gạo dư nợ cho vay 35.900 tỉ đồng, tăng 7,19%; dư nợ tín dụng rau quả đạt 11.500 tỉ đồng, tăng 7,11% so với cuối năm 2024.

Đặc biệt, các TCTD đều chú trọng cho vay lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN; tập trung cho vay các lĩnh vực thế mạnh của khu vực là nông, thủy sản, xuất khẩu lúa gạo… Đồng thời, thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn và mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên, tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, người dân tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh.

Hiện nay tại Khu vực 14 có hơn 1,07 triệu khách hàng còn dư nợ tín dụng. Mặt bằng lãi suất cho vay và huy động tiếp tục giữ ổn định. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4%/năm; trung dài hạn từ 7% - 10%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường phổ biến đối với ngắn hạn từ 6,5% - 10%/năm; trung, dài hạn từ 8,5% - 10,5%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ biến ngắn hạn 4,5% - 5,8%/năm.

Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNN, từ đầu năm đến nay, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã chỉ đạo các TCTD tiếp tục hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Trung ương. Các TCTD tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng. Song song đó triển khai hiệu quả Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng khu vực đạt mục tiêu đề ra, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế các địa phương.

Thực hiện Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản với 100.000 tỉ đồng với lãi suất ưu đãi, ngày 15/4/2025, NHNN đã có Công văn số 2756/NHNN-TD đề nghị các ngân hàng thương mại triển khai cho đến khi doanh số cho vay đạt mức chỉ đạo của Chính phủ. Tại Khu vực 14, đến cuối tháng 5/2025 dư nợ cho vay Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản đạt 2.798 tỉ đồng, chiếm 0,69% tổng dư nợ; Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ của Chính phủ, trên địa bàn Khu vực 14 hiện có 3 dự án nhà ở xã hội đã được UBND tỉnh/thành phố công bố đủ điều kiện vay vốn ưu đãi; các TCTD triển khai Chương trình cho vay liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL.

Tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, tạo động lực tăng trưởng kinh tế

Định hướng nhiệm vụ thời gian từ nay đến cuối năm 2025, NHNN Chi nhánh Khu vực 14 tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tiếp tục thực hiện hiệu quả theo Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 08/01/2025 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2025 và Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 20/01/2025 của Thống đốc NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2025.

Hai là, tập trung thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2025, góp phần ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối của nền kinh tế. Về định hướng chung là phấn đấu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống khoảng 16% trong năm 2025, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.

Ba là, tiếp tục chỉ đạo các TCTD phải phấn đấu chung là đạt được mục tiêu đề ra. Qua đó góp phần hỗ trợ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Chính phủ là phải đảm bảo tăng trưởng 8% trong năm 2025. Trong đó, tín dụng là một trong những kênh có thể hỗ trợ tăng trưởng tốt nhất.

Bốn là, tiếp tục thực hiện đề án xử lý nợ xấu và củng cố TCTD. Các TCTD phải chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể để kiểm soát, xử lý nợ xấu, đảm bảo hoạt động an toàn và tăng trưởng tín dụng, nhưng đồng thời kiểm soát được nợ xấu và đảm bảo cho dòng vốn luân chuyển bớt rủi ro hơn.

Năm là, cần nâng cao ý thức đạo đức công vụ đối với công chức, người lao động trong ngành Ngân hàng, cán bộ tín dụng, làm sao để hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các TCTD trên địa bàn Khu vực 14 cần tiếp tục chú trọng ứng dụng công nghệ nhằm hạn chế rủi ro trên không gian mạng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện nhất. Các TCTD Khu vực 14 luôn xác định chuyển đổi số ngành Ngân hàng là mục tiêu hàng đầu trong những năm qua cũng như hiện nay và trong tương lai. Vì thế, các ngân hàng thương mại cần chú trọng vào đào tạo nhân sự và xây dựng các chương trình chuyển đổi số sao cho hoạt động này diễn ra an ninh, an toàn, nhanh chóng và hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ tháng 5 và triển khai nhiệm vụ tháng 6 năm 2025 của NHNN Chi nhánh Khu vực 14.

2. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng năm 2025 của UBND thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Bạc Liêu.

ThS. Trần Trọng Triết

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng