Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính

Nghiên cứu - Trao đổi
Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính. Kiến thức này bao gồm hai loại: Kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Hai loại kiến thức này hình thành nên sự tự tin thái quá hoặc kém tự tin của khách hàng. Khi khách hàng quá tự tin hay kém tự tin sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả ra quyết định của khách hàng.
aa

Tóm tắt: Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính. Kiến thức này bao gồm hai loại: Kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Hai loại kiến thức này hình thành nên sự tự tin thái quá hoặc kém tự tin của khách hàng. Khi khách hàng quá tự tin hay kém tự tin sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả ra quyết định của khách hàng. Bài viết làm rõ khái niệm kiến thức và sự tự tin của khách hàng; đồng thời, phân tích những ảnh hưởng về kiến thức của khách hàng đến quá trình ra quyết định. Bên cạnh đó, phân tích hiệu quả việc ra quyết định của khách hàng trong trường hợp họ quá tự tin hoặc thiếu tự tin. Bài viết cũng đưa ra các kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc nâng cao kiến thức tài chính của khách hàng nhằm khuyến nghị thúc đẩy hành vi sử dụng dịch vụ tài chính, nâng cao hiệu quả ra quyết định của khách hàng.

Từ khóa: Tự tin thái quá, kém tự tin, hành vi khách hàng, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ tài chính.

THE INFLUENCE OF CUSTOMERS' FINANCIAL KNOWLEDGE AND SELF-CONFIDENCE ON MAKING DECISIONS TO USE FINANCIAL SERVICES

Abstract: Customer financial knowledge is one of the factors that greatly influence the customer decision making in using financial services. The knowledge includes two types of subjective knowledge and objective knowledge. These two types of knowledge form customer’s overconfidence or underconfidence. When customers are overconfident or underconfident, it will affect the customer’s decision-making results. This article focuses on clarifying the concept of customer financial knowledge and self-confidence; analyzing the influence of the customer’s knowledge on the decision-making process. Besides, the article also analyzes the effectiveness of customers’ decision-making in case they are overconfident or underconfident. The article also describes the experiences of countries around the world in improving the financial knowledge of customers and proposes recommendations to promote the behavior of using financial services, and at the same time improve the efficiency of customer decision-making in using financial services.

Keywords: Overconfidence, underconfidence, customer behavio, banking services, financial services.

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, trên thế giới có khoảng 2 tỉ người chưa được tiếp cận các dịch vụ tài chính, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nhìn từ phía cung, có rất nhiều yếu tố cản trở sự tiếp cận tài chính như những quy định, sự đa dạng của các tổ chức tài chính, khoảng cách địa lí, sự lạc hậu của kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển tài chính (Demirguc-Kunt và cộng sự, 2015). Nhìn từ phía cầu, các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tài chính gồm các nhân tố như kiến thức tài chính của khách hàng, sự tự tin, rào cản về tâm lí, văn hóa (Atkinson, A. và F. Messy, 2013). Trong đó, kiến thức và sự tự tin của khách hàng được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu để thúc đẩy sử dụng các dịch vụ tài chính.


Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng

quyết định việc sử dụng dịch vụ tài chính

Dịch vụ tài chính là dịch vụ phức tạp so với các dịch vụ khác, để ra các quyết định tài chính khách hàng cần có kiến thức và sự tự tin nhất định. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, có hai loại kiến thức là kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tài chính chưa hiểu đầy đủ về kiến thức tài chính của khách hàng và ảnh hưởng của nó, do đó có thể không có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính.

Các loại kiến thức có tác động mạnh mẽ đến việc ra quyết định của khách hàng. Các loại kiến thức cũng hình thành nên sự tự tin của khách hàng. Đồng thời sự tự tin của khách hàng cũng tác động đến việc ra quyết định và hiệu quả trong các quyết định của khách hàng. Việc hiểu đúng những yếu tố tạo nên kiến thức và sự tự tin của khách hàng là cơ sở quan trọng để các nhà quản lí có thể hiểu những nhân tố tác động đến quá trình ra quyết định của khách hàng. Từ đó, có thể có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính, đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả các quyết định của khách hàng.

2. Kiến thức và sự tự tin về kiến thức tài chính của khách hàng

2.1. Kiến thức về tài chính của khách hàng

Khách hàng đưa ra quyết định mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ bằng cách sử dụng các chiến lược khác nhau, trong đó sử dụng kiến ​​thức của mình là một trong những chiến lược phổ biến nhất để ra quyết định (Brucks, 1985). Kiến thức của khách hàng ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn của quá trình ra quyết định (Raju và cộng sự, 1995). Để đưa ra quyết định mua một sản phẩm, khách hàng bắt buộc phải có một mức độ hiểu biết nhất định. Ví dụ, khách hàng cần phải có kiến ​​thức tốt trong việc đưa ra quyết định mua các sản phẩm đắt tiền (Vigneron và Johnson, 1999). Tương tự, khi mua cổ phiếu hay sử dụng các khoản vay của ngân hàng, khách hàng cũng cần phải có kiến thức liên quan đến các sản phẩm, dịch vụ đó. Tuy nhiên, kiến​​ thức của khách hàng không chỉ bao gồm một khối kiến thức nhất định mà được chia thành hai loại, bao gồm kiến ​​thức chủ quan và kiến ​​thức khách quan.

Kiến thức chủ quan là kiến ​​thức có được từ tự nhận thức của khách hàng (nghĩa là nhận thức chủ quan của khách hàng về những gì họ biết hoặc mức độ họ biết về sản phẩm). Để đo lường kiến ​​thức chủ quan của khách hàng, các tổ chức sẽ phát bảng hỏi, trong đó khách hàng được yêu cầu tự nhận định kiến ​​thức của mình về lĩnh vực hoặc sản phẩm nào đó (Cordell, 1997). Chẳng hạn, khách hàng sẽ được hỏi các câu hỏi về nhận định của khách hàng, sự hiểu biết của họ đối với dịch vụ tài chính. Nếu khách hàng tự nhận định là họ có kiến thức tốt về dịch vụ hay sản phẩm tài chính, điều đó đồng nghĩa với việc họ có kiến thức chủ quan cao về lĩnh vực tài chính hoặc dịch vụ tài chính.

Kiến ​​thức khách quan là kiến ​​thức mà khách hàng thực sự sở hữu (nghĩa là thông tin chính xác về sản phẩm, dịch vụ mà khách hàng lưu trữ trong bộ nhớ dài hạn). Để đánh giá kiến ​​thức khách quan của khách hàng về sản phẩm hoặc lĩnh vực nào đó, khách hàng sẽ được hỏi các câu hỏi liên quan đến thông tin thực tế về sản phẩm hoặc lĩnh vực nào đó (Brucks, 1985; Raju và Reilly, 1980; Rao và Monroe, 1988). Chẳng hạn, khách hàng sẽ được hỏi câu hỏi về mức lãi suất hiện nay đang được các ngân hàng thương mại áp dụng, đồng thời đưa ra một số đáp án để khách hàng chọn, mức độ kiến ​​thức khách quan sẽ được xác định dựa trên số câu hỏi mà khách hàng đã trả lời đúng (Johnson và Russo, 1984). Trong trường hợp này kiến thức được đo bằng kiến thức thực tế của khách hàng, tức là kiến thức khách quan của khách hàng.

2.2. Sự tự tin của khách hàng về kiến thức tài chính

Xia và cộng sự (2014) xác định sự tự tin về kiến thức tài chính của khách hàng bằng cách so sánh giữa kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Tình trạng tự tin quá mức (overconfidence) xuất hiện khi kiến thức chủ quan của khách hàng lớn hơn kiến thức khách quan. Tức là khách hàng tự cảm nhận họ biết nhiều hơn kiến thức thực sự mà họ biết. Ngược lại, nếu kiến thức chủ quan thấp hơn kiến thức khách quan, khi đó khách hàng được coi là kém tự tin (underconfidence) về kiến thức tài chính. Tức là những khách hàng này mặc dù thực tế họ hiểu biết thực sự về kiến thức tài chính, nhưng họ lại nghĩ rằng kiến thức tài chính của họ không tốt. Chẳng hạn, khi trả lời các câu trắc nghiệm về các điều kiện vay vốn, về lãi suất ngân hàng thì một khách hàng trả lời đa số là đúng. Nhưng khi được hỏi rằng, khách hàng có nghĩ họ là người thành thạo về dịch vụ cho vay của ngân hàng không thì họ lại đánh giá thấp về hiểu biết của mình đối với dịch vụ cho vay của ngân hàng.

3. Tác động của sự tự tin về kiến thức tài chính đến hành vi khách hàng

3.1. Tác động của kiến thức tài chính tới hành vi ra quyết định của khách hàng

Cả hai kiến ​​thức chủ quan và khách quan đều ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định.

Kiến ​​thức khách quan tác động đến khả năng và động cơ tìm kiếm thông tin (Brucks, 1985), xử lí thông tin (Cowley và Mitchell, 2003; Hong và Sternthal, 2010; Lee và Lee, 2011) và đánh giá thông tin liên quan (De Bont và Schoormans, 1995; Herr, 1989; Roy và Cornwell, 2004). Cụ thể, khi khách hàng có kiến thức khách quan tốt họ sẽ xử lí và đánh giá các thông tin một cách hiệu quả hơn, từ đó có thể nâng cao hiệu quả quyết định của họ. Rao và Monroe (1988) cho rằng, kiến ​​thức khách quan có ảnh hưởng đến lựa chọn của khách hàng đối với các thuộc tính bên ngoài như giá cả, bảo hành… trong quyết định mua hàng. Chẳng hạn, khách hàng sẽ có khả năng ra quyết định nhanh hơn khi họ có các thông tin về giá cả và các điều kiện bảo hành của sản phẩm. Rudell (1979) phát hiện ra rằng, kiến ​​thức khách quan giúp khách hàng tìm kiếm được thông tin mới một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, khi khách hàng có kiến thức khách quan tốt về sản phẩm, họ sẽ tìm kiếm thông tin liên quan đến sản phẩm hiệu quả hơn và tự tin hơn trong việc đưa ra lựa chọn đúng đắn (Johnson và Russo, 1984; Brucks, 1985; Carlson và cộng sự, 2009). Ngoài ra, Hadar và cộng sự (2013) cho thấy, khi kiến ​​thức khách quan về dịch vụ tài chính của khách hàng tăng sẽ làm tăng hiệu quả lựa chọn của họ.

Kiến thức chủ quan đóng một vai trò quan trọng trong giải quyết vấn đề (Metcalfe, 1986). Kiến ​​thức chủ quan cao sẽ góp phần làm tăng sự tin cậy vào thông tin trước đó được lưu trữ trong bộ nhớ của khách hàng. Khi có kiến thức chủ quan cao, khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin ít hơn vì họ nghĩ rằng đã có đủ thông tin cần thiết. Có thể thấy, kiến thức chủ quan ảnh hưởng đến sự tự tin lựa chọn (Park và ​​Lessig, 2003), thời gian ra quyết định (Park và ​​Lessing, 2003), đánh giá chất lượng dịch vụ (Andaleeb và Basu, 1994), chiến lược tìm kiếm sản phẩm (Moorman, Diehl, Brinberg và Kidwell, 2004), giá trị cảm nhận (Barrutia và Gilsanz, 2012).

Như vậy, các loại kiến ​​thức có những tác động khác nhau đối với việc ra quyết định. Quá trình ra quyết định của người tiêu dùng từ lựa chọn thuộc tính sản phẩm thông qua tìm kiếm thông tin đến kết quả quyết định cuối cùng, chẳng hạn như nhận thức được sự nhầm lẫn trong quá trình thực hiện có thể là kết quả của các loại kiến ​​thức khác nhau (Brucks, 1985). Rõ ràng là việc ra quyết định của khách hàng phụ thuộc vào mức độ hiểu biết của họ. Do đó, việc nhận thức được tác động của kiến ​​thức khách hàng đối với hành vi trong sử dụng dịch vụ tài chính là hết sức quan trọng đối với các nhà quản lí các tổ chức tài chính.

3.2. Ảnh hưởng của sự tự tin đến quyết định của khách hàng

Sự tự tin của khách hàng có ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Khách hàng ở các trạng thái tự tin khác nhau sẽ có những quyết định khác nhau. Đồng thời hiệu quả của các quyết định này cũng bị ảnh hưởng bởi sự tự tin của khách hàng. Tự tin quá mức hay kém tự tin đều dẫn đến những hệ quả như phân bổ các nguồn lực cho việc ra quyết định, kém hiệu quả trong các quyết định.

(i) Ảnh hưởng của tự tin quá mức

Tự tin quá mức làm cho khách hàng không sử dụng tối ưu các nguồn lực trong quá trình ra quyết định mua hàng. Chẳng hạn, khi khách hàng quá tự tin dẫn đến ít nỗ lực trong tìm kiếm thông tin (Alba và Hutchinson, 2000), những khách hàng quá tự tin nghĩ rằng, họ đã có đủ thông tin và không có động cơ tìm kiếm thêm thông tin (Radecki và Jaccard, 1995). Vì vậy, trong nhiều trường hợp, các quyết định của khách hàng không hiệu quả, họ có thể mua một loại cổ phiếu mà không tăng trưởng trong tương lai hoặc sử dụng các món vay mà họ khó có khả năng trả nợ trong thời gian đã cam kết.

Khách hàng quá tự tin thường thực hiện những “hành động một cách tự phụ”, tức là ra quyết định đối với những hành động rất khó thực hiện (Pillai và Hofacker, 2007), vì họ nghĩ rằng họ có đủ kiến thức để xử lí các hành động này. Hành động tự phụ có thể dẫn đến các quyết định mua hàng không phù hợp (Alba và Hutchinson, 2000; Hansen và Thomsen, 2013; Kidwell, Hardesty và Childers, 2008). Chẳng hạn, khách hàng có thể mua những sản phẩm hoặc sử dụng các dịch vụ mà không thực sự cần thiết hoặc không phù hợp với nhu cầu. Một số khách hàng vì quá tự tin nên có thể mua nhiều gói bảo hiểm không thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, một số khách hàng có thể có những quyết định đầu tư mạo hiểm không hiệu quả (Hadar, Sood và Fox, 2013). Các hành động này thường mang lại sự thất vọng hoặc không hài lòng khi khách hàng không đạt được kết quả như mong muốn (Pillai và Hofacker, 2007). Khi khách hàng quá tự tin họ thường đặt kì vọng cao. Lí do là họ nhận thức không chính xác rằng có đủ kiến thức khách quan để đạt kết quả cao. Vì vậy, khi kết quả đầu tư không như kì vọng họ sẽ cảm thấy thất vọng.

(ii) Ảnh hưởng của kém tự tin

Khách hàng thiếu tự tin nghĩ rằng, kiến thức của họ không đủ để thực hiện việc ra quyết định, vì vậy, họ nỗ lực nhiều hơn để khắc phục tình trạng kém tự tin. Họ có thể dành nhiều thời gian để tìm kiếm thông tin. Việc tìm kiếm quá nhiều thông tin dẫn đến việc ra quyết định chậm chạp. Ngoài ra, việc sử dụng quá mức thời gian để tìm kiếm thông tin có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực như sự thất vọng (Pillai và Hofacker, 2007). Sự thất vọng này thể hiện ở việc khi có quá nhiều thông tin họ không biết nên ra quyết định như thế nào cho đúng. Một số người sau khi ra quyết định lại cảm thấy hối tiếc vì các quyết định của mình.

Khách hàng kém tự tin sẽ hành động một cách rụt rè (tức là tham gia vào các hành động quá dễ thực hiện) do thực tế họ nghĩ rằng họ không có đủ kiến thức để tham gia vào các quyết định khó hơn (Pillai và Hofacker, 2007). Khi tham gia vào các quyết định dễ dàng, kết quả của quyết định thường là những kết quả khiêm tốn. Chính vì vậy, khi thu nhận kết quả, họ có thể cảm thấy không hài lòng (Puligadda và cộng sự, 2010).

4. Khuyến nghị đối với các tổ chức tài chính

Kiến thức và sự tự tin có ảnh hưởng rõ ràng tới hành vi ra quyết định và hiệu quả ra quyết định của khách hàng, vì vậy, các tổ chức tài chính cần có những biện pháp phù hợp để nâng cao kiến thức, đồng thời cân bằng mức độ tự tin của khách hàng. Cụ thể, các tổ chức tài chính cần thực hiện đồng bộ ba biện pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao kiến thức chủ quan của khách hàng

Khi có kiến thức chủ quan cao, khách hàng có thể nhanh chóng thực hiện các quyết định sử dụng dịch vụ tài chính. Vì vậy, để có thể thu hút khách hàng sử dụng các dịch vụ cần nâng cao kiến thức chủ quan của khách hàng. Điều này có thể đạt được bằng việc các tổ chức tài chính cung cấp nhiều trải nghiệm tích cực hơn cho khách hàng. Từ những trải nghiệm này, khách hàng sẽ có cảm giác tự tin hơn đối với các dịch vụ tài chính, từ đó, nâng cao kiến thức chủ quan và thúc đẩy họ ra các quyết định sử dụng dịch vụ.

Trải nghiệm khách hàng được hình thành từ tất cả các tương tác của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ tài chính. Chẳng hạn, đối với dịch vụ ngân hàng, trải nghiệm của khách hàng chính là những cảm nhận qua các tương tác với quá trình cung cấp dịch vụ, đồng thời là kết quả của tất cả các quá trình tiếp cận, tìm hiểu, thực hiện giao dịch với cán bộ ngân hàng ở các bộ phận, các kênh khác nhau, bao gồm cả kênh giao dịch trực tiếp lẫn kênh giao dịch trực tuyến như POS, ATM… Có thể thấy, bất kì một tương tác nào giữa khách hàng với ngân hàng đều hình thành nên những trải nghiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Chẳng hạn khi cán bộ ngân hàng hướng dẫn khách hàng đăng kí hay thực hiện giao dịch trên giao diện ngân hàng điện tử; cán bộ ngân hàng tư vấn khách hàng lựa chọn dịch vụ tiền gửi với kì hạn và lãi suất tối ưu; nhân viên giao dịch tổng đài khi trả lời khách hàng… mỗi tương tác như vậy đều tạo ra những cảm nhận trải nghiệm của khách hàng. Nếu khách hàng gọi đến tổng đài của ngân hàng nhưng nhân viên trả lời với giọng điệu tẻ nhạt, không cảm xúc hay trong trường hợp khách hàng tìm kiếm mạng lưới phòng giao dịch trên website của ngân hàng nhưng không thấy phòng giao dịch tại nơi mình cần tìm do website không được cập nhật thường xuyên có thể tạo ra những trải nghiệm tiêu cực đối với khách hàng. Những tương tác của khách hàng với ngân hàng rất đa dạng, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là ngân hàng không quản lí được các trải nghiệm này. Khách hàng khi có những trải nghiệm tích cực đối với ngân hàng thì sẽ tự tin hơn trong các lần giao dịch tiếp theo, từ đó thúc đẩy họ sử dụng dịch vụ. Các ngân hàng nếu ý thức được tổng thể các tương tác này thì có thể có cách quản lí phù hợp, nâng cao trải nghiệm tích cực cho khách hàng.

Thứ hai, nâng cao kiến thức khách quan của khách hàng

Nâng cao kiến thức khách quan của khách hàng đồng nghĩa với nâng cao hiểu biết về tài chính của khách hàng. Hiểu biết về tài chính đã nhận được sự quan tâm ngày càng tăng trên khắp thế giới ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Từ năm 2007 đến năm 2011, Chính phủ Indonesia đã triển khai một loạt chương trình nâng cao hiểu biết về tài chính với mục tiêu là cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính. Vào tháng 01/2010, Chính phủ Hoa Kì đã thành lập hội đồng cố vấn của Tổng thống về kiến thức tài chính, chịu trách nhiệm thúc đẩy các chương trình nhằm tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính và thúc đẩy giáo dục tài chính ở tất cả các cấp của nền kinh tế. Tương tự, ở Úc, các chương trình hiểu biết về tài chính đã được thực hiện bởi cả Chính phủ và các tổ chức tài chính. Chiến lược Kiến thức tài chính quốc gia 2014 - 2017 do Ủy ban Đầu tư và Chứng khoán Úc đứng đầu, vạch ra một kế hoạch quốc gia về kiến ​​thức tài chính và đề xuất một khuôn khổ hành động thiết thực cho các lĩnh vực cộng đồng và giáo dục, doanh nghiệp và Chính phủ. Mục tiêu tổng thể của Chiến lược là cải thiện kiến ​​thức về tài chính của người Úc. Các tổ chức tài chính Úc cũng cung cấp các chương trình giáo dục tài chính. Từ năm 2004 đến năm 2008, hơn 1,75 triệu AUD đã được Ngân hàng Commonwealth đầu tư vào để nâng cao kiến ​​thức tài chính cho các trường trung học ở Úc, phân phối miễn phí một bộ tài liệu giáo dục hỗ trợ giáo viên cải thiện khả năng quản lí tài chính của học sinh. New Zealand xây dựng Chiến lược quốc gia về kiến thức tài chính (2008).

Tại Việt Nam, Chính phủ đã có những nỗ lực thúc đẩy giáo dục tài chính toàn diện cho người dân thông qua Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh chính sách của Chính phủ, các tổ chức tài chính cần tăng cường những hoạt động cung cấp kiến thức tài chính cho khách hàng. Cụ thể, các tổ chức tài chính có thể chủ động phối hợp với các trường học để cung cấp những khóa học về tài chính cho học sinh ở tất cả các cấp, đặc biệt là cấp học phổ thông. Với những kiến thức tốt về tài chính, học sinh sẽ tự tin khi tham gia các giao dịch, từ đó thúc đẩy hành vi sử dụng dịch vụ tài chính.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả ra quyết định của khách hàng

Có thể thấy, việc khách hàng quá tự tin hay kém tự tin có thể ảnh hưởng việc ra quyết định của họ. Do vậy, các tổ chức tài chính cần cân bằng được sự tự tin của khách hàng bằng cách đồng thời thực hiện hai chiến lược nâng cao trải nghiệm cho khách hàng và cung cấp kiến thức tài chính cho khách hàng. Bởi vì, nếu chỉ tập trung cung cấp một trong hai nội dung trên sẽ dẫn đến tình trạng khách hàng tự tin thái quá (trường hợp chỉ cung cấp trải nghiệm mà ít cung cấp kiến thức/thông tin) hoặc kém tự tin (trường hợp chỉ cung cấp kiến thức mà không cung cấp các trải nghiệm). Việc cân bằng được sự tự tin sẽ làm giảm thiểu những sai sót trong quyết định, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các dịch vụ tài chính của khách hàng.

5. Kết luận

Kiến thức và sự tự tin có ảnh hưởng lớn đến quyết định của khách hàng. Để nâng cao kiến thức và sự tự tin của khách hàng, các tổ chức tài chính trước hết cần hiểu được tác động của các yếu tố này đến hành vi ra quyết định. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra những chiến lược phù hợp để nâng cao kiến thức và sự tự tin nhằm thúc đẩy ra quyết định, đồng thời nâng cao hiệu quả ra quyết định của khách hàng. Điều đó cũng đồng nghĩa nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính.

Tài liệu tham khảo:

1. A. Demirgüç-Kunt, L. Klapper, D. Singer, P. Van Oudheusden (2015), Measuring Financial Inclusion Around the World (Policy Research Working Paper No. 7255) The World Bank, Washington, DC.

2. Alba, J. W. & Hutchinson, J. W. (2000). Knowledge calibration: What consumers know and what they think they know. Journal of Consumer Research, 27, pages 123-156.

3. Alba, J. W., & Hutchinson, J. W. (2000). Knowledge calibration: What consumers know and what they think they know. Journal of Consumer Research, 27, pages 123-156.

4. Andaleeb, S. S., & Basu, A. K. (1994). Technical complexity and consumer knowledge as moderators of service quality evaluation in the automobile service industry. Journal of Retailing, 70, pages 367-381.

5. Atkinson, A. and F. Messy (2013), “Promoting Financial Inclusion through Financial Education: OECD/INFE Evidence, Policies and Practice”, OECD Working paper.

6. Barrutia, J. M., & Gilsanz, A. (2012). Electronic service quality and value: Do consumer knowledge-related resources matter? Journal of Service Research, 16, pages 231-246.

7. Brucks, M. (1985). The effects of product class knowledge on information search behavior. Journal of Consumer Research, 12, pages 1-16.

8. Carlson, J. P., Vincent, L. H., Hardesty, D. M. & Bearden, W. O. (2009). Objective and subjective knowledge relationships: a quantitative analysis of consumer research findings. Journal of Consumer Research, 35, pages 864-876.

9. Cordell, V.V. (1997). Consumer knowledge measures as predictors in product evaluation. Psychology & Marketing, 14(3), pages 241-260.

10. Cowley, E., & Mitchell, A. A. (2003). The moderating effect of product knowledge on the learning and organization of product information. Journal of Consumer Research, 30, pages 443-454.

11. De Bont, C. J. P. M., & Schoormans, J. P. L. (1995). The effects of product expertise on consumer evaluations of newproduct concepts. Journal of Economic Psychology, 16, pages 599-615.

12. Hadar, L., Sood, S. & Fox, C. R. (2013). Subjective Knowledge in Consumer Financial Decisions. Journal of Marketing Research, 50, pages 303-316.

13. Hansen, T., & Thomsen, T. U. (2013). I know what I know, but I will probably fail anyway: How learned helplessness moderates the knowledge calibration-dietary choice quality relationship. Psychology & Marketing, 30, pages 1008-1028.

14. Herr, P. M. (1989). Prior knowledge and context effects. Journal of Consumer Research, 16, pages 67-75

15. Hong, J., & Sternthal, B. (2010). The effects of consumer prior knowledge and processing strategies on judgments. Journal of Marketing Research, 47, pages 301-311.

16. Johnson, E. J. & Russo, J. E. (1984). Product familiarity and learning new information. Journal of Consumer Research, 11, pages 542-550.

17. Kidwell, B., Hardesty, D. M., & Childers, T. L. (2008). Emotional calibration effects on consumer choice. Journal of Consumer Research, 35, pages 611-621.

18. Lee, B. K., & Lee, W. N. (2011). Competitive ad context: The item-specific-relational perspective. Psychology & Marketing, 28, pages 360-387.

19. Metcalfe, J. (1986). Feeling of knowing in memory and problem solving. Journal of Experimental Psychology: Learning, Memory, and Cognition, 12, 288.

20. Moorman, C., Diehl, K., Brinberg, D., & Kidwell, B. (2004). Subjective knowledge, search locations, and consumer choice. Journal of Consumer Research, 31, pages 673-680.

21. Park, C. W., & Lessig, V. P. (2003). Familiarity and its impact on consumer decision biases and heuristics. Journal of Consumer Research, 8, pages 223-231.

22. Pillai, K. G., & Hofacker, C. (2007). Calibration of consumer knowledge of the web. Journal of Research in Marketing, 24, pages 254-267.

23. Puligadda, S., Grewal, R., Rangaswamy, A., & Kardes, F. R. (2010). The role of idiosyncratic attribute evaluation in mass customization. Journal of Consumer Psychology, 20, pages 369-380.

24. Radecki, C. M., & Jaccard, J. (1995). Perceptions of knowledge, actual knowledge, and information search behavior. Journal of Experimental Social Psychology, 31, pages 107-138.

25. Raju, P. S. & Reilly, M. D. (1980). Product familiarity and information processing strategies: An exploratory investigation. Journal of Business Research, 8, pages 187-212.

26. Raju, P. S., Lonial, S. C. & Glynn Mangold, W (1995). Differential effects of subjective knowledge, objective knowledge, and usage experience on

decision making: An exploratory investigation. Journal of Consumer Psychology, 4, pages 153-180.

27. Rao, A. R. & Monroe, K. B. (1988). The moderating effect of prior knowledge on cue utilization in product evaluations. Journal of Consumer

Research, 15, pages 253-264.

28. Roy, D. P., & Cornwell, T. B. (2004). The effects of consumer knowledge on responses to event sponsorships. Psychology & Marketing, 21, pages 185-207.

29. Rudell, F. 1979. Consumer food selection and nutrition information, Praeger New York.

30. Vigneron, F. and Johnson, L.W. (1999) A Review and Conceptual Framework of Prestige Seeking Consumer Behavior. Academy of Marketing Science Review, 1, pages 1-15.

31. Xia, T., Wang, Z., and Li, K. (2014). Financial literacy overconfidence and stock market participation. Social Indicators Research, 119(3): pages 1-13.


TS. Nguyễn Hoài Nam
Học viện Ngân hàng

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Chính sách tiền tệ đòi hỏi sự linh hoạt và sự kết hợp của nhiều biện pháp khác nhau, tương tự như nghệ thuật chiến tranh được mô tả trong chuyên luận nổi tiếng của Tôn Tử. Các ngân hàng trung ương (NHTW) có thể học được điều gì đó từ một chiến lược gia người Trung Quốc sống cách đây hơn 2.500 năm. Bài viết giới thiệu sáu nguyên tắc chiến lược được vận dụng tư tưởng của Tôn Tử dành cho các NHTW, được đề xuất bởi Giáo sư Kristin Forbes - Trường Quản lý Sloan thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), nhằm qua đó, giúp họ quản lý hiệu quả các khủng hoảng và duy trì sự ổn định kinh tế.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc